← Quay lại trang sách

Chương 3

Về hậu cứ được hai hôm thì các đại đội được nhận tân binh bổ sung. Anh Quân lên đại đội rồi dẫn về trung đội hai chiến sĩ mới. Đợt ra tuyến trước vừa qua, trung đội của Quân tổn thất ít hơn các trung đội khác nên chỉ được nhận thêm hai người. Tiểu đội của Tháo vẫn giữ nguyên quân số.

Buổi tối anh Quân họp cả trung đội để giới thiệu cho chiến sĩ mới và cũ làm quen nhau. Anh chỉ một cậu chiến sĩ mới trông cao to và rắn rỏi nhưng có nét thư sinh, bảo:

“Đây là cậu Sáng, hai mươi tuổi và văn hóa lớp 10”. Anh nhìn xuống chỗ Tháo ngồi rồi nói thêm: “Vậy là trung đội ta rất đặc biệt, có tới hai chiến sĩ văn hóa lớp 10 là cậu Sáng và cậu Tháo. Thế thì phải cố gắng nhiều hơn các trung đội khác đấy nhé”.

Sáng đưa mắt nhìn Tháo, thấy anh chàng chiến sĩ cũ kia vóc dáng thấp hơn mình nhưng trông rất khỏe, nụ cười có vẻ xởi lởi. Còn Tháo thì nghĩ, tay này chiến sĩ mới mà sao đã hai chục tuổi rồi nhỉ, hơn mình gần hai tuổi. Nhưng Tháo cũng rất thích cái chuyện cậu ta văn hóa lớp 10. Có thêm thằng đồng cảnh là có thêm bạn tâm giao. Mấy bữa trước khi còn ở bên huội Champi đánh địch không nói làm gì, nhưng lúc rảnh và khi về hậu cứ, nói cái gì văn hoa hay lãng mạn một chút cũng bị nhắc nhở. Đại đội trưởng Khâu tuy khen Tháo đánh nhau được, thế mà nhiều lúc vẫn nhắc Tháo phải nhìn lính cũ mà học, đừng nghĩ văn hóa cao là đủ. Tháo thấy chạnh lòng, mình cậy văn hóa lớp 10 khi nào đâu, trong đầu lúc nào chả nghĩ phải học hỏi các anh chiến sĩ cũ. Còn Chính trị viên Cẩm thì nhẹ nhàng hơn, nhưng nói cũng hơi khó nghe khi bảo Tháo là đừng nghĩ mình dân tiểu tư sản mà xa lánh anh em. Thực tình Tháo chả biết mình có là tiểu tư sản hay không nữa. Tháo là người Hà Nội gốc thật nhưng là dân ngoại thành, nhà có chút tài sản quái nào đâu. Cũng chẳng phải làm ruộng thuần túy vì ở nhà chỉ có mẹ và chị làm ruộng hợp tác, còn Tháo và bố là dân tự do chẳng làm đồng áng gì cả. Các ông trong ban chủ nhiệm hợp tác xã mặc dù chả có va vấp gì với nhà Tháo, nhưng đôi khi cũng gọi bố con Tháo là dân “vô chính phủ”, tức là chả ai quản lý được.

Liên tục sau đó toàn đơn vị tham gia gùi cõng hàng ra tuyến trước. Chiến sĩ của đại đội khác gùi hàng từ kho trung đoàn ra, còn Đại đội 6 của Tháo nhận hàng cùi tiếp ra tuyến trước. Chặng đường đi nào cũng chiếm chừng bốn tiếng đi đường. Súng đạn cá nhân luôn mang theo, còn gùi cõng thì hôm gạo hôm đạn. Định mức gùi gạo là hai mươi cân, nếu gùi đạn cối 82 thì năm quả, còn đạn cối 60 phải xếp đủ mười hai trái, cứ thế mà cõng. Chối tỷ nhất là đi vác đạn ĐKB cho bọn hỏa lực trung đoàn. Bắn cầm canh, dọa là chính vì nửa ngày mới bắn một quả lại không chính xác nhưng ngày nào chúng nó cũng bắn bất kể mưa nắng. Bắn cho địch nó biết quân ta cũng có súng to, chỉ khổ cánh bộ binh đi vác đạn từ kho tới nơi bắn hơn chục tiếng đồng hồ. Lại vì đạn ĐKB có hai phần thân và đầu đạn nặng không đều nhau. Đầu đạn 19 cân vác nhẹ nhàng tuy nó hơi chuồi chuội, nhưng cái thân quả đạn thì vừa to vừa nặng, tới 34 cân. Thế là phải chia nhau vác rồi nửa đường lại đổi. Quân bộ binh anh nào thấp bé nhẹ cân, cân cả dép và quần áo mới chỉ hơn bốn chục ký giờ phải vác cái thân đạn nặng gần bằng mình chả khác nào con mèo mướp tha con chuột cống. Cũng may mà trong đời lính, tình đồng đội vô cùng thiêng liêng và cao cả, sống chết có nhau và coi nhau quá là anh em ruột thịt. Khẩu phần ăn như nhau, lắm lúc bữa ăn trưa chỉ có nắm cơm nếp to như quả trứng vịt, đói vàng mắt mà vẫn giúp nhau. Nhiều cặp đôi đi vác đạn ĐKB, thằng to con hơn một chút nhận vác luôn cái thân đạn suốt cả đoạn đường dài tới nửa ngày trời.

Cực nhất là những hôm đi khiêng cáng thương binh. Tuyến trước đánh địch, thỉnh thoảng lại có thương binh tử sĩ. Mùa mưa không có đánh lớn nên thương binh không nhiều, mỗi lần chỉ một trung đội đi khiêng là đủ. Khiêng tử sĩ bó tròn không phải nắn nót, nhưng không hiểu sao cũng là một con người mà khi chết lại rất nặng. Khiêng thương binh nhẹ hơn, hình như sinh khí nó bốc lên cao làm cho thân xác nhẹ đi thì phải. Nhưng khiêng thương binh phải cố gắng nhẹ nhàng, nhất là với người bị thương nặng. Dù là tình đồng đội không được phép kêu ca nhưng thương binh nào cao to nặng cân một chút là người khiêng cực vất vả. Cứ hai thằng một võng cáng, đòn khiêng bằng tre, chỗ nào không có tre, chặt đòn gỗ thì thêm nặng vì gỗ. Đường đi chỗ quang còn dễ, đi đường rừng và nhất là lên xuống dốc hay suối sâu thì cứ thằng nào thấp hơn là phải è cổ chịu trận. Sau đợt khiêng thương binh về nhà ra suối tắm, nhìn hai vai cứ đỏ lừ, bầm máu. Bây giờ đến lượt thương mình, lắm lúc muốn ứa nước mắt. Các anh chiến sĩ cũ đọc ngay câu ca chả biết do ai sáng tác, nhưng có lẽ lính tráng khắp nơi đều từng nghe: “Đời thằng mục, ăn cơm cục, uống nước đục, làm hùng hục, luôn bị cấp trên giục, không được bực…”.

Rồi qua ngày qua tháng tất cả mọi sự đều phải quen. Nhiều lúc nhớ lại thời gian huấn luyện ngoài Bắc tập đeo đất nặn hành quân, nếu ngày đó lười ngại bao nhiêu thì bây giờ thấm thía bấy nhiêu. Cùng trung đội nên Tháo và Sáng gặp gỡ nhau thường xuyên hàng ngày. Lúc ngồi nghỉ giải lao bên suối hai thằng hay trò chuyện cùng nhau, cùng cảm nhận về mọi thứ xảy ra xung quanh. Sáng hơn tuổi nhưng lại vào đơn vị sau, Tháo là chiến sĩ cũ có tí kinh nghiêm đạn bom hơn nên hai thằng chỉ xưng hô mày tao. Mà chả phải riêng hai đứa, lính tráng với nhau đều gọi thế, chỉ lúc ngồi sinh hoạt đơn vị mới phải gọi nhau đồng chí. Chiến sĩ gọi các anh cán bộ là anh, nhưng chính các cán bộ với nhau cũng toàn mày tao. Có lẽ đấy là cách xưng hô thân thiết và đơn giản nhất của bộ đội.

