Chương 2
Sáng thức giấc giữa đêm và chợt thấy góc nhà có những vệt sáng lân tinh như ma trơi. “Cái quái gì thế nhỉ?”. Sáng tự hỏi rồi dụi mắt nhìn. Chả nhận ra cái gì cả. Lấy bật lửa bật lên soi thì những vệt lân tinh biến mất, nhưng Sáng nhận ra ở góc nhà là đám nấm rừng mà mấy đứa tân binh cùng nhóm với Sáng vừa hái được hồi chiều trong rừng. Sáng tắt bật lửa, chờ một lúc cho bóng tối phủ kín cả căn nhà thì những vệt lân tinh lại mờ mờ xuất hiện. Sáng định thần một lúc mới dám chắc những vệt lân tinh là từ những chiếc nấm phát ra. Sáng chợt thốt lên, nấm độc và người bỗng sởn gai ốc. Ôi chao, nếu như lúc chiều không vì ngại xuống bếp anh nuôi tiểu đoàn tít xa dưới chân dốc cạnh suối những hơn hai trăm bậc mượn nồi về để xào đám nấm này ăn thì cả mấy thằng tân binh chắc ngộ độc mà đi chầu Diêm Vương cả lũ rồi.
Rừng già luôn luôn huyền bí và chứa đựng vô vàn những điều lạ không dễ gì lý giải. Hầu như tất cả những người lính miền Bắc, nhất là ở các tỉnh đồng bằng khi vào tới chiến trường mới bắt đầu biết tới rừng già. Càng đi càng thấy bao nhiêu điều lạ. Cái gì cũng muốn hỏi và câu trả lời thường là của những anh lính người dân tộc, sau đó mới đến những người lính cũ đã ở rừng nhiều năm. Càng sống lâu trong rừng thì càng biết nhiều thêm. Nhưng đúng như một câu ngạn ngữ, “người ta chỉ có thể biết nhiều hay biết ít chứ không bao giờ là biết được hết”.
Sáng không ngủ tiếp được mà cứ trằn trọc bởi những suy nghĩ trong đầu cứ theo nhau tuôn chảy. Càng nghĩ về đám nấm độc phát lân tinh để trong góc nhà, Sáng càng thấy những suy nghĩ trước đây của mình về rừng, về sự từng trải của mình thực ra còn quá non nớt. Giữa những đồng đội cùng nhập ngũ từ quê hương Nam Hà, Sáng nổi trội lên với tuổi hai mươi, già dặn hơn những người lính khác tới hai, ba tuổi. Và vượt lên trên tất cả, hầu hết cánh tân binh ra đi từ đồng ruộng, nhiều đứa cầm cày theo trâu còn chưa vững và chủ yếu mới chỉ học xong cấp hai thì Sáng đã học hết lớp 10, đã có hai năm lăn lộn kiếm sống trên rừng và sông nước.
Vào đơn vị huấn luyện, Sáng được cử luôn làm tiểu đội phó vì cứng tuổi hơn. Chủ yếu là để cùng quản lý và nhắc nhở anh em trong tiểu đội, chứ về kiến thức quân sự thì chả hơn anh em khác được một ly. Năm tháng trời huấn luyện cũng phải tập tành và rèn luyện như tất cả những người lính khác trong đơn vị. Rèn luyện trong kỷ luật thôi chứ cuộc sống trong những ngày huấn luyện chưa thể gọi là gian khổ. Câu ca nôm na về đời lính “ăn cơm ba bữa, quần áo mặc suốt ngày” cộng với tiêu chuẩn ăn 21 cân gạo một tháng cùng hai cân bảy thịt là quá cao so với cuộc sống ở nhà. Tháng cuối cùng trước khi đi chiến trường còn được ăn tiêu chuẩn 27 cân gạo. Gấp đôi tiêu chuẩn cán bộ nhà nước khi đó. Sức trai, lại tập tành cả ngày nên đến bữa lính ta chén hết bay mọi thứ. Chỉ phàn nàn một nỗi là giữa vùng đồng bằng trù phú thế mà rau xanh lại chỉ có món bí đỏ là chủ lực. Hậu cần cấp trên chở về cho bếp đại đội một xe tải toàn bí ngô. Lần đầu ăn còn thấy hay hay, sang đến xe tải thứ hai chở về cũng toàn bí ngô vào tháng tiếp theo thì ngao ngán quá. Chỉ mong được đổi bữa lấy rau, lấy đậu cho nó đỡ ngán. Tuy vậy nhưng lính tráng cũng chẳng bỏ thừa bữa bí ngô nào. Bí ngô có rất nhiều chất bổ, cơm nhiều nên sau mấy tháng huấn luyện ai cũng lên cân. Có tân binh tăng tới dăm cân khiến cho người nhà lên đơn vị thăm phải xuýt xoa mừng rỡ. Cậu Tảo cùng tiểu đội với Sáng cũng là thằng phổng phao lên nhờ mấy tháng ăn cơm đơn vị.
Cùng xã với Sáng có dăm đứa cùng nhập ngũ. Vào đơn vị bị xé lẻ ra mỗi đứa một tiểu đội, thậm chí có đứa khác đại đội. Đây là một cách làm của quân đội để tránh chuyện lính tráng bè phái và cũng để tạo cho lính mới có được sự hòa nhập với tập thể lớn. Nhưng dun dủi thế nào mà Tảo, cái thằng thấp bé nhẹ cân nhất trong mấy đứa cùng xã lại được về cùng tiểu đội với Sáng. Cậu này hiền và ngoan, sức khỏe có yếu một chút nhưng rất chăm chỉ. Sáng hỏi thăm hoàn cảnh thấy nhà nó neo người, bố mất sớm chỉ còn mẹ và một chị gái nên coi nó như em. Tập tành, học tập hay công tác gì cũng chú ý bảo ban nó. Ngay cả đến bữa cũng bảo nó ngồi cùng mâm để nhắc nó ăn. Tảo quý Sáng lắm, coi như anh trai, cái gì thấy lạ cũng hỏi anh Sáng.
Có lần Tảo nắm tay Sáng và nói:
“Nếu sau này hết chiến tranh trở về, anh làm anh rể em nhé”.
Sáng gí ngón tay vào trán nó, cười bảo: “Mày cứ làm như có quyền gả chị cho anh không bằng”. Chỉ vậy thôi. Sáng không muốn tán chuyện thêm, cũng không nói cho Tảo biết mình đã có người hò hẹn rồi. Dù sao cũng ghi nhận cái tình cảm tốt đẹp của cậu em. Đất nước có chiến tranh, tất cả cho tiền tuyến nên hình như mọi chuyện khác trên đời đều đơn giản. Người ta dễ dàng kết thân với nhau và dễ dàng trong chuyện tình cảm. Thậm chí còn là an phận nữa kia. Sáng thấy ngay trong xã mình, có mấy anh lớn tuổi hơn, thương binh về làng chỉ sau độ chừng một hai tháng đều đã lấy được vợ. Trai tráng trong làng hầu như không còn vì vừa kịp lớn đã phải nhập ngũ rồi. Chỉ còn các bậc trung niên cùng mấy thương binh. Mọi công việc đồng áng, dù có nặng như chuyện cày bừa nay cũng đã chuyển giao hết cho phụ nữ. Đâu đâu cũng thấy hô hào phong trào “ba đảm đang”. Không chỉ vậy, nữ thanh niên còn phải tham gia dân quân, làm chòi canh trực chiến ngoài đồng. Ở vài xã to to một chút, trung đội dân quân gái được trang bị cả súng phòng không 12 ly 7. Còn lại toàn súng trường K-44, một loại súng chủ lực từ thời chiến tranh thế giới thứ hai, bắn phát một mà nay quân đội không còn dùng nữa. Chả biết liệu có bắn được cái máy bay Mỹ nào không.
