← Quay lại trang sách

Chương 6

Ngày nghỉ đêm đi, cả đoàn xe Zin “Khơ” 130 lầm lũi chở đoàn quân đi theo hướng đông. Những con đường mở qua đồi núi đất, xe chạy mùa khô mịt mù bụi đất tung bay, mỗi xe cách nhau cả trăm mét cho lắng bớt bụi đường. Mặc dù lúc này đường Trường Sơn không còn B-52 rải thảm, máy bay của quân Sài Gòn không đủ sức đánh phá nhưng xe ô tô vẫn phải chạy đêm, có lẽ cần phải giữ bí mật về việc di chuyển cả một đoàn quân lớn. Mỗi xe ô tô chở một trung đội hơn hai chục người. Anh em kê ba lô rồi ngồi lên, vai gác súng dựa vào nhau ngủ gà ngủ gật suốt thời gian xe chạy, mặc cho bụi đường và những đoạn xóc nảy người. Lúc đèn gầm, lúc đèn pha nhấp nháy mà phía trước xe chỉ thấy những luồng sáng bụi lúc đậm lúc nhạt. Nhiều đoạn đường dài một bên là vách núi, một bên là vực sâu, xe ô tô đi nghiêng ngả mà không chiếc nào chệch rơi xuống vực. Người ngồi trên thùng xe điếc không sợ súng đã đành mà những tay lái xe Trường Sơn quả thật cũng hết sức quả cảm và tay lái vững vàng.

Sau ba đêm hành quân cơ giới, đơn vị tới nơi tập kết ở cuối sân bay Đức Cơ. Đây là một sân bay dã chiến của quân đội Sài Gòn nằm ở phía tây Pleiku nay đã thuộc phần đất kiểm soát của Quân giải phóng. Mọi người xuống xe, đập bụi trên quần áo tứ tung trông như những chú gà rũ lông sau khi nằm trên tro bếp. Bụi bay khắp nơi càng góp phần làm mờ mịt thêm cái ánh sáng buổi sớm mai còn nhiều hơi sương của một vùng đất cao nguyên, nhưng là cao nguyên Trung phần của Việt Nam. Bây giờ thì đã biết cái đích của cuộc hành quân chuyển chiến trường lần này. Đó là mảnh đất Tây Nguyên của Việt Nam, vùng chiến trường có mật danh B3. Các đại đội được chia ra trú tạm suốt dọc một con suối lớn cách sân bay Đức Cơ chừng ba cây số, được nghỉ liền hai ngày để tắm giặt và làm công việc cá nhân. Những dòng suối đá nước trong và mát đục ngầu từng đoạn khi xuống tắm giặt để rũ bỏ hết bụi đường Trường Sơn. Đại đội 6 trú quân ngay trên đoạn đầu nguồn của dòng suối. Hai ngày ở đây nắng rất đẹp. Vẫn là những ngày đầu xuân năm mới, thời tiết cao nguyên ở đây cũng gần giống cao nguyên Boloven bên Nam Lào, ban đêm hơi se lạnh nhưng buổi trưa nắng rất ấm. Còn sót một ấm chè Ba Đình loại gói ba hào giữ được từ đêm giao thừa mấy hôm trước, Tiểu đội trưởng Nhạn bắc cái hăng gô đun nước pha chè gọi mấy anh em ngồi uống trên một phiến đá to sát suối. Hết thuốc điếu Tam Đảo, mọi người giở gói thuốc rê ra quấn sâu kèn cùng hút. Có lẽ đây là những nắm thuốc rê xin của dân Lào cuối cùng, ít bữa nữa cũng sẽ hết. Ở Tây Nguyên đồng bào dân tộc theo cách mạng rất nghèo, chắc khó có thể kiếm được thuốc lá rê như bên Lào. Hai ngày nghỉ ngơi tắm giặt lại không phải đào hầm nên chiến sĩ rất thích. Nơi này cũng có vẻ an toàn, chiến trường gì mà cả ngày tịnh không có bóng dáng máy bay, không nghe một tiếng pháo nổ. Sáng nhìn quanh rồi bảo Nhạn:

“Không hiểu sao nơi đây cách không xa sân bay Đức Cơ mà xem ra không hề có một dấu vết bom đạn nào nhỉ. Anh xem này, rừng cây thưa nhưng rõ là rừng già. Chỗ này làm nơi trú quân tốt thế mà chả thấy có dấu vết hầm hào của quân ta. Không biết ngày xưa đánh sân bay quân ta đi theo hướng nào anh nhỉ”.