Tháo và Sáng cũng giống như bao lính khác, vào chiến trường là bắt đầu hút thuốc lá. Thuốc lá toàn là thuốc rê của dân. Khi cùi cõng đi qua một vài nương của dân, lính ta tranh thủ tạt vào theo nhau vặt lá thuốc. Dân Lào hút thuốc lá thành tập tục nên họ trồng cây thuốc lá thành từng vạt lớn cạnh các nương. Lính tráng tạt vào vặt rào rào những lá thuốc già, mỗi thằng một bó to. Đem về phơi khô hoặc thái nhỏ rồi đem sao khô trên những tấm tôn lấy ở các bản bỏ của dân. Thuốc lá sao kiểu này rất nặng và hôi. Muốn thuốc nhẹ khi hút thì lúc sao gần xong vẩy vào đó ít nước đường pha loãng. Hầu như thằng nào cũng có trong ba lô một gói thuốc rê to bằng quả ổi găng. Thuốc rê chỉ có mỗi kiểu cuốn sâu kèn để hút. Sau này quen và có thuốc lá hầu như lúc nào cũng có lý do để hút được. Hút lúc nghỉ giải lao trên đường hành quân cho đỡ mỏi mệt, hút lúc ngồi trên chốt để đếm thời gian, hút trong đêm mưa cho ấm người và hút lúc có bát nước chè cùng anh em trong tiểu đội khi sinh hoạt là một cuộc vui. Mà cũng lạ là chả ai thắc mắc chuyện vào nương của dân vặt lá thuốc cứ tự nhiên như ruồi, như là một điều đương nhiên. Cũng vì trồng cây thuốc lá bạt ngàn trên nương nên lính ta có hái kiểu gì cũng không hết và người dân Lào vốn hiền lành nên chả ai ca thán. Ở cao nguyên Boloven còn có câu truyền miệng “phu sao Phắc Cụt, gia đụt Na Xịa” để ca ngợi con gái đẹp và thuốc lá ngon ở các bản ấy. Con gái đẹp thì lính ta chỉ dám ngắm, cùng lắm là rình ngắm trộm bên suối lúc ban chiều chứ không dám tí toáy vì đó vừa là chính sách dân vận vừa là tình hữu nghị Việt - Lào mang tính quốc tế, lúc nào cứ gần dân một tí là các bố chính trị viên lại lên lớp và nhắc nhở. Nhưng thuốc lá ở bản Na Xịa thì đúng là vừa ngon vừa nhiều. Là thuốc ở đây to như cái lá dong, ngắt được hai chục lá đã chật tay.

Đầu bảng vẫn luôn là thuốc lá điếu chiến lợi phẩm. Đánh bọn lính Phumi thì chỉ có thuốc “Tô A” nhưng đánh bọn lính Thái Lan thì còn lấy được cả thuốc lá Salem hay Capstan. Về hậu cứ làm xoong chè mạn hay nồi cà phê ngồi quây quần bên bếp lửa hút điếu thuốc thơm với nhau thì không còn gì sướng bằng. Vào đến đây quân ta mới biết đến điếu thuốc lá đầu lọc chứ ở ngoài Bắc làm gì có. Trường Sơn và Tam Đảo là hai loại thuốc lá chủ lực vang bóng một thời của miền Bắc mà ai cũng biết cùng thuốc lá Điện Biên bao bạc là loại sang nhất cũng chỉ có điếu trần. Vì thế trong này sau khi kết thúc chiến đấu lục ba lô chiến lợi phẩm của địch thì anh em ta luôn ưu tiên tìm kiếm hai thứ là thuốc lá và giấy trắng. Giấy trắng để quấn thuốc rê, chứ sổ tay đem từ Bắc vào xé mãi cũng hết. Đau nhất là có cuốn sổ nhỏ để ghi vài dòng nhật ký theo kiểu thơ mộng học trò mà không giữ khéo để rơi vào tay thằng khác thì cũng thành giấy cuốn thuốc lá hết. Mà rồi cuối cùng thì chuyện gì cũng là hòa cả làng.

Một tối sau giờ sinh hoạt, Tiểu đội trưởng Bấn bảo Sáng:

“Ngày mai cậu đi cải thiện nhé. Anh Tuốt tiểu đội trưởng bên Trung đội 4 phụ trách. Tập trung ở chỗ bếp anh nuôi sau khi ăn sáng”.

“Đi cải thiện là gì hả tiểu đội trưởng?”.

“Là đi kiếm cái ăn cho đơn vị. Cậu cứ mang theo súng và cái gùi, kiếm như thế nào anh Tuốt sẽ hướng dẫn”.

Hôm sau Sáng cùng tổ cải thiện lên đường. Dọc đường hỏi chuyện anh Tuốt, Sáng mới hiểu đi cải thiện là gì. Hóa ra trong chiến trường các đơn vị chỉ được cấp gạo và muối là chủ yếu, còn các thứ khác hầu như không có gì. Không như ngoài Bắc khi huấn luyện còn có chiến sĩ tiếp phẩm hàng ngày đi mua rau ngoài chợ, nếu không được cấp rau ăn như kiểu cả xe bí đỏ mà đơn vị Sáng đã từng ngao ngán. Trong này không có điều kiện tăng gia nên hàng ngày mỗi trung đội cử người lập một tổ đi kiếm rau hay các loại thực phẩm ăn được cho đại đội, gọi chung là đi cải thiện. Có thể vào rừng kiếm măng, rau rừng, ra nương xin rau của dân trồng hay đến các bản bỏ tìm những thứ ăn được trong các vườn cũ đem về cho anh nuôi chế biến. Nói chung là tìm đủ thứ trên đời, miễn là ăn được. Ở vùng cao nguyên Boloven này những thứ ăn được rất nhiều. Có thể xin dân chuối xanh, cây chuối, đu đủ hay các loại rau trên nương vào mùa mưa. Ở các bản bỏ có cây ăn quả thì họ trồng thứ gì kiếm thứ đó, quý nhất là mít non. Dù các cây ăn quả bị bỏ hoang nhưng đến mùa nó vẫn ra quả dù sản lượng hay chất lượng có kém dần. Nói chung là tùy cơ ứng biến, tổ cải thiện đi đâu và lấy gì là do sự tinh ranh và kinh nghiệm của tổ trưởng, thường là một chiến sĩ cũ, một tiểu đội trưởng. Đương nhiên mùa mưa đi cải thiện dễ hơn vào mùa khô. Chuyện săn thú rừng hay bò ngựa của dân bị bỏ hoang cũng là một mục tiêu của các nhóm đi cải thiện, nhưng tổ chức phải chặt chẽ hơn ở cấp liên đại đội, vì có được một con bò thì phải mấy đại đội cùng chia nhau mới ăn hết.

Lần này Tuốt dẫn nhóm cải thiện ra đường 23 chỗ gần Bãi Đá. Mấy tháng trước, đây là một trận địa của địch đã bị ta nhổ bỏ. Gần đó có một số nương dân và Tuốt vẫn nhớ có một vườn dứa rất to. Đường đi tới đó hơn chục cây số nên cả bọn phải khẩn trương, vì Tuốt định kết hợp cho anh em vào trận địa pháo cũ của địch lấy giấy dầu về đốt buổi tối thay nến. Quả nhiên là vườn dứa ở đấy to thật, nhìn ngút ngàn, mỗi quả dứa to hơn một bụm hai bàn tay. Có cả quả xanh, quả già lẫn quả chín. Đã gần trưa nên Tuốt cho anh em dừng lại ăn cơm rồi bắt tay vào chặt dứa. Mỗi người lèn ngang lèn dọc chỉ được hai chục quả dứa là đầy cùi, đủ nặng. Tuốt cho anh em tranh thủ mỗi người gọt ăn tại chỗ một quả dứa chín cho bõ cái công. Quả dứa to tới mức không ai ăn thêm được quả thứ hai. Chỉ tiếc là không có đủ muối để chấm ăn cho ngon hơn. Tuốt chỉ có một dúm muối gói trong miếng ni lông nhỏ đem chia cho mỗi người mấy hạt. Thời gian này ở đơn vị ngay muối ăn cũng là của quý và hiếm. Anh nuôi phải dè sẻn từng ít một cho các bữa ăn, nấu cái gì cũng nhàn nhạt. Một vài thời gian, muối có ít tới mức anh nuôi không dám bỏ vào nấu trong nồi canh chung hay xào món mít non mà đem chia ra cho từng người để tự ăn và tự bảo quản. Nhạt muối nhiều lúc làm cho chân tay bủn rủn và mặt mũi phờ phạc như kẻ mất hồn khiến cho dúm muối gói ni lông để trong túi áo ngực mỗi người như một thứ bảo bối quý hiếm.