Năm tháng huấn luyện, lớp tân binh cùng Sáng học bắn đủ ba bài súng AK cơ bản. Chỉ bắn AK thôi chứ không được bắn trung liên RPĐ, vì không có khoa mục bắn súng loại này. Còn súng chống tăng B-40 có nghe nói đến nhưng cũng chưa ai được nhìn thấy vì không có để học. Tiếp theo là học ném lựu đạn. Khi kiểm tra mỗi người được ném một quả lựu đạn chày của Trung Quốc, cán gỗ dài. Lúc ném đi nó cứ bay ngủng ngà ngủng ngoẳng, chỉ cố ném xa thôi chứ khó chính xác. Tiếp theo lại được học cả ném thủ pháo và đánh bộc phá. Học cả cách gắn dây cháy chậm, nụ xòe và bấm kíp, nhưng đến khi chuẩn bị kiểm tra thật thì các cán bộ khung là trung đội trưởng phải làm thay. Chiến sĩ chỉ việc thao tác giật nụ xòe và ném thôi. Thế mà hôm thực hành cả thao trường cũng náo nhiệt ra phết, cảm giác như xem trong phim chiến đấu sống động. Ngoài chuyện học bắn súng và ném lựu đạn thủ pháo, cánh lính tân binh còn được học thêm khoa mục chiến thuật, chiến đấu theo đội hình tiểu đội và trung đội. Tiếp đó là học đào công sự, đào giao thông hào. Không phải làm loại hầm có nắp mà chỉ là hố chiến đấu. Phần cuối cùng phải rèn luyện bền bỉ nhất trong suốt mấy tháng huấn luyện là hành quân mang vác nặng. Yêu cầu mang được đủ 30 cân trên vai và tổng số đường hành quân rèn luyện trong mấy tháng tập tành là vài trăm cây số. Mỗi chiến sĩ đều phải nặn sáu cục đất, mỗi cục năm cân. Thoạt đầu là đeo bốn cục rồi sau này cứ tăng dần cho đủ sáu cục. Được cái toàn là lính nông thôn quen lao động nặng nhọc và vất vả từ ở nhà nên cũng dễ dàng rèn luyện được khoa mục này, không mấy khi bị cán bộ khung nhắc nhở hay chê trách. Mà ngay cánh tân binh, ai cũng hiểu rằng nếu lười không chịu rèn luyện thì sau này vào chiến trường, mình sẽ gục ngã trước.
Riêng chuyện kỷ luật thì có phần phức tạp hơn. Chiến sĩ xuất thân từ nông thôn thuần hơn thành phố, song vẫn có chuyện đàn đúm và bè cánh theo xã, bắt nạt kẻ khác. Rồi cáo ốm để nghỉ tập hay bỏ gác. Ngại nhất là chuyện ngày chủ nhật, mang tiếng được nghỉ nhưng lần nào cũng phải một nửa quân số vào rừng kiếm củi hay đi xin tre của dân về sửa lán trại. Các đợt tân binh cứ đóng mãi một nơi, đường lên rừng lấy củi cứ phải đi xa và đi sâu dần. Gần hai chục cây số cả đi lẫn về kèm thêm thời gian tìm và chặt củi bó vác về, mất nguyên một ngày trời cật lực và vất vả. Chuyện xin tre của dân cũng không dễ gì. Mỗi chủ nhật cộng lại trong cả tiểu đoàn có tới hơn trăm thằng phải đi xin tre. Hết đợt quân này đến đợt quân khác, xin mãi nên những bụi tre của dân cũng teo dần, mọc không kịp. Các lũy tre xanh, một đặc trưng của nông thôn Việt Nam đã đi vào thơ ca hay thế mà rồi cũng phải xơ xác dần. Tiếng là đang tập trung đánh Mỹ, toàn dân phải góp sức nhưng xem chừng cứ xin dân mãi cũng không ổn. Người dân họ cũng phải cần tre để sửa nhà của họ nữa chứ.
Nhưng chuyện đáng nói hơn cả lại là chuyện đào ngũ. Thực chất là bỏ trốn về thăm nhà mấy ngày rồi lại lên đơn vị và chịu nhận kỷ luật, không phải là đầu hàng địch, mà sao các thủ trưởng cứ khăng khăng gọi là “đào ngũ”. Thôi thì gọi sao cũng được, lính tráng chả thắc mắc làm gì, chữ nghĩa cũng chỉ hết cấp hai là chính, thầy cô dạy gì thì biết cái đấy. Vào bộ đội chỉ một thời gian ngắn mà chả hiểu sao lính tráng đã truyền nhau cái câu ca nói về cảnh lính đào ngũ, chả biết do ai sáng tác và có tự bao giờ: “Hà chuồn, Nam lủi, Thái Bình bay. Đất Thánh hiên ngang “tút” ban ngày”.
Cái từ “tút” ấy là tiếng lóng chỉ chuyện bỏ trốn khỏi đơn vị, nghe mãi rồi quen. Đương nhiên câu ca trên là đúng vì trong thời gian huấn luyện, số lính tráng tút về nhà chơi mấy ngày rất nhiều. Không phải cùng lúc mà cứ rải rác, bữa nay mấy thằng, mấy bữa sau lại là vài thằng khác. Có lẽ phải chiếm tới gần nửa đơn vị cũng nên vì họ bảo nhau, không tút cũng thiệt. Đằng nào mà rồi cuối cùng chả phải vào Nam chiến đấu, lúc ấy sẽ hòa cả làng. Chỉ có những thằng nào hiền lành mới không tút. Nhưng những anh tút về cũng chả sung sướng gì. Về nhà hôm trước, hôm sau xã đội đã cử người đến nhà nhắc nhở rồi động viên trở lại đơn vị ngay. Lên tới đơn vị lại phải thức suốt đêm học thuộc 10 lời thề và 12 điều kỷ luật. Lại tốn củi đốt giữa sân để châu đầu quanh nhau ngồi học dưới sự giám sát của tiểu đội trưởng. Ai đọc thuộc trôi chảy mới được vào lán ngủ. Chưa thuộc thì phải ngồi tới tận lúc có kẻng báo thức sáng, rồi đến đêm tiếp theo sau giờ sinh hoạt tối lại phải học tiếp. Vì thế hầu như anh nào có tút cũng chỉ dám một lần. Hiếm có thằng nào tút tới hai lần. Sáng đã quen cảnh sống xa nhà sau mấy năm làm ăn sông nước mạn ngược, nên bây giờ sống tập thể cũng quen và dễ hòa nhập. Thấy cậu Tảo mấy lần hỏi Sáng: “mình có tút về mấy hôm không anh?”. Sáng xoa đầu động viên nó: “Chịu khó rèn luyện em ạ. Sau này chắc thể nào chả có dịp về phép trước khi đi Nam”. Lúc ấy Sáng chỉ nói để động viên Tảo, vì cứ nghĩ đến cảnh Tảo cũng bị ngồi thức đêm học mấy lời thề và điều kỷ luật quân đội thì thật không an lòng. Thật may là điều Sáng nói để động viên Tảo lại trở thành sự thật.
Qua thời gian, rồi dần dần những chàng nông dân mặc áo lính cũng quen dần nền nếp kỷ luật quân đội và đủ điều kiện để đi chiến trường. Sau năm tháng huấn luyện, đợt tân binh của Sáng được về phép năm ngày. Nghe các thủ trưởng nói, đợt này may mắn lắm đấy vì không phải đợt huấn luyện nào cũng được về phép. Có đợt mới chỉ huấn luyện được có ba tháng, học bắn chưa đủ ba bài súng AK, chưa được sờ vào lựu đạn lần nào thì đã phải lên đường vào chiến trường. Tất cả là do yêu cầu của tiền tuyến, có muốn so bì cũng chẳng được.
Năm ngày phép, thế mà trong đơn vị cũng có vài đứa kịp lấy vợ. Theo luật thì như thế là tảo hôn, nhưng thời chiến nên nhiều chuyện cũng phải cho qua. Đó thường là với những gia đình chỉ có một con trai, còn lại toàn thị mẹt và các bậc cha mẹ muốn có cháu nối dõi tông đường. Sáng đã 20 tuổi, cũng thuộc dạng có thể lấy vợ được, nhưng người yêu của Sáng đã đi thanh niên xung phong vào Trường Sơn từ hơn một năm rồi, trong những ngày Sáng đang còn làm lâm nghiệp trên Tây Bắc. Đợt về phép, Sáng cũng sang nhà Tảo chơi, có gặp chị gái cậu ta, nhưng cũng chỉ là thăm hỏi chung chung. Không thể dối lòng mình mà gieo một niềm tin vu vơ vào người con gái khác mà mình tin sẽ không phải là vợ mình. Nhưng chỉ như thế thôi cũng đủ để thằng Tảo mừng vui, quên cả chuyện mấy ngày nữa thôi đã trên đường vào Nam chiến đấu.