Nhạn cũng nhìn quanh, thấy lá vàng rụng như tấm thảm trên mặt đất rực lên trong nắng, gật gù tán thưởng:

“Ừ, nơi này có vẻ nguyên sinh và đẹp thật. Nhưng không có dấu vết bom đạn thì cũng hợp lý thôi. Rừng rộng bạt ngàn không phải nơi nào cũng có vị trí chiến lược. Bom đạn Mỹ nhiều thật nhưng nó cũng phải tập trung đánh phá có trọng điểm chứ, rải khắp rừng sao được. Cũng như trên Trường Sơn hay đơn giản là như bên Lào ấy. Ngày bọn mình lên trinh sát Phù Khống Phạ, ở đấy chẳng còn nguyên rừng không dấu chân người là gì”.

Sau hai ngày nghỉ ngơi, đến đêm lại có lệnh hành quân. Vượt qua một ngọn núi cao và nhiều cánh rừng già, những đồi cỏ tranh cao lút đầu người, Tiểu đoàn 2 đến được vị trí dừng chân nằm ở phía nam căn cứ Chư Nghé. Đây là một căn cứ tiền đồn có nhiều lớp rào thép gai dựng trên ba quả đồi to của một tiểu đoàn biệt động quân Sài Gòn đã bị quân ta tiêu diệt từ cuối tháng 9 năm 1973. Tuyến giáp ranh đã bị đẩy xa tới hơn chục cây số về phía thị xã Pleiku. Đại đội 6 được làm hậu cứ trong một cánh rừng rất rộng có nhiều cây to, ở gần với căn cứ Chư Nghé nhất. Phía rìa cánh rừng có một con suối đất rộng chừng hơn một mét nhưng sâu và khá nhiều nước. Anh nuôi làm bếp và đào giếng lấy nước ngấm bên cạnh suối để nấu cơm. Anh em ngả cây to gác ngang suối làm chỗ ngồi lên tắm giặt. Lại làm lán có hầm thùng và đào hầm chữ A nhưng bây giờ quân số đông nên mỗi tiểu đội làm một cái. Các lán đều được chọn làm dưới những gốc cây to tán rộng để máy bay không thể phát hiện. Có vẻ như hậu cứ này sẽ được ở lâu nên phải làm rất chắc chắn, đầy đủ sạp nằm và có chỗ rộng giữa lán để đốt lửa mùa mưa. Một tuần trôi qua, hậu cứ dần hình thành.

Trong những ngày đó các trung đội liên tục cử người đi lùng sục ra khắp các hướng để làm quen địa hình, lên phương án tác chiến nếu có thám báo đột nhập. Bây giờ hoạt động theo tiểu đội nên Sáng ít gặp Nhạn vì hai người khác tiểu đội. Mỗi lần đi lùng sục chỉ có một tổ ba người nên có lần Sáng được đi cùng Tiểu đội trưởng Hoài nhưng có lúc vẫn phải đi với chiến sĩ mới. Lúc này mới thấy có cái địa bàn trong tay rất tiện vì đường lùng sục có khi không về theo đường cũ mà phải đi vòng lối mới. Qua mấy lần lùng sục như thế, có lúc Sáng cùng anh em gặp những cái chốt của quân ta ngày trước khi bao vây đánh căn cứ Chư Nghé. Có một đặc điểm là chốt ở đây thường được đào hầm theo kiểu làm kiềng, nghĩa là cứ mỗi vị trí hầm chiến đấu phải làm ba chiếc thành một cụm cách nhau chỉ hai mét. Có lần đi lùng sục cả tiểu đội, Hoài dẫn anh em theo lối rào cửa mở vào căn cứ Chư Nghé. Có vào đây mới hình dung được kiểu cách bố trí thành các phân khu trong căn cứ của địch như thế nào. Ngày xưa căn cứ Chư Nghé của tiểu đoàn biệt động quân Sài Gòn này khá lớn vì có cả một trận địa pháo 105 ly với hai khẩu trong đó. Rất nhiều căn hầm to trong trung tâm, chắc là hầm chỉ huy có chăng loại lưới thép gai mắt vuông to gọi là lưới B-40. Sau này về nghe Trung đội trưởng Quân giải thích, cánh chiến sĩ như Sáng, Tháo và anh em vào sau chưa qua chiến trận mới hiểu tại sao lại gọi là lưới B-40. Hóa ra do cơ chế nổ của đạn B-40 và B-41, sức phá có uy lực của quả đạn chỉ phát huy khi đầu đạn chạm đúng mục tiêu. Tấm lưới B-40 có tác dụng giữ đột ngột quả đạn B-40 và B-41 lại, khiến điểm nổ phụt ra khoảng không giữa lưới thép và thành lô cốt nên mất tác dụng.