Xong việc cải thiện, cả nhóm lần ra căn cứ cũ của địch cách đó dăm trăm mét. Nơi đây khi trước địch có cả một trận địa pháo 105 ly với hai khẩu. Căn cứ này phụ họa cho căn cứ pháo ở trị trấn Paksoong nằm ở cây số 50 của đường 23 tính từ thủ phủ Pakse của địch. Sau khi mất Paksoong, căn cứ này làm mưa làm gió suốt dọc đường 23, làm lá chắn che cho ngã ba Lào Ngam, nơi có một tiểu đoàn lính Thái Lan đóng giữ để rồi từ đây chúng bung ra hoặc chi viện cho các đơn vị Phumi lấn sâu vào bên kia huội Champi. Sau khi đánh xong căn cứ này, hai khẩu pháo 105 ly chiến lợi phẩm được chuyển về sư đoàn. Đạn pháo rất nhiều, mặc dù quân ta đã thu hồi về sư đoàn nhiều đợt, song khi nhóm của Tuốt tới đây thì vẫn còn đến mấy hầm pháo tới cả trăm quả. Thân những quả đạn pháo của địch được bảo quản bằng những lớp giấy dầu quấn quanh tới hai lớp. Gọi là giấy dầu, thực ra chúng là những lớp vải sô tẩm một thứ dầu giống như keo màu cánh gián. Nhiều loại đạn hỏa lực của địch cũng được bảo quản bằng loại giấy dầu này và lính ta đã quen với chuyện bóc về cắt ra vê thành những đoạn dài thay nến để đốt buổi tối ở hậu cứ. Người dân suốt mấy tỉnh Nam Lào không có điện, họ thắp sáng bằng cà boong làm từ các bó tre khô hoặc ống nứa nhồi bã mía khô hay vụn gỗ tẩm nhựa cây khộp. Bộ đội ta không quen dùng cà boong nên thường kiếm giấy dầu để đốt. Ở hậu cứ không có giấy dầu đốt thì nhiều khi phải âm thầm chịu tối vì không phải lúc nào cũng đốt cả đống lửa to tướng được.

Mỗi người cắt giấy dầu ở ba quả đạn pháo đã được một bó to khá nặng. Tuốt bảo anh em, đủ rồi về thôi và vươn vai đứng dậy. Sáng cũng quay lưng định bước, chợt nhìn thấy ở cửa hầm gần đó có một đống đinh màu đen liền bước tới. Vốc lên, không phải đinh mà là vô vàn những mũi thép dài độ hai phân, nhỏ như những cái đinh đóng guốc. Chúng có một đầu nhọn và một đầu có cánh, trông hệt như những mũi tên thép đen nhánh. Sáng bật lên tiếng xuýt xoa: “Sao lại có những cái đinh như mũi tên ở đây anh Tuốt ơi?”. Tuốt bước lại cũng bốc lên một nắm đinh rồi mở bàn tay cho những cái đinh ấy rơi lã tã xuống đất, bảo Sáng:

“Đây là ruột của đầu đạn pháo “tổ ong” (Beehive) của địch. Loại đạn này là đạn bắn thẳng của pháo 105 ly. Mỗi đầu đạn có 8.000 mũi tên như thế này bắn ra thành một chùm rộng như cái nong về phía trước. Địch dùng đạn này bắn trực diện khi quân ta tiến công vào căn cứ. Trúng phải phát đạn này thì tất cả những người nằm trong tầm đạn chả thoát một ai”.

Sáng và người trong nhóm cùng rụt cổ lè lưỡi. Nhìn lại cái mũi tên thép thấy rợn thật. Tưởng tượng cả một chùm 8.000 mũi tên như thế là là bay ngang tầm người xa vài trăm mét thì nó quét sạch mọi thứ trên đường đi. Ngẫm một chút, ngày ở nhà đi học, nghe nói nỏ thần An Dương Vương bắn một phát ra 10 mũi tên mà quân Triệu Đà phát khiếp chịu thua, so với loại đạn tổ ong này của pháo 105 ly thì thật chỉ như con kiến với con voi. Sáng định lấy một vốc đem về dùng làm đinh, nhưng Tuốt gạt đi. Anh em mình có gì cần đóng đinh đâu. Vả lại nó không có mũ thì cũng không dùng làm đinh được.

Hậu cứ của Đại đội 6 nằm chung trong một cánh rừng già rộng lớn với tiểu đoàn bộ nhưng quay ra hai nhánh suối khác nhau. Khu rừng này rất đẹp, toàn cây to cao vút, đi trong rừng ngửa cổ lên cũng chỉ toàn thấy tán cây. Muốn có bóng nắng phải đi ra bìa rừng. Khi làm hậu cứ, bao giờ tiểu đoàn bộ cũng được các đại đội bộ binh bố trí bao quanh, nhưng sẽ có một đại đội nằm gần tiểu đoàn bộ nhất, chỉ cách khoảng hai trăm mét để còn xử trí trong những tình huống bất ngờ. Lần làm hậu cứ này, Đại đội 6 được chọn ở cạnh tiểu đoàn bộ. Trung đội 5 nằm sát ngay con đường đi lên tiểu đoàn. Ở hướng này rất an toàn khi gác đêm nhưng hay bị cán bộ đi kiểm tra. Cánh trinh sát tiểu đoàn khi ra phía trước cũng hay chọn đường đi nhờ qua hậu cứ Đại đội 6 để còn vòng qua nương của một bản dân gần đó hái dưa chuột ăn vì lúc này đang là mùa mưa, dưa chuột nằm la liệt khắp rẫy do người dân Lào rắc hạt trồng ngay trong ruộng lúa để chống cỏ mọc. Tháo cũng hay mò ra con đường lên tiểu đoàn bộ vì ở ven rừng phía đó có mấy cây hạt dẻ rất to, nhặt đem về chịu khó rang thì cũng có cái nhấm nháp buổi tối. Bãi cỏ cạnh đấy nằm liền với lán của ban hậu cần tiểu đoàn và luôn vắng người vì nếu không có việc thì chả mấy ai mò tới vì chỗ ấy là nơi nuôi lợn tạm, thường rất bẩn. Cứ mỗi lần Tháo thấy có mấy con lợn buộc ở quanh đó là y như rằng các đại đội chuẩn bị được ăn tươi. Không thể chuyển được mọi thứ thực phẩm vào chiến trường nên cấp trên phát cho ban hậu cần, thường là từ cấp tiểu đoàn trở lên một lượng tiền tính theo tiêu chuẩn quân số để tìm mua thực phẩm trong dân, chủ yếu là lợn. Cứ chừng một tháng thì mỗi đại đội lại được cấp một con lợn cỡ chừng năm, sáu mươi cân. Mấy ngày liền được ăn thịt, sau đó lại vêu cả tháng cải thiện lằng nhằng để ăn, cảnh “no dồn đói góp” thế này chiến sĩ ta quá quen. Lọ mọ đến gần lán hậu cần của tiểu đoàn bộ, một lần Tháo được gọi vào ăn món hạt dẻ rang. Dạo này tiêu chuẩn ăn được năm lạng gạo một ngày nhưng cánh chiến sĩ trên tiểu đoàn bộ, nhất là dân hậu cần không đói đến mức phải đi kiếm hạt dẻ, nhưng vì nó có sẵn ngay trong rừng hậu cứ nên nhặt về đem rang ăn chơi cho đỡ buồn mồm. Nhờ thế Tháo làm quen được với anh Chớt, trợ lý hậu cần tiểu đoàn. Anh Chớt người Hà Bắc, đi bộ đội từ năm 1967, đã từng tham gia đánh Huế hồi Mậu Thân 1968. Bị thương chưa đến mức phải ra Bắc, lại là đồng hương với Tiểu đoàn trưởng Phát nên được bố trí làm trợ lý hậu cần. Trong Tiểu đoàn 2 này, các anh quê Hà Bắc khá đông và hình như đều rất tháo vát. Trong đại đội của Tháo cũng có anh Tiết dân Hà Bắc làm quản lý đại đội, cũng đã từng bị thương nhưng chỉ là vết thương xoàng. Đã hơn bốn năm quân ngũ, các anh quê Hà Bắc trong đơn vị đều thuộc loại lão làng.

Anh Chớt hơi xấu trai, mặt đầy nốt rỗ, di chứng của bệnh đậu mùa lúc còn trẻ con, nhưng tính tình rất dễ chịu. Thấy Tháo đôi lần lang thang ra chỗ mấy cây hạt dẻ nhặt hạt, coi bộ cũng ngoan ngoan dễ ưa nên anh gọi vào. Tháo được ăn hạt dẻ, được uống cà phê và được anh mời hút thuốc lào. Thuốc lá rê và chè mạn thì dưới các đại đội là thứ thường tình với lính. Các vườn chè của dân ngoài đường 23 rất nhiều. Suốt hai chục cây số dọc đường 23 từ thị trấn Paksoong vào phía Lào Ngam dày đặc bản dân. Các loại vườn chè, vườn cà phê và vườn cây ăn quả không đếm xuể. Ngày chiến sự chưa lan tràn đến đây, cuộc sống của dân rất trù phú. Nhà sàn của họ toàn loại gỗ xẻ dựng lên, lợp mái tôn bề thế. Khi dân chạy hết vào Pakse thì đương nhiên vườn tược bỏ hoang. Hái búp chè về vò và sao rất đơn giản, chỉ cần một mảnh tôn và bếp lửa, chịu khó nhựa dính tay đen nhẻm một tuần là cả tiểu đội có chè mạn uống mấy tuần. Nhưng cà phê thì kỳ công hơn nhiều, chỉ có chiến sĩ trên tiểu đoàn bộ có nhiều thời gian và đủ tính cầu kỳ mới có thể làm ra bột cà phê từ những quả cà phê chín đỏ hái trên cây. Cà phê trong chiến trường chỉ một kiểu pha “bít tất”, cho bột cà phê vào cái túi vải dù cột lại rồi thả vào cái xoong sáu to đùng đầy nước đun sình sịch một lúc là xong. Kiểu pha này rất thích hợp với loại bột cà phê giã tay bằng cối tự tạo. Nước cà phê thơm lừng, cho đường vào ngoáy lên rồi mỗi thằng một bát B-52 kèm điếu thuốc rê là nhất hạng rồi. Quan trọng hơn nữa là lính tráng dưới các đại đội không mấy khi có đường nên chỉ chè mạn là thích hợp, so bì thế nào được với lính tiểu đoàn luôn được uống cà phê.