Trên đường hành quân vào Trường Sơn, cán bộ khung tiểu đội trưởng được quay ra Bắc nên Sáng được cử làm tiểu đội trưởng. Trên nữa có các trung đội phó dẫn quân vào đến Trường Sơn. Bắt đầu vào đến Trạm 5 thì mấy trung đội phó quay ra. Cán bộ khung chỉ còn mỗi Đại đội phó Hoàng Tuynh dẫn quân, trực tiếp chỉ huy đến từng tiểu đội. Ông phải dẫn quân vào tới tận chiến trường giao quân trực tiếp cho đơn vị chiến đấu. Thủ trưởng Tuynh người Khu Bốn, là dân vùng biển, xốc vác và hiền hậu. Thời huấn luyện ông chả có đặc điểm gì nổi bật, dĩ hòa vi quý, lúc nào cũng cười. Chưa thấy ông quát anh em bao giờ. Nhưng cả quãng đời lính của ông toàn làm công tác huấn luyện, chưa phải vào chiến trường chiến đấu lần nào, bao năm mà vẫn quân hàm chuẩn úy. Bởi thế ông cũng lo lắng và có phần ưu tư. Lo vì đã có trường hợp đơn vị chiến đấu do quá thiếu người nên thu nhận luôn cả cán bộ dẫn quân, không trả về Bắc nữa.
Công việc của tiểu đội trưởng như Sáng không có gì nhiều. Chỉ là kiểm tra quân số, phân công nhau mang vác lương thực, thực phẩm được cấp và động viên anh em giúp đỡ nhau dọc đường hành quân. Dạo huấn luyện lính tráng tút về thăm nhà nhiều như thế, vậy mà sau đợt nghỉ phép lại lên đơn vị tập trung đi Nam rất đông đủ, chả thiếu một ai. Có vẻ lính ta ai cũng xác định được trách nhiệm làm trai thời loạn của mình và biết tự giác nên việc quản lý quân của Sáng cũng nhàn. Thời gian hành quân trên Trường Sơn lính tân binh không phải tổ chức gác đêm. Mọi chuyện trên đường đi đã có giao liên của các binh trạm dẫn đường và sự chỉ huy chung của cán bộ đại đội. Vào Trường Sơn, Sáng có dịp soi lại những hiểu biết về rừng của mình trong hai năm trước.
Ngày ấy Sáng theo mấy anh lên tít mạn ngược sông Lô khai thác gỗ và tre nứa đóng bè chở về xuôi bán cho cánh lái buôn. Triền sông Lô không có nhiều sản vật bằng ở sông Hồng, luồng lạch cũng nhiều chỗ hiểm trở hơn, nhưng vùng này ít bị kiểm lâm soi xét. Các bến gỗ nứa khắp các triền sông Lô suốt từ Na Hang, Tuyên Quang, Sáng đều thuộc như lòng bàn tay. Nhiều ngày lênh đênh trên sông nước cánh lái buôn lấy bè làm nhà. Một cái lều tre nứa dựng trên bè trông lơ phơ như cái lán cỏ bên sông của một nhà hoạt động cách mạng bên nước Nga xa xôi. Che chắn sương đêm và nổi lửa đun ấm nước pha chè lúc bè trôi trên những đoạn sông phẳng lặng. Những anh uống rượu như nước và săn đám con gái dọc sông như một niềm vui thì Sáng lại tránh xa. Sáng chỉ uống rượu có chừng mực và hút thuốc lào, vui với mấy chén nước chè mỗi sáng nhìn ra mặt sông mờ sương. Mấy anh thường bảo:
“Đời sông nước nay đây mai đó, làm trai vẫy vùng khắp chốn đâu cần phải giữ gìn như tu hành vậy. Sướng lúc nào cứ biết lúc đó đi”.
Sáng nghe, chỉ cười cho qua chuyện. Những lúc dừng bè bên đoạn sông vắng để lên bờ mua đồ ăn, mua rượu, Sáng tình nguyện nằm coi bè cho mấy anh già lên bờ cả đêm. Thường sáng sớm hôm sau các anh mới lò dò xuống bè, có anh bơ phờ như mất ngủ cả đêm. Sông nước đã vậy mà lên rừng cũng có lắm cái hay, cái thú. Sáng ngắm nhìn những cây gỗ to trên rừng mà thợ gỗ cưa đổ, tỉa cành rồi kéo xuống sông kết bè. Thấy rừng Việt Nam phong phú thật, đúng là rừng vàng biển bạc. Gỗ quý nhiều tưởng khai thác mãi không hết. Nghe mấy bác thợ sơn tràng kể lại, ở mạn Tây Bắc những năm sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng, các đơn vị bộ đội ta lên rừng khai hoang để lấy đất trồng trọt rất nhiều.
Sáng còn nhớ có cả một bài hát về khai hoang đốn rừng ngày ấy, có câu:
“Cây đổ dồn vang như tiếng pháo, tiếng hò rộn vang cùng kéo gỗ, áo thấm bao mồ hôi nhưng lòng rộn bao niềm vui…”.
Gỗ quý đã vậy, mà tre nứa cũng bạt ngàn rừng là rừng. Khai thác tre nứa đưa về xuôi thứ nào cũng sẵn. Đóng bè nứa nhanh hơn bè gỗ, mỗi bè chừng hai, ba vạn cây, chỉ cần hai người chèo chống. Về xuôi bán tre nứa cũng nhanh hơn bán gỗ, tuy giá trị thấp hơn. Nhưng chả có vấn đề gì vì khai thác và đưa về xuôi nhanh hơn, quay vòng chuyến khác cũng nhanh hơn. Ngày ấy lúc xuôi về ngồi bè chứ lúc ngược thì chỉ có tay nải khoác vai và cuốc bộ. Lên rừng nhiều cũng quen được với nhiều người dân tộc, biết uống rượu cần, biết phong tục “ngủ ấm” của họ khi có khách quý nghỉ lại nhà vào đêm đông. Người không biết phong tục này lần đầu gặp phải, “ối” người hý hửng tưởng bở rồi mừng hụt. Rồi chuyện được ăn thịt thú rừng do người dân tộc săn bắn. Người dân tộc vùng cao chủ yếu chỉ có súng kíp tự tạo bắn đạn ghém, đạn ria săn chim và những con thú nhỏ. Nhưng dần dần rồi thú rừng cũng ít đi, phải vào trong rừng sâu núi cao mới có. Những khu rừng nguyên sinh chưa có chủ chỉ có người dân tộc là thạo. Nhưng săn bắn vốn là nghề kiếm sống của người dân tộc, nên họ vẫn đi săn trong rừng sâu, có khi vài người lập tốp đi tới mấy ngày. Cánh người Kinh dưới xuôi có lên cũng chỉ dám bám theo một đoạn. Vào vùng rừng núi lạ, sợ nhất là bị ngã nước. Thực chất chả ai biết chắc cái bệnh này là gì, chỉ quy cho nó là không hợp thông thổ. Có người nói nó giống với bệnh sốt rét, một loại bệnh đặc trưng của núi rừng, nơi có nhiều muỗi a-nô-phen truyền bệnh và nhiều vắt hút máu người.
Các đoàn tân binh hành quân trên Trường Sơn vào mùa khô rất đông. Chỉ có đi bộ thôi, theo các lối mòn do bộ đội Trường Sơn mở ra. Đường xe ô tô để vận chuyển hàng phải mở theo địa hình phù hợp và thường cách xa các lối mòn hành quân. Đó cũng là một cách làm bí mật quân sự và tạo sự an toàn cho các đoàn quân, bởi không quân Mỹ luôn tập trung đánh phá các tuyến đường vận tải của ta. Dù làm đường kiểu gì thì cũng không tránh khỏi những đoạn lộ thiên hoặc những nơi độc đạo. Vô hình trung, những nơi hiểm yếu như dốc núi, đèo cao hay bến vượt sông trở thành nơi trọng điểm, bị bom Mỹ đánh suốt ngày đêm và dùng cả “pháo đài bay” B-52 để rải thảm. Đưa được người và hàng vượt Trường Sơn vào Nam, loại nào cũng quý. Thật khó có thể nói là con người quý hơn hay hàng quý hơn dù về lý thuyết thì “con người là vốn quý nhất”. Nhưng trên đường Trường Sơn, rất nhiều khi bộ đội ta phải hy sinh để bảo vệ và cứu hàng.
Đơn vị của Sáng hành quân theo đội hình từng đại đội, mặc dù cả đợt tân binh là một tiểu đoàn tới mấy trăm người. Gạo và thực phẩm phát cho từng cá nhân, quản lý hành quân theo tiểu đội. Không còn anh nuôi như thời huấn luyện ngoài Bắc nữa, bây giờ nấu cơm theo từng tiểu đội. Tiểu đội 12 người được phát một cái xoong “sáu” chủ yếu dùng để nấu cơm. Thức ăn là ruốc phát theo cá nhân rồi nên cứ tự chia ra mà ăn cho hợp lý. Đặc biệt hôm nào chợt hái được ít rau tàu bay, hay được ngày nghỉ lại bãi khách thì nấu thêm canh lá chua với thịt hộp cho cả tiểu đội để đỡ xót ruột.