Làm xong hậu cứ cấp trên thông báo xuống một loạt tin mới. Trung đoàn 9 bây giờ không còn thuộc Sư đoàn 968 nữa mà thuộc Sư đoàn 320A chỉ huy. Tiêu chuẩn ăn ở chiến trường B3 lúc này cao nhất là năm lạng một ngày kể cả mùa khô. Tiếp theo là trong một năm hậu cần cấp trên chỉ cấp ăn trong tám tháng, còn bốn tháng phải tự túc bằng tăng gia. Cách tăng gia nhanh nhất là trồng sắn, về khu vực hậu cứ của sư đoàn ở cách đó hơn hai chục cây số chặt hom sắn về trồng. Xung quanh khu hậu cứ của các đại đội, ở bất cứ chỗ nào có đất rộng không phải nương của dân đều được phát rẫy khẩn trương và trồng sắn. Cứ trồng, nếu phải di chuyển đi nơi khác thì mình sẽ ăn sắn của đơn vị ở khu vực đó trồng, còn sắn của mình trồng sẽ để đơn vị khác ăn. Được biết thêm, đây là giải pháp chống đói của mặt trận B3 đã được triển khai thực hiện từ năm 1972, khi mà lúc đó bộ đội B3 ra trận có đợt chỉ được phát khẩu phần ăn mỗi ngày một khúc sắn dài chừng gang tay. Vậy là chưa biết đánh nhau ở B3 thế nào, các đơn vị đã phải lao vào tăng gia trồng sắn, rồi sau đó là từng tiểu đoàn làm rẫy tăng gia và thay nhau trồng lúa, trồng sắn và canh giữ thú rừng. Sau khi về chiến trường B3 được một tháng và lao vào tăng gia, Đại đội 6 được lệnh ra tuyến trước lập chốt.

Sau khi Hiệp định Pari, trên chiến trường B3 cả ta và địch đều ở vào thế giằng co và giữ đất. Địch không đủ sức tổ chức càn quét tìm diệt vào hậu cứ bên ta mà chủ yếu là trinh sát bằng không quân và thám báo rồi dùng bom pháo hủy diệt. Máy bay trinh sát vẫn là L-19 nhưng máy bay ném bom ở đây toàn một loại phản lực F-5E, phản ứng nhanh và mỗi chiếc cũng đeo tới bốn trái bom. Pháo binh của quân đội Sài Gòn bắn kinh khủng hơn pháo địch bên Nam Lào nhiều. Mỗi lần bị pháo bắn dồn dập, chiến sĩ ta bảo: “Chúng nó đang dầm bọn mình đấy” vì có nhiều nòng pháo cùng tập trung bắn vào một khu vực. Đây là một dạng thu nhỏ của kiểu pháo bầy, pháo đàn một thời khét tiếng của pháo binh Mỹ mà chúng nó mệnh danh đểu là “dàn nhạc Tân Tây Lan”. Tần suất pháo bắn cầm canh hay vu vơ ở đây cả ngày lẫn đêm cũng nhiều hơn. Còn độ bắn chính xác của bọn pháo binh địch ở Pleiku thì đáng để rùng mình. Phía bắc cao điểm 631 có một bãi cỏ rộng lớn, đi qua đó lính ta đếm được đúng 100 hố pháo tạo thành một hình kẻ ô vuông, mỗi chiều 100 mét có 10 hố cách đều nhau 10 mét. Không biết bọn pháo binh địch bắn tập kiểm tra hay để cảnh cáo Quân giải phóng. Nhưng dù gì thì gì, nằm trong tầm hay tọa độ pháo địch bắn mà hầm hố không chắc chắn thì tổn thất rất lớn.