Tháo ngạc nhiên hơn nữa khi thấy anh Chớt có thuốc lào. Anh Chớt khéo tay, làm được cái điếu cày đẹp và công phu như một tác phẩm nghệ thuật. Thân điếu được chạm khắc và hơ lửa tạo thành hình ảnh một con rồng uốn lượn màu hổ phách, cứ bóng ngời lên. Hai cái tay tre nguyên thủy tạo thành giá đỡ cho chiếc điếu, không cần phải dựa vào đâu cả. Nhưng đặc biệt hơn cả là cái nõ điếu làm bằng gỗ cây ô rô, không biết kiếm ở đâu. Khi rít cái điếu cày kêu vang sòng sọc đến cả ba lán quanh đó đều nghe thấy. Đỉnh điểm của mỗi lần anh Chớt rít thuốc lào là mục nhả khói. Một luồng khói dài đặc quánh từ miệng anh tuôn ra tưởng như không dứt. Tiểu đoàn trưởng Phát đồng hương cũng là dân nghiện thuốc lào mà còn phải xòe tay và nhún vai mỗi khi anh Chớt nhả khói, có lần phải bảo là: “độ ba thằng như mày cùng nhả khói thuốc lào ở bìa rừng thì đủ để L-19 phát hiện mục tiêu bắn pháo khói gọi bom”. Thuốc lào ở chiến trường hiếm chả khác gì thuốc lá Trường Sơn, Tam Đảo ngoài Bắc chuyển vào. Loại nhu yếu phẩm này thuộc loại thứ yếu và xa xỉ nên chỉ có thể có vào dịp tết, mỗi chiến sĩ đôi ba điếu. Nhưng anh Chớt là dân hậu cần cỡ tiểu đoàn thì cánh lính ngành dọc của anh là dân hậu cần từ sư đoàn đến trung đoàn truyền xuống cũng phải dấm dúi cho anh mỗi khi có đợt hàng hiếm hoi chuyển vào.

Một buổi chiều được nghỉ tắm giặt sau nửa ngày sửa sang lại hầm thùng của lán tiểu đội, Tháo ra suối tắm. Phải chịu khó đi xa một chút sang nhánh suối phía tiểu đoàn bộ mới có đoạn suối đá, có tảng đá to để ngồi giặt quần áo. Xong xuôi, quần áo chỉnh tề, Tháo ôm đám quần áo ướt lần về đại đội. Qua gần chỗ mấy cây dẻ gai, Tháo nghe tiếng loạt soạt trong đám cây sa nhân rồi liền sau đó là tiếng hét ríu cả lưỡi của anh Chớt đang chạy đến: “Bắt! Bắt! Bắt!”. Một con lợn to đen trũi đang lao thẳng về phía Tháo. Chả kịp nghĩ gì, Tháo quăng luôn đám quần áo ướt và lao bổ vào con lợn. Một cú bay người rất ngẫu hứng của Tháo đã giúp nó tóm được cái dây thừng buộc cổ con lợn. Cái dây ngắn quá khiến Tháo phải ghì chặt không để con lợn kéo đi. Kịp lúc anh Chớt và một anh lính khác lao vào cùng giữ được con lợn. Nhận ra Tháo, anh Chớt vừa thở hực hực vừa bảo:

“May quá, có chú mày tóm được chứ nó mà lao xuống tận suối thì thật hết hơi. Cảm ơn nhé”.

“Cũng may có cái dây chứ nếu không em cũng chịu. Mà sao anh buộc cái dây ngắn thế. Anh để nó sổng ra à?”.

“Ừ, buộc rồi dây dài hẳn hoi. Không hiểu thế quái nào lại đứt dây còn mỗi mẩu ngắn thế. Cũng còn may bọn anh phát hiện ra kịp thời mà đuổi bắt. Ngày mai phát lợn xuống các đại đội rồi mà để sổng mất là toi cả lũ”.

Rồi anh rủ Tháo về lán anh uống nước. Tháo nhặt quần áo lên đi theo. Bộ quần áo vừa mặc dính lem luốc cả đất và nhựa cây sau cú vồ lợn vừa rồi, Tháo gạt gạt phủi phủi mà không hết. Thôi kệ. Tới lán, Tháo giúp anh Chớt lấy cái dây rừng khác buộc lại con lợn vào một gốc cây, ngắm nhìn con lợn rồi bảo:

“Con lợn đen này chắc là giống lợn Mẹo quen thả rông nên nó mới bứt dây chạy kiểu đó. Mà con này chắc cũng trên sáu chục cân ấy anh nhỉ”.

“Ừ, hơn sáu chục cân. Chính xác là 62 cân hơi. Chú mày nói năng nghe cũng có vẻ biết biết về lợn nhỉ”.

Vừa nhìn con lợn sục sục đám đất quanh gốc cây buộc, anh Chớt bỗng quay sang Tháo vẻ ngạc nhiên và đổi cách xưng hô:

“Ơ, nhưng mà cậu dân Hà Nội cơ mà, sao lại biết về lợn nhỉ”.

“Anh cứ coi thường em. Em dân Hà Nội nhưng là ngoại thành, nông dân chính hiệu. Ngày ở nhà em vẫn cùng bố giong lợn đực đi phối giống khắp vùng và mua lợn thịt mổ chui. Bố con em nhìn con lợn bằng mắt cũng ước chừng khá chính xác nặng bao nhiêu”.

Nghe vậy, anh Chớt nhìn Tháo như phát hiện ra một điều mới lạ. Anh thân mật vỗ vai Tháo:

“Vậy đợt tới tớ báo cáo tiểu đoàn xin cho cậu đi cùng bọn tớ xuống Saravan mua lợn cho đơn vị nhé”.

Thấy Tháo gãi đầu vẻ ngượng nghịu mà chưa tỏ thái độ dứt khoát, anh Chớt gạ thêm:

“Gật đầu đi để tớ còn báo cáo tiểu đoàn. Đi mua lợn hay lắm đấy. Cậu cứ đi một lần cho biết”.

Tháo nhìn anh Chớt nháy mắt với mình mấy cái, thấy vui vui và gật đầu: “Vâng ạ”.

Ba ngày sau, đại đội có lệnh cho Tháo mang ba lô và vũ khí cá nhân lên tiểu đoàn bộ nhận công tác biệt phái. Tháo lên ở chung lán với anh Chớt. Cùng ngày có thêm một chiến sĩ nữa tên là Thắng ở Đại đội 7 nhập vào nhóm đi mua lợn. Thắng người Thái Bình, đã đi mua lợn cùng anh Chớt tới hai lần rồi nên có thể coi là lính cựu mua lợn. Ba anh em mang theo đầy đủ tư trang cá nhân, kể cả tăng võng vì đang là mùa mưa. Tháo và Thắng mỗi người đều mang AK, hai băng đạn và hai quả lựu đạn. Riêng anh Chớt khoác một khẩu súng cạc-bin. Tháo được giao mang thêm một cái xoong sáu để nấu cơm. Dự kiến đi hai chục ngày mà cả ba mang có chục cân gạo. Anh Chớt bảo, mang thế thôi còn trên đường đi sẽ mua thêm gạo trong dân. Cái ba lô của anh Chớt còn có thêm một cái bọc gì to tướng mà sau Tháo mới biết đó là mấy bộ quân trang của địch. Anh Chớt không quên ngoắc chiếc điếu cày đẹp mã của mình sau lưng ba lô.