Tuyến đường Trường Sơn được tổ chức theo từng trạm giao liên phục vụ cho hành quân bộ. Mỗi trạm cách nhau một ngày đi đường. Khoảng cách xa gần tùy theo độ dốc địa hình, sao cho đi từ sáng sớm thì tầm ba, bốn giờ chiều tới nơi để lính tráng còn nghỉ ngơi và nấu cơm. Thông thường thì mỗi trạm cách nhau độ năm tới sáu giờ đi đường. Có những trạm cách nhau chỉ đúng một quả núi, vì núi cao, leo lên rồi leo xuống cũng hết cả một ngày, lại rất mệt mỏi, mệt hơn hành quân theo đường thoai thoải rất nhiều. Tại mỗi trạm giao liên có rất nhiều bãi khách. Đó là những khu đất rộng ẩn dưới rừng già, gần suối nước. Trong bãi khách đã đào sẵn rất nhiều hầm chữ A và hầm thùng sâu chừng nửa mét đủ cho một, hai người trải ni lông nằm ngủ. Khi tới trạm, mỗi đại đội sẽ được phân công về một bãi khách, cán bộ đại đội lại chia ra phân công ở theo từng tiểu đội. Tại bãi khách, lính tráng có thể rửa mặt mũi chân tay, lấy nước suối uống, nhưng chủ yếu là tổ chức nấu cơm ăn tối. Đến sáng sớm hôm sau sẽ lại nấu cơm luôn cho hai bữa sáng và trưa. Quan trọng nhất lúc đun nấu là phải tránh khói, còn nấu lúc trời sáng nên không lo ánh lửa. Củi khô ở rừng, nhất là rừng Trường Sơn thì không bao giờ thiếu. Kê ba hòn đá khô làm kiềng bếp hay đào cái hố nhỏ cạnh vạt đất dốc làm bếp chứ không cần đào kiểu bếp Hoàng Cầm.
Chung chung là thế, nhưng cái gọi là bãi khách thực chất chỉ có ở Trạm 5 Trường Sơn, nơi cuối con đường 20 Quyết Thắng bắt mạch vào tuyến đường và cũng là nơi bộ đội ta bắt đầu hành quân bộ dọc Trường Sơn. Ở đây rừng già cây cao che phủ gần như không thấy mặt trời. Chỉ có những tia nắng rất nhỏ mờ mờ xuyên qua những tán cây rừng khuếch tán xuống. Suối đá to nước chảy hiền hòa, trong veo. Tại Trạm 5 bao giờ các đoàn quân cũng được nghỉ một ngày để sắp xếp đội hình hành quân sau mấy ngày liền đi ô tô, đi ca nô liên tục từ ngoài sông Lam vào, không có điều kiện nghỉ ngơi. Cảnh rừng già với vô vàn những con sóc, chuột ban đêm bò ra cắn rách bao gạo của lính và ban ngày thì không thiếu những con sóc bay nhảy từ cây cao này sang cây khác, khiến quân ta thấy khung cảnh Trường Sơn đầy hấp dẫn và mong muốn khám phá. Không gian rừng già rộng lớn đúng là như đang âm vang ra một điều gì đó khiến người ta phải lặng đi ngắm nhìn và suy ngẫm. Chưa gặp hiểm nguy và gian khổ, chưa có hy sinh mất mát, lại có thể tranh thủ ngày nghỉ đó viết thư về nhà gửi qua quân bưu binh trạm, nên rất dễ có cảm giác “đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Trường Sơn đối với người lính ra trận gần như là con đường chỉ đi qua một lần lúc sức trai đang căng và tràn đầy háo hức. Do vậy có thể nói, ai cũng một lần được hưởng cảm giác như thơ ca ấy khi bắt đầu đặt chân đến Trường Sơn.
Càng vào sâu phía Nam, gian nan vất vả ngày một tăng lên thì dần dần những cái lãng mạn sẽ phải nhường cho những điều thực tế. Rất nhiều trạm giao liên Trường Sơn chỉ có khu vực cơ quan của trạm là được ở chỗ rừng già. Nhưng nơi đó không nằm cạnh đường hành quân nên cánh lính tân binh vào Nam không ai biết. Còn nơi dừng chân ban đêm cho các đoàn tân binh nhiều khi chỉ là những khu rừng cây lúp xúp, địa hình chật hẹp và có khi không có hầm. Có chỗ chỉ có thể mắc võng ken sít vào nhau và suối nước vừa bé vừa xa khiến lính ta ngại không muốn đi rửa chân. Đến phiên lính nào trực nhật thì chịu khó lỉnh kỉnh xách bi đông của cả tiểu đội đi lấy nước. Tại nhiều nơi còn không thể tổ chức nấu cơm theo tiểu đội. Khi ấy mỗi chiến sĩ một cái hăng gô treo lên cành cây gác tạm rồi bẻ củi tự nấu cháo ăn. Ở những nơi nghỉ chật hẹp thường rất bẩn vì lính ta đi vệ sinh kiểu “hố mèo” ngay tại chỗ. Nếu ngay sau đó chỉ một hai ngày lại có đoàn tân binh vào tiếp dừng chân tại đây thì mùi xú uế rất nặng. Được cái hành quân trên Trường Sơn cứ đi độ bốn hay năm ngày lại được nghỉ ngơi một ngày tắm giặt và nhận tiếp gạo cùng thực phẩm bổ sung nên bộ đội ta được lại sức. Ở những nơi dừng nghỉ lại đó thường là khu vực rộng, rừng già và có suối nước trong.
Tại những nơi được dừng chân nghỉ và nhận tiếp gạo, thực phẩm như thế bao giờ cũng tạo niềm vui cho anh em. Được cử đi nhận hàng cho cả tiểu đội, tới kho là ồn ào hỏi thăm đồng hương. Lính coi kho nằm rừng xa nhà lâu ngày rất mong gặp đồng hương cùng huyện cùng xã để hỏi chuyện đổi thay ở quê nhà. Còn cánh tân binh tìm đồng hương vì mong gặp người quen, nếu không thì dù chỉ là đồng hương cùng tỉnh cũng có thể xin thêm được thủ kho chút đồ ăn ngoài tiêu chuẩn được phát hay thậm chí là vài viên đạn. Những anh chàng thủ kho ở Trường Sơn thương đồng đội vào Nam chiến đấu gian khổ nên thường hay rộng lòng. Dễ hiểu vì hàng hóa trong kho giữa rừng Trường Sơn thời chiến không có thứ sổ sách nào quản nổi. Chỉ cần một lý do bom Mỹ đánh trúng là khỏi phải cần kiểm tra số lượng tồn kho có bao nhiêu. Chẳng ai có lỗi cả. Bởi vậy thủ kho có thể coi như vua giữa rừng, ban phát cho ai là quyền của họ. Có lẽ cái câu “giàu thủ kho, no nhà bếp” là xuất phát từ thực tế thời chiến như thế này. Thủ kho chả bao giờ đói, chỉ có buồn khi lâu lâu chẳng có ai qua lĩnh hàng thôi. Vì thế mà ít có thủ kho nào trên Trường Sơn keo kiệt với cánh tân binh hành quân qua. Lắm khi chả phải đồng hương, nhưng vẫn mở kho cho thêm một hai thứ gì đó. Còn tân binh, xin được thêm một bánh lương khô 701, một hộp thịt bốn lạng là đủ về làm vui cả tiểu đội rồi.
Xin được đạn, mấy chàng tân binh tưởng có thể bắn được con chim con sóc gì đó dọc đường vì cứ nghĩ trong rừng sẵn đủ thứ, nhưng mãi chả bắn được con gì. Đường giao liên quân đi rầm rập, chim thú chả dám lai vãng gần người. Sáng sớm nghe chim hót véo von nơi vừa dừng chân nghỉ đêm qua thì chỉ là mấy con chim nhỏ bằng nắm tay giống như chim sâu hay chào mào, sáo sậu ở nhà. Cậu Ngọc cùng đại đội với Sáng xin được cả hộp đạn AK 20 viên, hí hửng lắm mà mãi chả tìm thấy con gì để bắn. Nhiều lúc ngồi nghỉ giải lao, Ngọc cứ thò tay vào túi lóc xóc mấy viên đạn giải buồn. Mãi mà chưa biết sẽ dùng mấy viên đạn vào việc gì.