Đây là lần đi công tác lẻ đầu tiên của Tháo. Nhiều chuyện lạ kích thích trí tò mò của Tháo và đem lại cảm giác rất háo hức. Đi mua lợn về tuyến sau không có gì phải vội, lại chủ động về tuyến đường nên cơm sáng đàng hoàng cả nhóm mới lên đường. Có ba anh em đi lẻ, Tháo thấy cảm giác thật tự do như chim sổ lồng vì đi bao lâu hay nghỉ giải lao ở đâu đều do anh Chớt lựa chọn chỗ đẹp. Hôm nay trời không có mưa, không có nắng, bầu trời cứ sáng đùng đục một màu mây. Đường đi là đường mòn ít người qua lại, anh Chớt vác súng đi trước còn Tháo và Thắng bám sau. Theo ý anh Chớt, đợt này đi mua lợn Thắng và anh Chớt sẽ dạy cho Tháo một ít tiếng Lào kiểu truyền miệng. Đầu tiên là hỏi đường đi, sau đó là xin ăn và cuối cùng là cảm ơn và xin lỗi. Thắng nói một câu tiếng Lào, giải nghĩa và Tháo nói theo. Lượng từ vựng không nhiều nên chỉ buổi sáng là Tháo đã có thể tự lẩm nhẩm cho thuộc. Sau phần cơ bản này sẽ học thêm vài thứ tên gọi vật dụng, hoa quả và con vật cần thiết khác. Buổi trưa tất cả dừng chân ở một vạt rừng cạnh suối, ăn cơm nắm đem từ nhà với muối ống và ngồi nghỉ lại hơn một tiếng. Lúc đứng dậy đi tiếp, anh Chớt bảo:

“Đoạn đường sắp tới hay có gà rừng. Các cậu đi lùi sau tớ một đoạn nhé, chỉ cần bám theo bóng cho khỏi lạc. Tớ sẽ tìm cách kiếm con gà rừng tối nay cải thiện”.

Nói rồi anh Chớt xăm xăm đi trước. Thắng và Tháo cứ nhìn theo hút anh Chớt mà theo. Đi được khoảng gần một giờ, bỗng Thắng giơ tay ngăn Tháo dừng lại rồi cả hai cùng ngồi xuống im lặng. Một tiếng nổ “đoàng” vang lên phía trước. Thắng cùng Tháo chạy lên, đã thấy anh Chớt miệng cười tươi, trong tay là một chú gà rừng khá to. Thắng đỡ con gà trên tay anh Chớt, nhấc nhấc mấy cái trên tay đo độ nặng rồi ngắt một đoạn dây rừng buộc con gà treo vào sau ba lô, nháy mắt với Tháo:

“Bữa tươi tối nay đấy. Mày thấy đi công tác lẻ có hay không?”.

Tháo gật đầu hưởng ứng rồi tất cả lên đường. Chiều ấy anh Chớt cho tất cả dừng chân nghỉ sớm bên một cánh rừng thưa có suối đá. Anh Chớt giao cho Tháo vặt lông con gà, bảo Thắng đi kiếm củi khô còn mình đào một cái bếp trên bờ đất gần suối. Tháo nhìn mấy tảng đá bên suối hỏi anh Chớt:

“Sao anh không lấy luôn mấy hòn đá bên suối kê bếp như ông đầu rau mà lại đào bếp trên đất ạ?”.

“Cậu nói vậy là hiểu biết về rừng núi còn ít lắm. Những hòn đá bên suối vào mùa mưa đều ướt và ngậm nước trong đó. Mình dùng làm đầu rau đun bếp, lúc nóng lên nó bị nổ văng mảnh ra có khi gây tai nạn, mất cả bữa ăn. Anh đào bếp đất đun một lát đất nó khô dần là ngon lành thôi”.

Thấy Tháo cứ cầm con gà trong tay mà ngồi im. Anh Chớt bảo:

“Sao cậu không vặt lông gà đi?”.

“Dạ, em chờ đun nước sôi để nhúng vặt lông gà ạ”.

“Ôi, đúng là lính mới tò te”. Anh Chớt lại nhành miệng cười ngất. “Tất cả những con chim chóc trong rừng kể cả gà đều có thể vặt lông thô, không cần nhúng nước sôi như gà vịt nuôi đâu, cậu cứ thử mà xem”.

Tháo nắm đám lông trên mình con gà vặt thử. Quả nhiên nó cứ bung ra soàn soạt. Kể cả những cái lông cánh lông đuôi cũng dứt ra được dễ dàng. Chưa vặt xong lông gà thì Thắng đã ôm một bó củi khô mang về. Thắng cùng anh Chớt nhóm luôn hai cái bếp. Một bếp đất đặt đun xoong nước còn một bếp kê cành cây tươi bắc lên hai cái chạc nấu cơm bằng chiếc hăng gô. Anh Chớt cầm con gà Tháo đã vặt lông xong hơ qua trên lửa cho cháy hết đám lông tơ còn sót, đoạn đem ra bờ suối mổ. Móc bụng con gà chỉ lấy lại tim gan còn vứt hết. Rửa một nhoáng đã sạch, anh cho vào cái xoong sáu rồi đậy vung lại. Ba anh em vừa nấu cơm vừa tranh thủ rửa chân tay rồi mắc võng quây quanh mấy cái cây gần đó. Vừa đun nấu, Thắng vừa rì rầm nói chuyện với Tháo quanh chuyện đi công tác lẻ. Thắng bảo: “Đi mua lợn thế này với anh Chớt lẽ ra không phải đem theo cái xoong sáu vướng víu này đâu, vì chỉ đôi ba lần ngủ rừng thôi, còn sẽ toàn ngủ nhờ trong bản dân. Nhờ bếp của dân để đun nấu và có khi là xin ăn nhờ luôn của họ nữa. Ngay cả nấu cơm giữa rừng thì dùng hăng gô là đủ, nhưng luộc gà như hôm nay thì phải dùng xoong chứ cái hăng gô bé quá. Lần này đi mua lợn cùng anh Chớt tự mày sẽ cảm nhận được rất nhiều cái hay của đi công tác lẻ. Tự chiêm nghiệm ra mới sướng chứ tao nói ra sớm thì mất hay”.

Chẳng mấy chốc mà cơm và gà đã chín. Thắng dùng dao găm chặt con gà trên đoạn cây gỗ khô gần đó, xếp thịt trên cái nắp vung, còn nước luộc thì thái vào đó nắm rau cải nó vặt từ lúc nào đó khi đi qua một nương dân và cho tí muối vào làm canh. Đến lúc soạn bát ra, anh Chớt và Thắng đều có bát ăn cơm bằng sắt tráng men hoa của lính, loại bát bốn lạng nho nhỏ và một cái thìa inốc thì Tháo chỉ có cái ca nhôm lồng dưới đáy bi đông được phát từ ngoài Bắc. Thắng chặt mấy nhánh cây rừng vót nhanh mấy đôi đũa rồi bảo Tháo:

“Lúc nào mày cũng nên kiếm một cái thìa inốc thủ trong người. Tiện trong mọi lúc đấy. Còn cái ca nhôm lờ trâu này nên gò lại thành cái bát nhỏ ăn cơm thích hơn”.

Ba anh em có bữa cơm chiều ngon lành. Cũng đã lâu lâu không được ăn thịt, nay bữa đi công tác lẻ đầu tiên đã được cùng hai anh chén cả một con gà, cơm lại nấu đủ nên Tháo ăn rất ngon miệng. Cuối bữa, mọi thứ sạch như chùi. Tháo đem các thứ xuống suối rửa sạch rồi quay lại. Thắng quả là một thằng tháo vát và hợp dơ với anh Chớt. Nó đã kịp lấy cái hăng gô khác cho nước vào đun sôi để pha trà. Trời vẫn còn sáng, ba anh em ngồi quây lại uống nước trà và hút thuốc. Tháo và Thắng quấn thuốc rê còn anh Chớt bắn thuốc lào. Lại nghe tiếng điếu rít của anh Chớt kêu giòn tan và Thắng bảo: “Các anh hút thuốc lào mà điếu không kêu to thì mất ngon một nửa”. Thắng bảo Tháo: “Bọn mình được anh Chớt chọn cho đi mua lợn thế này là may mắn lắm đấy, nhất là nếu đơn vị đang phải ra tuyến trước. Yên tâm về cái gáo ít nhất là trong thời gian đi mua lợn. Còn như lúc này đơn vị đang ở hậu cứ thì hầu như ngày nào cũng phải đi gùi cõng. Được đi nhiều nơi thêm biết đó biết đây. Đêm ngủ lại không phải gác. Anh em chỉ được ăn tiêu chuẩn năm lạng gạo một ngày nhưng bọn mình thì được ăn no. Hơn nữa có lúc lại kiếm thêm được chất tươi như hôm nay đấy”.

Thắng nhìn anh Chớt đang ngửa cổ nhả khói thuốc lào rồi ghé sát tai Tháo nói nhỏ:

“Anh Chớt là loại ca cóng có đẳng cấp trong tiểu đoàn mình đấy”.

“Ca cóng là cái gì hả Thắng”.

“Mày mà chưa biết ca cóng là gì à?”. Thắng ngạc nhiên rồi đặt tay lên vai Tháo bóp nhẹ và giải thích:

“Ca cóng tức là khả năng tự kiếm mọi thứ cải thiện lẻ cho bản thân và cho nhóm nhỏ. Đơn giản đó là khả năng kiếm ăn trong mọi điều kiện và hoàn cảnh. Ca cóng đẳng cấp tức là có trình độ hơn người, trong khi mọi thằng khác chưa nhìn ra cái gì thì mình đã nghĩ và tìm ra cái để ăn rồi”.

Ra vậy, thế thì cánh lính mới như mình còn lớ ngớ lắm, còn lâu mới tự ca cóng được, Tháo nghĩ. Nhưng Tháo chợt nhớ lại, dạo đóng quân ở bản Phuột một tuần cũng đã nghe Tiểu đội trưởng Nhạn nói cái từ ca cóng này khi nấu cháo gà ăn hằng tối mà sao mình lại quên nhỉ. Anh Chớt vừa nhấp xong ngụm nước chè, tay vê điếu thuốc lào thứ ba, nghe hai đứa nhóc nói chuyện với nhau, cắt lời:

“Đi công tác lẻ mới có điều kiện ca cóng chứ ở đơn vị khó lắm. Đơn vị đông người, mình có kiếm ra được cái gì ăn cũng phải chia cho anh em chứ, ăn một mình sao được. Hôm nay đi với các cậu, có ít người thì ca cóng mới thoải mái thôi. Thấy các cậu ngoan, tớ rủ cùng đi mua lợn cho vui vẻ anh em, nhưng không phải hoàn toàn sướng đâu. Cũng phải cảnh giác ở vùng có địch và rất vất vả khi mua xong lợn dắt về đấy. Thôi, xem lại tăng võng rồi chuẩn bị đi ngủ. Chỗ này tớ biết là vùng an toàn nên đêm nay không gác, nhưng ngủ mà vẫn phải tỉnh đấy nhé”.

Một đêm trôi qua. Sớm sau anh Chớt lại là người thúc hai chiến sĩ dậy:

“Dậy đi hai tướng, sáng bảnh mắt rồi này. Gớm, đêm qua hai thằng các cậu ngủ ngon và say quá. Sức thanh niên có khác. Nhưng như thế là bản năng người lính chiến trường còn non lắm. Ngủ nhưng phải như thức mới được, động cái gì phải biết và tỉnh ngay. Buổi sáng cũng không bao giờ được ngủ rốn. Ngày thường chứ có phải qua đợt công tác thức đêm nhiều phải ngủ bù đâu. Đi lẻ được tự do và chủ động nhưng tự rèn cũng rất cần thiết đấy nhé. Các cậu đánh răng rửa mặt rồi nấu luôn cơm hai bữa đi”.

Thắng và Tháo xuống suối đánh răng rửa mặt rồi bắc bếp nấu cơm cho bữa sáng và cả cho bữa trưa. Anh Chớt lại bắn thuốc lào sòng sọc. Cơm chín, Thắng xúc ra một nửa bọc vào miếng vải dù dành cho bữa trưa rồi mời anh Chớt và Tháo ăn bữa sáng. Thức ăn chỉ có mỗi món muối ống như trưa qua, tức là thịt lợn thái nhỏ như băm rang mặn với muối ớt để trong cái ống tre. Tháo chỉ khều một chút là đã đủ thức ăn cho hai bát cơm vì nó vừa mặn vừa cay. Thắng từng đi mua lợn với anh Chớt nên không lạ món ăn đi đường truyền thống này, nhưng thấy Tháo vừa ăn vừa xuýt xoa nên anh Chớt giải thích:

“Đây là thức ăn đi đường thuộc loại đặc sản của anh đấy, tạm gọi là muối ống. Học theo đúng cách Bác Hồ làm ngày xưa khi đi công tác từ biên giới Việt Nam sang Trung Quốc. Có ít thức ăn thôi mà đủ để đưa cơm, để được lâu không hỏng và có tác dụng chống sốt rét. Mà không phải ai cũng có đâu nhé”.

“Vâng, bây giờ anh nói em mới nhớ là cũng đã có đọc truyện về Bác Hồ và món ăn như thế này. Đúng là không dễ làm được vì ít nhất phải kiếm được ít thịt lợn và có đủ muối. Em chỉ chưa quen vì nó hơi cay thôi”.

Vừa xúc nốt thìa cơm cuối cùng và liếm sạch cái thìa còn dính tí muối ống, Thắng nghe Tháo nói vậy thì góp thêm:

“Rồi dần dà mày sẽ thấy cái món muối ống này là thức ăn đi đường thuộc loại vô địch. Tới bữa trưa nếu mày thấy nóng bụng thì tao sẽ hái nắm lá chua đun tí canh, ngon không đủ cơm để ăn ấy chứ”.

Tháo gật đầu khẽ dạ với cả hai anh để tỏ sự đồng tình. Thắng lại đun hăng gô nước pha trà, xong xuôi đến hai tuần nước, tất cả mới lại quấn tăng võng và sắp xếp mọi thứ lên đường.

Ngày thứ hai này đi đường qua ít nơi có suối hơn. Rất nhiều đoạn là rừng thưa hoặc đường đi trùng với đường xe bò của dân. Một vài đoạn không phải là nương mà là ruộng lúa nước đang vào thời kỳ trổ đòng. Tháo thấy có cái gì đó giống như vùng đồng bằng ngoài mình. Hỏi anh Chớt, anh bảo đây thuộc tỉnh Saravan, một vùng đất bình nguyên nên có nhiều suối cạn, ruộng lúa nước và cả những dải đất khô cằn chỉ có mỗi thứ cây khộp mọc được xen lẫn rất nhiều ụ mối. Cây khộp và ụ mối như thế nào, rồi cậu sẽ thấy. Vùng đất như thế nên dân ở đây họ cũng chỉ trồng lúa được một vụ giống như trên cao nguyên Boloven thôi. Những đoạn đi qua con đường nhỏ xuyên ruộng lúa, Tháo thò tay tuốt ngọn đòng đòng đưa lên miệng nhai. Toàn đòng đòng lúa nếp, hạt non ứa chất sữa gạo thơm và ngọt. Tháo chợt thấy nhớ nhà, thấy lòng mình se lại. Quê mình cấy lúa hai vụ, trồng lúa tẻ là chính. Mỗi năm vào vụ mùa hợp tác mới dành ra một ít ruộng cho trồng lúa nếp. Vừa là để đóng góp cho huyện theo chỉ tiêu riêng, vừa có chút thóc nếp chia cho xã viên ăn tết. Có như thế người dân mới có được cặp bánh chưng đặt trên bàn thờ phút giao thừa, chứ đất năm phần trăm các nhà chủ yếu đem cấy lúa tẻ để tăng thêm phần lương thực vì với nông dân cái ăn là trên hết. “Tháng ba ngày tám” luôn là nỗi lo và ám ảnh không dứt của bao đời người nông dân bán mặt cho đất bán lưng cho trời, lo cả nhà đứt bữa trong những ngày giáp hạt. Bao nhiêu năm xây dựng hợp tác xã rồi đấy mà nỗi lo này vẫn còn đeo bám. Ngay cả trồng rau ăn tự túc là thứ không thể thiếu trong cuộc sống cũng chỉ dám gạn gỡ gieo trên mảnh vườn con ven bờ ao bờ rào mà thôi. Trẻ con ở đâu chả nghịch, nên nhiều lần Tháo cũng theo đám bạn chăn trâu thừa lúc trưa không ai để ý ngắt trộm mấy ngọn đòng đòng nếp để ăn cho biết. Ngắt trộm thôi chứ để hợp tác bắt được thì lôi thôi to, vạ lây đến cả cha mẹ.

Thắng có vẻ không ngó ngàng gì đến mấy cái ngọn đòng đòng, bám sát ngay sau anh Chớt. Đi mua lợn với anh Chớt quen rồi nên nó tỉnh bơ với nhiều thứ thường tình, với nó có thứ khác hay hơn. Ngắt đòng đòng rồi ngó ngang nhìn ngửa vùng đất lạ, thính thoảng Tháo lại phải guồng chân đuổi theo hai anh. Chân chạy nhảy tưng tưng trên bờ ruộng làm cái xoong đeo trên lưng đập kêu lóc tóc. Khẩu AK cứ lúc xách tay, lúc đặt lên nắp trên ba lô, tay giữ cái nòng. Chiều ngày thứ hai này cả nhóm dừng chân nghỉ tại một bản Lào. Tháo nhớ lại mấy cái bản đã gặp hồi mới đánh nhau ở đường 231 gần huội Champi, thấy các bản người Lào thường chỉ độ hơn chục nóc nhà, hai chục nóc đã là bản lớn lớn. Bản này cũng chỉ hơn chục nóc nhà làm rất thưa, xa nhau, trong bản chỉ có sân chứ không có vườn. Nơi này cũng không thấy trồng cây ăn quả. Anh Chớt hỏi nghỉ nhờ được ở một nhà dân. Tối hôm ấy anh Chớt đi loanh quanh mấy nhà dân xin và đem về được ba nắm xôi to đủ cho ba người ăn. Ông chủ nhà lấy ra mời cả bọn chấm một thứ nước gì đó trông xỉn xỉn để ăn với xôi. Anh Chớt và Thắng nói “khớp chay” (cảm ơn) và ăn ngon lành nhưng Tháo thấy nó thum thủm thế nào ấy nên xin anh Chớt muối ống để chấm.