Trong một lần được dừng nghỉ tắm giặt sau mấy ngày hành quân, đoàn tân binh bất ngờ khi thấy trên núi cao mà có cả hồ nước. Có lẽ gọi là vũng lớn thì đúng hơn vì có cả con suối chảy vào và chảy ra. Suối đá nên nước trong veo, mát rượi. Lính tráng tràn quanh hai bên bờ tắm giặt rồi phơi quần áo ngay trên các lùm cây hay bờ đá gần đó. Trời trong nắng nhẹ, không khí thanh bình khiến chẳng ai nghĩ đang ở trên dãy Trường Sơn, vùng đất được coi là có tuyến vận tải chiến lược ngày đêm bị máy bay Mỹ rình rập đánh phá. Thầm khen giao liên Trường Sơn khéo chọn nơi dừng nghỉ cho bộ đội, cảnh đẹp nên thơ mà lại nằm ở chỗ máy bay Mỹ không ngờ. Chính những ngọn núi và cánh rừng thanh bình như thế này giữa Trường Sơn trùng điệp đã làm nên một khoảng lặng giúp những người lính tạm quên đi sự gian khổ và ác liệt của cuộc sống trong chiến tranh.
Không kiếm được thú rừng thì tìm kiếm cá vậy. Nghĩ vậy, buổi chiều Ngọc cùng hai cậu trong tiểu đội lò mò đi xuôi theo con suối mong tìm một cái hủm khác. Ở cái hủm nơi anh em ta tắm giặt, lúc sáng cũng thấy bóng mấy con cá nhỏ, nhưng không thể bắn ở chỗ đông người được. Đến một cái hủm cách xa chỗ anh em tắm, Ngọc nhìn thấy mấy con cá to cỡ hai ngón tay lấp loáng dưới mặt nước. Ngọc lên đạn rồi thò nòng súng xuống nước rê theo bóng một con cá. Đúng lúc Ngọc định bóp cò thì chợt nghe một tiếng quát to đến chói tai: “Dừng lại!”.
Ngọc giật mình rụt tay lại. Hai cậu chiến sĩ đi cùng cũng giật mình không kém và cùng ngoái nhìn lại phía sau. Cả bọn ngây người nhìn thấy Sáng đang giơ tay trợn mắt, vẻ mặt rất giận dữ. Ngọc vội đóng chốt an toàn khẩu AK. Sáng vẫn chưa hết căng thẳng, gằn giọng bảo Ngọc:
“Sao mày ngu thế? Ai bảo mày bắn cá kiểu đó hả?”.
Thấy Ngọc vẫn đang ngây ra chưa hiểu, Sáng mới hạ giọng giải thích:
“Súng AK mà thò nòng ngập vào nước thì khi bắn, áp lực nước sẽ đẩy lại làm vỡ toác nòng súng luôn”.
Rồi Sáng kéo mấy đứa ngồi xuống, kể lại câu chuyện ngày còn ở nhà của mấy anh dân quân xã. Để phát động cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện chống máy bay Mỹ ném bom miền Bắc, xã nào cũng thành lập trung đội dân quân. Toàn là đàn bà con gái, nhưng thi thoảng cũng lẫn vào đó mấy ông trung niên hoặc khuyết tật hay hoàn cảnh gì đó không phải nhập ngũ. Mấy ông này thường vênh vang và được chị em chiều chuộng. Dân quân được phát súng K-44 có đủ đạn. Họ mang theo súng khi đi làm đồng. Hễ có báo động máy bay Mỹ, hòa trong tiếng súng cao xạ ùng ục của bộ đội ở một trận địa xa xa, họ cũng quỳ bên bờ ruộng hay thành hố cá nhân chĩa súng bắn lên trời. Sau mỗi lần như thế, xã đội lại kiểm tra súng đạn để bổ sung. Mấy ông dân quân láu cá tìm cách khai sai, giấu đi vài viên đạn để bắn cá. Vùng đồng chiêm trũng mùa nước cạn thường có cá chuối cá sộp trong những kênh mương. Một lần đang lúc giữa trưa trời trong veo, thấy có con cá sộp khá to lượn lờ dưới mấy đám rong rêu chăn đàn con rồng rồng, ông Báu dân quân lén mang súng ra. Nghĩ chĩa súng gần đầu con cá bắn cho chắc ăn, ông ta thò hẳn nòng súng xuống nước rê rê gần đầu con cá rồi bóp cò. Một tiếng nổ vang, khẩu súng như tung lên trong tay, nước bắn tung tóe. Chưa thấy con cá chết đâu mà hỡi ôi, cái nòng khẩu súng trường K44 vỡ toác ra như cọng rau muống chẻ, trông rất thảm thương. Mặt ông Báu tái xanh như đít nhái. Chẳng thể nào mà che giấu được, đành khai thật với xã đội. Thế là ông bị kỷ luật, bị loại ra khỏi trung đội dân quân và phải đi lao động thủy lợi trên huyện suốt nửa năm trời như một hình thức kỷ luật. Một cán bộ trên huyện đội được cử về rút kinh nghiệm cho trung đội dân quân. Anh giải thích về chuyện ông Báu gây tai nạn vừa qua: “Khi bắn súng, thuốc đạn trong cát-tút bùng cháy đột ngột tạo nên áp suất cực lớn ép về hai phía. Một nửa lực đẩy cát-tút về phía sau tạo thành lực giật của khẩu súng. Súng càng nặng thì lực giật lên vai người bắn càng nhỏ. Nửa lực còn lại ép đẩy viên đạn theo nòng súng về phía trước. Khi nòng súng bị ngập trong nước, lượng nước như một vách ngăn chặn viên đạn lại khiến áp suất trong nòng súng không thoát ra được và làm vỡ nòng súng”.
Kể xong, Sáng nhìn mấy anh bạn. May mà hôm nay Sáng nghĩ vơ vẩn thế nào nên cũng mò xuống phía cuối đoạn suối mong tìm ít rau rừng dại mọc chỗ có đất ẩm, vì dọc bên đường hành quân chỉ có mỗi loại lá chua. Ở rừng Trường Sơn, ngoài cây bứa dùng quả hay lá nấu canh chua ai cũng biết, còn có rất nhiều loại cây rừng, chả biết là cây gì nhưng hái lá nấu canh chua rất tốt. Nhưng ăn mãi lá chua nấu canh với ruốc thịt cũng có lúc chán, nên Sáng mới đi tìm rau khác. Thật may là vừa lúc tới đây nhìn thấy Ngọc định bắn cá và kịp ngăn lại. Chậm một tí nữa thôi là đi tong một khẩu AK và chắc chắn Ngọc bị kỷ luật nặng. Rồi Sáng nói thêm, khuyên Ngọc:
“Thôi, bọn mình về đi. Mày đừng bắn cá nữa. Một viên chỉ được một con cá ranh, chả bõ nấu ăn mà lại phí đạn”.
Chuyện này chỉ có mấy anh em biết với nhau. Mấy người bạn đã nhìn Sáng với con mắt vị nể hơn trước nhiều. Đại đội phó Hoàng Tuynh không biết chuyện này, dù Sáng đã làm một việc tốt, vô tình cứu cho ông một cái án kỷ luật. Trách nhiệm trên đường hành quân ở Trường Sơn luôn thuộc về người chỉ huy dẫn quân. Giao liên chỉ làm nhiệm vụ dẫn đường và phổ biến đầy đủ những quy định kỷ luật của từng chặng để đảm bảo an toàn. Ngoại trừ chuyện bị máy bay Mỹ đánh bom là điều bất khả kháng, còn những chuyện vi phạm kỷ luật thì tội lỗi đặt hết lên đầu những người chỉ huy quân như Đại đội phó Hoàng Tuynh. Nếu bị kỷ luật, rất có thể ông Tuynh sẽ bị giữ lại luôn trong Trường Sơn, không được giải quyết trả ra Bắc. Đó là điều ông Tuynh không bao giờ muốn.
Hôm sau, đơn vị lại tiếp tục lên đường hành quân. Từ sau gần một tháng hành quân ở Trường Sơn, Đại đội phó Tuynh chỉ ở trên đầu hàng quân ra lệnh lúc bắt đầu xuất phát, sau đó ông lùi dần lại đi cùng tốp sau đơn vị để thu quân và giải quyết những bất trắc đột xuất xảy ra. Đơn vị bắt đầu có những lính đuối sức và sốt rét phải có người đeo đỡ ba lô và dìu đi. Chỉ có người bị sốt rét ác tính mới được gửi vào binh trạm và những ai bị sốt rét ác tính dọc đường Trường Sơn thường đồng nghĩa với việc nằm lại đây mãi mãi. Cho đến lúc này, trong đại đội của ông Hoàng Tuynh vẫn chưa có ai phải gửi lại binh trạm, khiến ông thấy thật nhẹ lòng.