Buổi tối ba người ngồi uống nước chè và hút thuốc với ông chủ nhà. Bà vợ và cô con gái đi ngủ sớm không tham gia. Anh Chớt mời chủ nhà hút điếu thuốc lào Việt Nam nhưng ông cười, chắp tay cảm ơn mà không hút, vì không quen. Quả thế thật, không quen hút thuốc lào mà rít bừa một điếu là rất dễ say, nếu gặp lúc đói có khi ngã quay lơ ra đờ đẫn cả chục phút mới ngồi dậy được. Đêm ấy nằm sát bên nhau ngủ gần bếp lửa, Tháo rì rầm hỏi anh Chớt đôi điều thắc mắc về bản Lào. Anh Chớt bảo, người Lào họ rất giàu lòng nhân ái, mến khách và thân thiện. Chả bao giờ thấy họ to tiếng cãi vã nhau. Nước Lào đất rộng gần bằng nửa nước ta mà dân số lại chỉ có ba triệu người, chưa bằng phần mười dân số Việt Nam. Vì thế ở các vùng nông thôn, cao nguyên và rừng núi họ sống rất thưa thớt, mỗi bản của họ dân không bằng nửa xóm ngoài Bắc ta. Người Lào chủ yếu sống bằng trồng trọt và chăn nuôi, lúa cấy có một vụ, toàn lúa nếp. Họ có tập tục ăn bốc bằng tay nên không cấy lúa tẻ. Người Lào không quen ăn đũa hay thìa, chỉ đồ xôi chứ không nấu cơm nếp. Tháo nhớ nắm xôi ăn lúc tối, thảo nào thấy dẻo và thơm ngon hơn nhiều so với cơm nếp anh nuôi nấu ở đơn vị. Anh Chớt lại bảo, ngay cả rau người dân cũng chỉ có làm mỗi món đồ, không xào hay nấu canh, kể cả thịt cá cũng vậy. Không chỉ gà lợn hay trâu bò, mà thú rừng săn được hay có khi cả thịt voi nữa họ cũng chỉ đồ lên. Kiểu đồ thức ăn thế này khiến dễ bốc bằng tay, món ăn ngọt thịt và cũng vì thế chỉ có món chấm là chủ lực. Anh Chớt bảo lúc chiều ông chủ nhà mời món chấm có tên phà đẹt ấy là quý khách lắm. Nó là thứ mắm làm từ da trâu hay thịt lợn trộn với muối và rất nhiều tỏi, ớt có mùi nằng nặng nên không phải quân ta ai cũng ăn được. Nhiều khi món chấm của họ còn đơn giản hơn, chỉ là côn trùng thậm chí là con bọ hung vặt bỏ chân cánh giã với muối ớt là xong. Tháo lè lưỡi: “Ghê quá anh nhỉ?”. “Ghê quái gì, mày không nhớ Việt Nam có câu “ăn bẩn sống lâu à”, hoàn toàn thích hợp nhé”, anh Chớt trả lời rồi cười phe phé. “Chuyện về bản Lào còn nhiều lắm, dần dà trên đường đi, anh sẽ kể cho mày nghe, có vẻ như mày cũng tò mò thích tìm hiểu nhỉ. Thôi, bây giờ thì ngủ đi, sáng mai anh sẽ gọi chúng mày dậy sớm”.

Anh Chớt gọi Thắng và Tháo dậy khi hai thằng vẫn còn ngon giấc. Trời đã sáng rồi. Cả bọn khoác ba lô, súng đạn lỉnh kỉnh lên vai, anh Chớt nhận đùm xôi to từ tay ông chủ nhà, chào xambaidi (tạm biệt) rồi lên đường. Ra đến cái suối đầu bản, anh Chớt cho dừng lại rửa mặt. Mỗi lính có một cái khăn mặt bông to màu cứt ngựa dài đến sáu chục phân được phát từ ngoài Bắc, chỉ cần vò một lần đủ rửa mặt và mọi thứ. Nếu không có mũ thì dùng cái khăn mặt quấn lên đầu làm mũ, vừa che nắng, vừa lau mồ hôi tiện lợi đủ bề. Bàn chải đánh răng cũng mang từ Bắc vào nhưng không còn thuốc. Thế là anh Chớt chìa ra một cái tuýp thuốc đánh răng màu mè rất đẹp in chữ Thái Lan loằng ngoằng như con giun, bóp thuốc ra cho tất cả cùng dùng. Tháo thấy thứ thuốc đánh răng này mềm và hơi cay cay tê tê như bạc hà nhưng cực kỳ thơm, khác hẳn thứ thuốc đánh răng Ngọc Lan của Việt Nam, vừa khô vừa không thơm. Anh Chớt cười bảo, có rất nhiều thứ chiến sĩ ta dùng là lấy từ chiến lợi phẩm thu của địch. Anh còn cho xem cái bàn chải đánh răng của anh, đẹp mê li. Anh bảo: “Chúng mày sau này đánh nhau thu được ba lô của địch sẽ còn tìm ra được khối thứ hay không nằm trong danh mục vi phạm chính sách chiến lợi phẩm. Mấy thứ linh tinh của anh dùng hằng ngày đây toàn do anh em dưới các đại đội thu được đem cho đấy chứ”. Rồi anh nói thêm, dưới đơn vị các cậu, tiểu đội nào chả có một bộ tú lơ khơ để đánh tiến lên. Tú lơ khơ là bộ trò chơi của cả thế giới, nước nào cũng có. Bọn địch nó cũng thích chơi nên trong ba lô nhiều thằng có bộ tú này và anh em ta rất thích tìm. Có khi là kiếm được một bộ tú mới tinh còn bọc giấy bóng ấy chứ. Bộ đội lúc rỗi mà không có bộ tú lơ khơ thì buồn chết.

Anh Chớt lấy muối ống nứa và giở gói xôi ra, xắn một nửa cho ba người cùng ăn sáng, nửa còn lại để cho bữa trưa. Lại là câu chuyện dân dã kể ra để vỡ lòng cho những hiểu biết của Tháo. Bữa cơm tối qua, anh Chớt bảo là anh đi xin ở mấy nhà dân trong bản. Dân Lào có một tập tục rất hay về chuyện típ xôi. Mỗi buổi sáng, họ đồ xôi và bỏ đầy vào những cái típ nhỏ đan bằng mây tre giống như cái giỏ để chơi của trẻ em bên nước mình. Mỗi người một típ đem đi làm nương, đủ ăn cả ngày. Thế nhưng không bao giờ họ chén sạch sành sanh mà để dành lại ở đáy típ một nắm xôi nhỏ, dù chỉ là bé tí với tâm niệm là xôi ăn không bao giờ hết. Sáng hôm sau họ vét lại những phần xôi dành lại đó cho vào chõ đồ lại với xôi mới. Nhưng nếu buổi chiều có khách bất chợt thì họ có thể đem cho hết mà không kiêng kỵ gì. Biết tập tục đó, anh em ta đi lẻ thường tạt vào bản dân nghỉ nhờ và xin xôi ăn, không lo đói. Riêng phần xôi hôm nay thì anh Chớt phải mua và nhờ họ nấu giúp. Chính vì thế mà dự kiến đi mua lợn trong hai chục ngày mà ba anh em chỉ mang theo có mấy cân gạo. Mặc dù tiêu chuẩn ăn ở đơn vị bây giờ chỉ có năm lạng một ngày, nhưng nhóm đi mua lợn lúc nào cũng được ăn no, lại còn thêm cả khoản cải thiện chất tươi nhờ săn bắn hay xin của dân nữa. Đấy chính là một hạnh phúc vô biên của những người được đi công tác lẻ. Sau này về đơn vị, Tháo biết rằng kể cả khi đi công tác lẻ ngắn ngày ra tuyến trước, bao giờ lính ta cũng như chim sổ lồng nhờ chuyện tìm cách ca cóng. Trong một số điều kiện nhất định còn có thể tự cho phép mình tìm một chỗ trú ẩn bí mật qua đêm, không phải gác.

Anh Chớt còn kể thêm chuyện về các tên bản của người Lào. Từ một cái bản ban đầu nếu có một số người tìm cách tách ra làm một cái bản mới, họ không đặt tên khác mà dùng luôn tên bản cũ kèm thêm cái đuôi “nọi” nghĩa là bé. Khi ấy, bản cũ sẽ có thêm đuôi “nhầy” nghĩa là to. Còn khi di chuyển cả một bản từ nơi này sang lập ở một nơi khác thì họ gắn thêm chữ “may” tức là mới, còn vị trí bản cũ không còn người ở thì gắn cái đuôi “cầu” tức là cũ. Ví dụ như ở trên cao nguyên Boloven có các cặp bản Tà Kịt nhầy - Tà Kịt nọi và cặp bản Xamxinuc cầu - Xamxinuc may.

Mấy ngày đầu đi đường, qua tới mấy bản dân mà nhóm anh Chớt vẫn chưa mua được con lợn nào, dù vẫn nhìn thấy vài nhà dân có lợn. Anh Chớt giải thích là có ít vậy thì dân họ không muốn bán đâu. Hơn nữa nếu mua ngay ở đây thì đắt vì khu vực này vẫn còn gần các khu hậu cứ của ta. Tiểu đoàn nào cũng có tốp lính được cử đi mua lợn, lại thêm trung đoàn bộ rồi sư đoàn bộ nữa nên quanh vùng gần gần không còn lợn. Phải đi xa hơn, đến tận vùng Khoongsedon giáp ranh với vùng địch gần đường 13 thì mới có nhiều lợn và rẻ.

Cuối ngày thứ năm đi đường cả nhóm dừng chân ở một bản khá to, có vẻ như là trung tâm của một khu vực dân vì nơi đây có cả một cái chùa to, đẹp. Có nhiều cây to có bóng mát, sân chùa được quét dọn rất sạch sẽ. Tháo nhận ra những cây hoa đại rất to, có cả hoa trắng, hoa vàng. Tháo nhớ lại ở chùa làng mình, dù bé bé nhưng sân chùa cũng trồng mấy cây hoa đại, toàn hoa màu trắng. Hình như cây hoa đại là đặc trưng của nhà chùa, giống như kiểu cây đa trồng ở cạnh các đình làng vậy. Chùa làng Tháo chỉ một màu nâu mộc mạc, nhưng ngôi chùa ở đây có vẻ cầu kỳ, kiểu dáng khác lạ mà sơn màu rất sặc sỡ. Tháo ngạc nhiên khi thấy ở chùa này có tới cả chục đứa trẻ tuổi lít nhít mặc áo vàng kiểu nhà chùa, đầu cạo trọc lốc. Chả hiểu là sư hay chú tiểu. Thấy Tháo cứ ngây người ra nhìn, anh Chớt vỗ vai bảo:

“Làm gì mà cứ mắt tròn mắt dẹt thộn ra thế?”.

“Em đang tự hỏi sao chùa này nhiều sư thế, mà toàn sư trẻ con”.

“Sư mà cũng chưa phải là sư”, anh Chớt cười bảo.

Chiều tối hôm ấy Tháo lại được thêm một lần ngơ ngẩn. Cửa sổ nơi mấy anh em ngồi trên nhà dân nhìn chéo qua một cái sân nhỏ là một ngôi nhà sàn khác cũng khá to. Đang vơ vẩn nhìn vô định ra hướng đó, Tháo bỗng thấy một cô gái bước lên bậc thang, tới nửa chừng thì quay người lại nhìn sang phía Tháo. Chao ôi, một cô gái trẻ, một thiếu nữ Lào thì đúng hơn. Khuôn mặt đẹp, dáng người cũng thật đẹp, da trắng và lộ ra đôi chân trần dưới chiếc váy sọc xanh chỉ dài quá đầu gối một chút. Đặc biệt hơn là cô gái chỉ mặc có mỗi chiếc yếm màu đen và để vai trần. Tháo chưa từng thấy một cô gái nào ăn mặc như thế, kể cả hồi còn ở nhà có lần ra phố phường Hà Nội chơi. Một vẻ đẹp tự nhiên rất khó tả, nhất là cái vẻ tự nhiên ấy coi như chả có chuyện gì xảy ra. Cô gái nhìn qua sân, nở nụ cười rồi đi tiếp lên nhà. Tháo ngơ ngác ngó ngang rồi quay sau, chả hiểu cô ấy cười với ai. Chả lẽ là với mình, một anh bộ đội Việt Nam chưa lần gặp mặt. Tháo muốn nói to lên một câu như một lời chào chẳng hạn, song mồm lập bập không phát ra hơi. Mấy tiếng Lào mới học được chưa đủ để bày tỏ ý muốn nói. Thấy Tháo bỗng ú ớ và lúng túng, Thắng đang cầm bát nước uống liếc nhanh sang rồi phì cười:

“Mày chưa nhìn thấy con gái Lào bao giờ à?”.

Tháo ngượng nghịu:

“Ừ, vì tớ thấy họ ăn mặc lạ quá, sao lộ liễu thế nhỉ”.

“Có gì mà lộ, mày cũng chỉ nhìn đến thế chứ có gì hơn đâu. Trong này con gái Lào mặc thế là bình thường, chả riêng gì cô này đâu. Mày cứ nhìn tự nhiên, đừng có đỏ mặt. Con gái Lào họ cũng thích bộ đội Việt lắm đấy, nhưng bọn mình đang là lính trận, có chính sách dân vận và quốc tế rõ ràng nên nếu có thích thì cũng chỉ tán cho vui thôi”.

Anh Chớt nghe hai đứa nói chuyện, cười độ lượng. Thằng Thắng nó nói đúng rồi. Anh Chớt nói tiếng Lào như gió, nhưng biết mình xấu trai, vả lại nhiệm vụ đi mua lợn là chính nên anh nhìn dân ai cũng như ai, chỉ quan tâm nhà có lợn bán và có gạo bán rồi nấu hộ xôi cho mình. Anh bảo:

“Thôi, chúng mày có xuống suối rửa mặt mũi chân tay đi rồi lên ăn cơm”.

Tối hôm ấy, nằm nghỉ trong nhà dân, anh Chớt mới giải thích rõ hơn cho Tháo về chuyện mấy sư trẻ con, vì cái chuyện này nó cũng hơi dài dòng. Thấy Tháo cần cù chịu khó mà có vẻ ham học hỏi nên anh Chớt cũng khoái. Được chia sẻ, được giãi bày nhưng hiểu biết của mình cho kẻ ham học khác xem ra cũng là một cái thú của con người. Cũng na ná như các thầy giáo ấy. Thầy giỏi mà không có trò ngoan ham học để dạy thì cũng mất hết cảm hứng, có khi phát điên lên ấy chứ. Thằng Thắng theo anh đi công tác lẻ nhiều lần, anh cũng chỉ bảo cho nó nhiều điều nhưng nó không háo hức ra mặt để hỏi như cậu Tháo này. Bây giờ, những lúc trò chuyện cùng Tháo, anh thấy Thắng cũng sán lại lắng nghe thì biết là cu cậu cũng thích, cũng thấy là những cái hiểu biết kinh nghiệm của mình còn non. Mang tiếng lính cũ hơn Tháo mà rồi thằng Tháo nó lại hiểu biết nhiều hơn thì nghe có vẻ không ổn. Chả là cái gì cả, nhưng thói đời “con gà tức nhau tiếng gáy”. Vì thế anh Chớt cũng thấy vui và có hứng ân cần trò chuyện cùng hai thằng em này.

“Các cậu biết không. Nước Lào họ chỉ theo mỗi đạo Phật chứ không lam nham phật giáo rồi công giáo như nước mình. Chính vì thuần nhất như thế nên họ có một quy định mang tính truyền thống. Đó là tất cả những người đàn ông dù không quy y cửa phật thì trong cuộc đời phải có ba năm ở chùa, vào tuổi nào cũng được. Người Lào họ thường chọn cho con trai mình vào chùa ngay từ lúc sáu bảy tuổi, rất ít khi lên chùa sau tuổi hai mươi. Điều này có cái lợi là vào tuổi đó đứa trẻ chưa thể lao động kiếm sống, mọi thứ chưa biết gì. Nhà chùa sẽ dạy cho chúng đủ mọi thứ giống như trẻ con bắt đầu đi học. Anh đã đi qua mấy tỉnh Nam Lào, chưa vào thành phố, nhưng ở những nơi đã qua anh không thấy có trường học, nên anh nghĩ nhà chùa chính là trường học. Nhà chùa là thiện tâm, nên cái lớn nhất mà lũ trẻ học được chính là đạo đức để làm người. Trong ba năm, chúng được học mọi thứ, được sống trong môi trường có giáo dục thống nhất, có kỷ lu