Một lần cậu Tảo trong cùng tiểu đội Sáng bị lên cơn đau bụng sau lúc dừng nghỉ ăn cơm trưa. Chả có y tá, cũng không thể cử người ở lại chờ hay xin chuyển vào gửi trạm giao liên. Sáng lẩn mẩn sờ nắn bụng thằng Tảo và hỏi han rồi nhớ lại những lần lên rừng mua gỗ, nứa. Sáng chui vào trong rừng một đoạn rồi bứt ra một nắm lá. Chọn lấy đúng bảy chiếc lá đem vò kỹ rồi bắt Tảo nhai nuốt. Kỳ lạ thay, chỉ độ dăm phút sau, mặt Tảo đã bớt nhợt nhạt rồi nó kêu to sung sướng “hết đau rồi” và đứng dậy khoác ba lô đi cùng tiểu đội như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Cả tiểu đội, ai cũng mừng rỡ. Một lần khác có cậu Hưng khác tiểu đội nhưng cùng trung đội với Sáng bị trượt ngã khi đang hành quân xuống theo một đoạn dốc. Bắp chân cu cậu bị rách một vết, máu chảy chan hòa. Cả bọn sợ xanh mắt, chắc lại phải khiêng nó cùng ba lô đi tiếp, không biết bao giờ mới tới nơi. Đại đội phó Hoàng Tuynh lúc này đang đi ở tốp sau cùng cũng không kém phần lo lắng và nhăn nhó. Vậy mà Sáng xem qua vết thương của Hưng rồi bảo, “cứ để đó cho em”. Lại tạt vào rừng hái ra một nắm lá. Lần này Sáng nhai kỹ nắm lá to rồi nhè ra đắp vào chỗ vết thương của Hưng. Day qua day lại một chút, đám bã lá ngấm máu đỏ chặn ngay máu chảy tiếp. Bây giờ Sáng mới xé cuộn băng cá nhân ra băng chân cho Hưng. Ngồi nghỉ thêm chục phút, Hưng đã đứng dậy lò dò đi được. Đồng đội chỉ phải chia nhau ra đem giúp nó cái ba lô. Hôm ấy tốp đi sau cùng thu quân của Đại đội phó Tuynh kèm thằng Hưng về đến bãi khách dừng chân cũng chỉ sau đơn vị có nửa giờ đồng hồ.
Buổi chiều tối lúc ăn cơm, Đại đội phó Hoàng Tuynh vác bát sang ăn cùng với tiểu đội của Sáng. Ông ấy nhìn Sáng với con mắt rất thân tình:
“Cậu học ở đâu bài thuốc lá rừng ấy đấy. Nhà cậu ở quê có nghề thuốc à?”.
“Không thủ trưởng ạ. Đấy là mấy chuyện vặt vãnh em học được của người dân tộc ngày còn đi khai thác gỗ nứa trên rừng”.
“Vậy à. Cậu là vốn quý của đơn vị đấy nhé”.
Sau mấy cái vụ đó, lính tráng trong đại đội nể và thích Sáng ra mặt. Ngày huấn luyện mới chỉ biết Sáng hơn tuổi nên gọi anh xưng em, nay thấy mấy chuyện Sáng làm vừa rồi thì coi như anh cả. Bọn lính trong cùng trung đội cảm thấy yên tâm hơn, thậm chí nghĩ rằng mọi chuyện trên đường hành quân có anh Sáng như thần rừng thần núi thế này thì quá yên tâm. Mấy thằng lau tau thỉnh thoảng thấy cái gì lạ lại kêu to: “anh Sáng, anh Sáng xem này”. “Bố khỉ, cứ như tao đang dẫn chúng mày lạc vào xứ sở thần tiên không bằng”, Sáng nghĩ.
Đại đội phó Tuynh mừng không kém vì trên đường hành quân lạ ngay cả với ông, đã có một trợ thủ, chỉ nhắc thêm Sáng:
“Những lần sau có rẽ vào rừng lấy lá thuốc, cậu chú ý mìn và cẩn thận hơn nhé. Cánh giao liên dặn trên tuyến đường ở Trường Sơn máy bay địch hay thả các loại mìn bẫy có tác dụng sát thương, dẫm vào không chết nhưng mất bàn chân. Đơn vị phổ biến trên đường hành quân, ai muốn đi tiểu cứ đứng ngay tại chỗ mà câu ra bên đường là vì thế”.
Ngầm so sánh chuyện xưa đi rừng với những điều trông thấy trên đường hành quân ở đây, Sáng thấy tất cả mọi chuyện không có gì so sánh được với núi rừng Trường Sơn. Tất cả những cảnh núi non trùng điệp, đèo cao suối sâu được mô tả trong sách viết về bộ đội thời chống Pháp ở Việt Bắc, Tây Bắc thì trong núi rừng Trường Sơn có cả. Còn phong phú hơn nữa là đằng khác. Điều này, các thủ trưởng khoác áo lính từ thời chống Pháp cũng phải thừa nhận. Có nhiều điều còn ngỡ ngàng không nói nên thành lời, chỉ biết lặng đi để ngắm nhìn. Trường Sơn hùng vĩ, rừng già nguyên sinh trải dài đủ mọi loại cây gỗ quý, cây cổ thụ to cao đến không ngờ, song cũng không thiếu những cánh rừng đặc chủng bạt ngàn. Có những cánh rừng lim đơn vị đi nửa ngày chưa qua, nước trong bình tông uống hết mà không ai dám múc nước suối trong rừng lim vì sợ độc. Những đoạn suối trong rừng lim phủ đầy lá rụng, nước trong một màu ngà ngà đen đen như bã thuốc bắc ngâm lại, không có một thứ cá nào sống được. Phải vượt qua rừng lim thật xa, vượt lên tận phía đầu nguồn có lạch nước trong mới dám lấy nước uống. Điều này cánh giao liên Trường Sơn đều thuộc lòng khi dẫn quân qua đây và phổ biến rất kỹ càng và đầy đủ cho cánh tân binh. Ở bên phía tây dãy Trường Sơn còn có rất nhiều rừng bằng lăng rộng lớn, cây cao và to cả vài người ôm, nhưng cành cây mọc nghênh ngang không thẳng. Đi vào cuối mùa khô lúc hoa đang nở, chỉ thấy một màu tím ngắt đến rừng rực. Những cánh rừng cây săng lẻ cũng làm xao xuyến lòng người, nhất là với các đoàn lính tân binh người Khu Bốn nhà ở mạn sát rừng. Cây săng lẻ cao vút tới hai ba chục mét, thân to hai người ôm đặc một màu vỏ bong trắng mốc. Săng lẻ cũng thuộc hàng gỗ quý, chuyên dùng để đóng thuyền đi biển. Thứ gỗ này bền dai và có đặc tính càng ngấm nước càng nở ra ép chặt với nhau khiến thuyền không bao giờ bị rò rỉ. Có rất nhiều cánh rừng săng lẻ rộng tới mức được dùng làm bãi giấu xe, cả trăm chiếc ô tô vận tải đỗ lọt thỏm trong đó.
Mới hành quân qua vài trạm, đoàn tân binh của Sáng đã gặp một rừng cây song. Cây này họ mây nhưng thân to như thân cây mía. Rừng song to tới mức không biết có bao nhiêu đoàn quân qua đây, cả quân vào và những đoàn cán bộ học sinh từ miền Nam ra, hầu như ai cũng thích thú chặt một đoạn song làm gậy chống, mà rừng song như chưa hề suy chuyển. Đem khúc song chặt được tối về hơ lửa uốn thành một cái gậy như cây ba toong của các cụ để làm gậy chống dọc đường hành quân thì vừa bền vừa đẹp. Có những thứ ở đồng bằng, ở thành phố thấy quý hiếm thì ở rừng Trường Sơn lại chỉ như một thứ cây nhà lá vườn. Nói câu “rừng vàng biển bạc” thật quả không ngoa. Vào sâu hơn nữa, bộ đội còn gặp cả một rừng cây xương rồng. Tưởng chừng thứ cây này chỉ là một loại cây sa mạc và ở ngoài Bắc có đôi nơi dân trồng làm hàng rào chỉ thấp ngang bụng, thế mà ở đây cây to cao hàng hơn chục mét, thân to cỡ hai ba chục phân. Nhìn thân cây trơ tróc không còn vỏ xanh chả biết là cây gì, chỉ khi ngửa cổ nhìn mãi lên ngọn thấy có một vài cái tay gai màu xanh mới biết đấy là cây xương rồng. Nhìn rõ rồi mà vẫn nửa lính giao liên bảo, ở binh trạm giao liên tuyến này, cột nhà dựng lán toàn lấy thân cây xương rồng vì nó thẳng và khai thác rất dễ. Mối rừng là loại vua trong các loài mối, đầu to như hạt đậu xanh có hai cái răng cứng sắc như lưỡi dao lam, ăn đủ mọi thứ vậy mà phải chịu thua gỗ cây xương rồng. Có lẽ do thân cây có tích lớp mủ đắng không gặm được.
Hôm đi trên triền Tây Trường Sơn vào đến cuối địa phận tỉnh Savanakhet của nước bạn Lào, bộ đội ta còn bất ngờ khi nhìn thấy một cây to nằm độc lập giữa một vùng đất trống trải. Cây thuộc loại đa thân, nghĩa là có nhiều thân nhỏ ôm một thân to, đường kính lớn tới hàng hai chục người ôm. Đi một vòng quanh nó ngửa cổ nhìn lên ngọn mà muốn mỏi cổ. Chả biết nó là cây gì, cánh giao liên dẫn đường cũng chịu. Thứ cây này ở rừng Việt Nam chưa ai gặp. Có lẽ nó có từ ngàn năm trước và sẽ còn tồn tại mãi, chả gió bão nào quật nổi nó.
Những cánh rừng nhiệt đới trải dài từ Bắc tới Nam còn có một thứ cây mà đâu đâu cũng mọc, là một hình ảnh đặc trưng cho làng quê Việt Nam, đó là cây tre. Tre, nứa, trúc, mai, vầu vốn có nhiều ở Tây Bắc thì ai cũng biết, trong sách giáo khoa còn có cả một bài viết tuyệt vời của nhà văn Thép Mới “Cây tre Việt Nam” mà học sinh phổ thông ai cũng được học. Rừng Trường Sơn không thể thiếu những rừng cây họ tre này. Đặc biệt có một loại cây le cùng họ với cây tre mà sách vở ít nói đến. Những rừng cây le trải dài theo giông đồi hàng dăm cây số. Quanh nó chỉ có ít cỏ mọc lưa thưa xen cùng ít cây thân gỗ nhỏ chỉ to cỡ cổ tay lay lắt. Cây le không có gai, thân nhỏ và gióng thẳng, dai và bền nên được lính Trường Sơn chặt làm nắp những cái hầm nhỏ ven đường đi rất nhiều. Những căn hầm ấy được đào nhằm mục đích cho cánh giao liên hay những đơn vị nhỏ hành quân qua có chỗ tránh nếu bất ngờ bị máy bay Mỹ thả bom bi. Nhìn những căn hầm ấy, Sáng lẩm nhầm lời một bài hát quen thuộc:
“Trên đường ta ra tiền phương, có những căn hầm ven Trường Sơn, hầm chở che ta trước giờ xuất kích, hầm cùng ta đi đánh giặc đêm ngày…”.
Cây rừng Trường Sơn phong phú và kỳ lạ như thế song những đoàn tân binh qua đây đặc biệt ngỡ ngàng và vô cùng thích thú khi gặp những rừng cây mọc đầy phong lan. Phong lan là loại cây tầm gửi khá kén chọn điều kiện sống và có vô cùng nhiều loại. Ở đây không biết chắc là loại phong lan gì, nhưng chúng mọc trắng trên những cành cây to cao, đẹp một cách đặc biệt đến ngây ngất lòng người. Màu trắng tinh khiết bao giờ cũng làm cho con người ta cảm nhận những điều rất thánh thiện. Quá đẹp. Rừng già luôn ẩn chứa những điều đặc biệt và bất ngờ, chẳng ai đoán trước hay giải thích được cho rõ ràng. Chẳng phải bỗng nhiên mà người giao liên dẫn quân lại chọn cánh rừng đầy phong lan này làm chỗ dừng chân nghỉ giải lao giữa chặng đường hành quân. Nắng nhạt và gió nhẹ dường như cũng góp phần làm cho đoàn tân binh đỡ mệt và thêm phấn chấn. Chừng như hòa đồng cùng sự ngắm nhìn ngưỡng mộ của cánh tân binh, người lính giao liên giải thích: “Hoa phong lan trắng đấy. Ở cánh rừng này chúng mọc tầm gửi tự nhiên trên các thân cây già chả cần bàn tay con người. Lính binh trạm chúng tôi ai cũng thích và lán nào cũng lấy vài giò về treo trên mái. Các bạn ngắm xem thôi, chứ trèo lấy cũng khó ra phết đấy. Với lại đi chiến đấu không mang theo được đâu”.
Anh em cười vang, líu ríu tán theo đủ chuyện. Sáng cũng góp một câu:
“Hẹn ngày chiến thắng bọn tôi về qua đây, nhờ các anh lấy giùm mỗi người một dò nhé”.
Người lính giao liên gật đầu cười. Đại đội phó Tuynh nhìn cánh lính trẻ thấy cũng vui lây. Bọn này lãng mạn thật, nhìn chúng lúc này ai dám nghĩ chúng là dân quê. Ngước mắt nhìn ra xa hơn phía những tán cây rừng xanh ngắt đang rực lên trong ánh nắng chiều ở dãy núi bên cạnh, ông chợt thấy nhớ nhà. Ở quê, ông còn có người vợ và hai đứa con, một trai một gái. Đứa lớn đã mười tuổi còn đứa bé mới lên bốn. Chúng cách tuổi nhau xa như vậy cũng là do quá lâu ông mới được một lần về phép, thời chiến mà. Nhưng ông cũng còn may mắn hơn rất nhiều sĩ quan khác, đó là toàn làm nhiệm vụ huấn luyện quân ngoài Bắc suốt bao năm trời. Cũng vì lý do đó mà hơn chục năm quân ngũ, ông mới chỉ là đại đội phó thôi. Nhưng mỗi người một số phận, trời đã an bài, lăn tăn làm gì. Mấy người bạn cùng xã nhập ngũ với ông một đợt, vào chiến trường hết cả, chả ai có tin tức gì. “Ngày chiến thắng về qua đây hái mỗi người một dò hoa phong lan đem về”, câu nói ban nãy của cậu Sáng lại bỗng làm ông đau nhói. Bao giờ mới hết chiến tranh và liệu trong đoàn tân binh ông dẫn quân hôm nay, còn có được mấy ai trở về. Bản thân ông, ông cũng mong vào đến đơn vị giao quân, ông được trả về Bắc, được mấy ngày phép về thăm vợ con. Còn nếu phải ở lại đơn vị trong này, tiếng là đại đội phó mà ông đã chỉ huy chiến đấu bao giờ đâu. Nếu chiến tranh vẫn còn kéo dài thì rồi lại sẽ đến lúc thằng con trai ông đủ tuổi và cũng phải nhập ngũ. Trai thời loạn mấy ai tránh được. Đại đội phó Tuynh thở dài, và rồi chợt giật mình nhìn quanh như sợ đám chiến sĩ có ai nghe thấy được. Nhưng thật may là anh em vẫn mải líu ríu ngắm hoa phong lan và tán chuyện gẫu vô tư. Nghe tiếng nhắc giục của người lính giao liên, Đại đội phó Tuynh xốc ba lô đứng dậy phát lệnh hành quân tiếp.
Suốt từ ngoài Trạm 5 Trường Sơn vào tới đây, qua hơn một tháng trời hành quân đoàn tân binh chưa gặp phải cảnh đổ nát nào do bom Mỹ. Đường hành quân là lối mòn tự tạo ra, có nhiều chỗ chỉ vừa hai người tránh nhau. Chỉ trừ một vài đoạn qua những cánh rừng cây lúp xúp nơi đất đá khô cằn hay đi qua nhưng đồi cỏ tranh ở vài sườn đồi chuyển tiếp các dãy núi, còn thì lính ta toàn đi trong rừng kín, cây lá che phủ. Dọc đường Trường Sơn, tuyến đường xe chạy luôn bị máy bay Mỹ săm soi và đánh phá ác liệt, mọi thứ tơi bời nhưng đường hành quân bộ vẫn luôn xanh một màu xanh của rừng nguyên thủy. Chỉ từ khi bộ đội ta mở đường hành quân, những nơi này mới có dấu chân người. Bom đạn Mỹ nhiều thật, nhưng rừng Trường Sơn lại quá mênh mông rộng lớn nên làm sao máy bay Mỹ ném bom khắp lượt được. Ngay cả máy bay B-52 rải thảm cũng chỉ theo từng vùng, từng khu vực trọng điểm mà thôi. Vì thế mà đường hành quân bộ chọn cách xa đường ô tô và qua nhiều đỉnh núi cao cheo leo hiểm trở để được an toàn. Để ngăn chặn và tiêu diệt bộ đội ta, địch thường dùng máy bay trinh sát thám thính phát hiện những nơi nào ta làm lộ. Có thể là tìm ánh lửa, tìm khói ở nơi bộ đội ta đóng quân hay ngay cả bóng người đang trên đường hành quân. Ở đường rừng Trường Sơn bắt đầu từ khi vượt qua Đường 9 là luôn gặp cảnh có một chiếc máy bay hai thân vò vè tít trên cao. Đó là máy bay trinh sát OV-10 và cũng chỉ có loại máy bay này trinh sát nổi ở đường Trường Sơn thôi, bởi chúng được trang bị loại kính ngắm đặc biệt. Ở chỗ trống gần rìa rừng cây lúp xúp mà chỉ cần chục chiến sĩ ta châu đầu vào hút thuốc lá là lượng khói cũng đủ để máy bay này phát hiện. Nó bắn ngay pháo khói xuống đất để định vị gọi máy bay ném bom. Nhẹ thì vài chiếc F-105 rầm rầm bay đến ngay sau đó trút bom ồ ạt. Nặng thì B-52 đến thả bom tọa độ có khi chỉ một chiếc thôi mà cũng đủ băm nát một khoảng rừng rộng. Giao liên dẫn đường bao giờ cũng phổ biến đầy đủ và gắt gao nội quy giữ bí mật tại những cung đường mà máy bay OV-10 hay nhòm ngó.
Cũng bởi vậy mà theo thời gian năm tháng, dần dần dọc tuyến đường giao liên vắng bớt bóng những con thú rừng. Chúng tránh xa cả sự ồn ào của các đoàn quân đi qua lẫn những tiếng bom nổ. Anh giao liên kể, thời gian lúc mới mở đường rất hay gặp các loại thú rừng, nhiều nhất là lũ khỉ và vượn. Lâu dần chúng vắng bóng để tìm về những khu rừng không có bóng con người. Một vài binh trạm của ta thỉnh thoảng cũng tổ chức săn bắn thú rừng để cải thiện cho bộ đội, nhưng phải đi rất xa. Quanh vùng đóng quân của binh trạm thường chỉ đặt bẫy bắt những con thú nhỏ như chồn, nhím, rắn hay gà rừng. Nhưng chính vì những điều có tính quy luật của rừng già, mỗi nơi đều có chủ riêng, một rừng không chung hai hổ, nên những con đường nhỏ hành quân bộ trên Trường Sơn càng an toàn. Chỉ cảnh giác ngăn chặn những toán thám báo của địch tung lên đây thăm dò tuyến đường và kho tàng của ta, còn tuyệt nhiên không phải lo thú dữ. Ngay cả đất nước Lào vốn mang danh là đất nước Triệu Voi, ngày xưa voi đi hàng đàn khiến người dân không dám vào rừng sâu, nhiều nơi còn phải tổ chức săn bắn diệt bớt voi rừng, nay cũng không còn gặp voi trên đường hành quân Trường Sơn nữa.
Mặc dù bộ đội Trường Sơn đã cố gắng để tạo nên các con đường hành quân bộ xa tuyến vận tải bằng cơ giới cho an toàn và dễ đi nhất, nhưng vẫn không tránh khỏi những nơi chỉ có một lối đi là duy nhất. Ở một binh trạm có một phiến đá được gọi là “đá bàn chân”. Nó nằm trên dốc một lối đi. Lính ta qua đó bắt buộc phải đặt bàn chân lên đó để trèo lên vì bên phải là vách đá còn bên trái là khe sâu. Không thể nào mở được con đường tránh khác qua đó. Mỗi người đi qua chỉ đặt chân vào chỗ ấy đúng một lần. Vậy mà qua năm tháng, bao bàn chân của những đoàn người qua đây gộp lại đã tạo cho phiến đá một vết lõm có hình bàn chân. Thật xứng là một kỳ quan chiến tranh có một không hai.
Những khó khăn về địa hình mở đường như thế khiến cho đường đi trên Trường Sơn phải vượt qua rất nhiều núi dốc cao. Có những con dốc cao và dài tới mức đi từ chân lên tới đỉnh phải cho bộ đội nghỉ giải lao đến mấy lần. Lên đến đỉnh thì mây mù che phủ, nhìn xa chỉ được độ mươi mét. Xung quanh khi đó không khí ẩm thấp như đi trong vùng đầm lầy, chỉ một lát đã thấy lành lạnh. Lạnh vì chính mồ hôi của mình không bay đi được mà ngấm ngược vào da lại cộng thêm không khí ẩm làm cho quần áo mặc trên người như được phun một lớp sương khắp lượt. Suốt dọc trên đỉnh núi cao vời vợi ấy vẫn có cây rừng mọc đủ loại, kể cả những cây to cổ thụ lẫn những bụi cây như tre nhưng thân nhỏ hơn rất nhiều. Không phải mùa mưa mà nơi đây vẫn có đầy vắt. Không chỉ có vắt nâu bò lổm ngổm trên mặt đất mà còn có cả hàng đàn những con vắt xanh nhỉnh hơn que tăm bám đầy trên lá cây ngoe nguẩy tìm hơi người. Chúng nhảy tanh tách bám vào người rất nhanh, dù chỉ đi lướt qua khẽ chạm vào cành lá. Dù có đi tốc độ cỡ nào cũng không có ai thoát khỏi bị vắt cắn. Những con vắt xanh bám vào cổ vào tai rồi chui vào áo, cắn phát nào nhói da thịt phát ấy. Ba lô nặng thế mà chiến sĩ ta người nào cũng phải vừa đi nhanh vừa thò tay khắp người cào phủi lũ vắt. Nhưng thiệt hại nhất vẫn là do lũ vắt nâu cắn. Chúng làm cách nào đó mà bám mà bò êm ru vào chân, chui lên được tới tận chỗ kín nhất của lính. Vắt nâu cắn êm tới mức khi thoát khỏi dãy núi này rồi, thò tay vào trong quần mới vê ra được những con vắt no tròn máu. Có con hút máu no rồi tự nhả ra, lăn tròn rơi qua ống quần xuống chân. Nhìn mà thấy gai gai người, rùng hết cả mình.
Có nhiều đoạn dốc cao dài hàng trăm mét, người đi sau kề sát mặt vào mông người đi trước. Một người trượt chân ngã chắc sẽ kéo theo một lô người ngã cùng, chồng đống lên nhau. Để đảm bảo an toàn, dọc những đoạn đường này giao liên Trường Sơn thường làm những đoạn tay vịn bằng song, bằng tre để nắm và quy định đoàn quân qua đây phải đi thưa. Đặc biệt ở một vài chỗ còn phải dựng thang chứ người không chẳng có chỗ bám mà leo. Lên dốc khó một thì khi xuống khỏi những cái dốc ấy còn khó hai. Toàn phải đi lùi từng bước một như người xuống thang, bởi vì cố mà đi bình thường thì chỉ mươi bước là chân đã run không thể cưỡng lại được. Cố nữa chắc chắn sẽ bị ngã, trượt lăn xuống dốc rất nguy hiểm cả cho mình và cho đồng đội.
Đường trên rừng Trường Sơn dù là đi bộ cũng không thể tránh được những đoạn phải vượt sông, vượt suối. Suối trên đường Trường Sơn nhiều vô kể. Một số ít là những con suối bắt nguồn từ những mạch nước ngầm trong núi ngày đêm bền bỉ góp nước chảy về các dòng sông. Còn đại đa số là những khe nước tụ thủy, vào mùa mưa mới có dòng chảy, nhưng chính chúng lại là nguyên nhân tạo nên những dòng suối lũ bất ngờ và hung hãn làm cho đường hành quân trên Trường Sơn vào mùa mưa trở nên khó khăn và luôn thường trực hiểm nguy. Mùa khô, những con suối này không có nước, chỉ một vài đoạn còn sót những vũng nước đọn