Chốt ở rừng cao su khu Đồi Dài 525 được vài ngày là bắt đầu bị pháo địch bắn. Rừng cao su thưa lá nên máy bay địch phát hiện sự thay đổi địa hình ở mặt đất rất nhanh, chấm tọa độ cho pháo bắn. Chỉ khi nào chắc chắn có dấu hiệu người di chuyển hay sơ ý để khói lên chúng mới gọi máy bay ném bom. Chưa được nổ súng lần nào thì đã có năm chiến sĩ của Đại đội 6 bị thương, có người bị nặng không trở lại đơn vị. Chiến trường là thế, bị thương và cái chết đến rất bất ngờ, không cứ phải nổ súng chiến đấu mới có thương vong. Vì vậy có những thương binh từ chiến trường ra mà quả thật chưa được một lần nổ súng, chưa hề biết cái cảm giác mặt đối mặt với địch cách nhau qua hai nòng súng nó như thế nào. Đấy là không kể nhiều người đã bị hy sinh khi chưa kịp ra trận. Đang còn là mùa khô mà trung đoàn vẫn chưa thể tổ chức đánh căn cứ địch vì đang còn chân ướt chân ráo, công tác trinh sát nắm địch chưa được bao nhiêu.

Những ngày đi chốt ở rừng cao su là những ngày rất mệt mỏi và nhiều vất vả. Ở bìa rừng cao su bên kia đồi là các hầm chốt trông ra một khoảng trống rất lớn, không có cả đến những bụi cây lúp xúp. Có ít cỏ thì vừa thưa vừa héo như vừa bị phun thuốc hóa học. Bên này rừng cao su, cách cũng chỉ hơn trăm mét là nơi tập kết của đại đội, sát một con suối đất mà như vũng nước tù hôi thối. Một dãy hầm trú ẩn ven suối đó, lòng hầm nước lấp xấp cùng bùn tới trên mắt cá chân. Ban ngày ngồi trên miệng hầm, nghe tiếng pháo bắn gần thì chui xuống, chịu ướt và bẩn. Hết pháo chui lên ngồi chờ nắng khô quần thì gỡ đất bùn. Ban đêm trải ni lông nằm ngủ ngay trên miệng hầm. Có một điều lạ, ban ngày tịnh không có một con muỗi nào, nhưng đêm đến không biết chúng từ đâu chui ra bay dày đặc, càng về khuya càng nhiều. Những con muỗi rất to, vòi dài đốt xuyên vải áo. Đêm đầu gần như mất ngủ vì muỗi, cứ phải ngồi trùm tấm ni lông kín đầu như trời mưa, ngột ngạt vô cùng. Đêm sau Nhạn có sáng kiến cùng anh em cứ ghép ba người một trải ni lông rồi mắc một cái màn. Cả ba chui nửa người trên vào một cái màn đó, nửa kia để nguyên cả dép và tất luồn dưới một tấm ni lông khác. Thế là vừa tránh được muỗi vừa thở được. Thật may là ban đêm địch không bắn pháo. Cái kinh nghiệm ngủ đêm như thế của Nhạn được cả đơn vị áp dụng. Vì cái suối nước tù bẩn như thế nên đại đội phải cho một tiểu đội cùng anh nuôi về tít cánh rừng nhỏ phía sau nấu cơm rồi hằng ngày đem cơm cả ba bữa một lần ra chốt.

Chiến sự giằng co, ta không đánh căn cứ mà địch cũng không lấn chốt. Vài lần chúng sục lên các hướng bị ta nổ súng là rút luôn rồi gọi pháo. Các điểm chốt ác liệt về pháo chứ không phải vì đánh nhau. Được một thời gian trung đoàn cho các đại đội chuyển hình thức tác chiến. Bây giờ ở mỗi hướng có một đại đội lên tuyến trước và hằng ngày tổ chức đội hình theo trung đội luồn sâu lùng sục vào phía địch. Gặp là bám địch hay tổ chức đánh nhỏ luôn. Các trận tao ngộ chiến thường xuyên nổ ra, mỗi bên bị tổn hại một ít hoặc có trận chả bên nào bị sao, rút thẳng. Nhưng tổn hại nhất và quân số các đơn vị cứ hao dần lại bởi hai yếu tố mà ngày còn ở Nam Lào ít gặp và ít ngờ tới. Đó là sốt rét ác tính và đạp phải mìn cài. Sốt rét ác tính ngày trước thường chỉ gặp khi mới vào chiến trường, lúc đang hành quân trên đường Trường Sơn. Hành quân vất vả, sức đề kháng kém nên trong các đoàn tân binh thỉnh thoảng lại có ca sốt rét ác tính phải gửi lại binh trạm. Sốt rét ác tính nhiệt độ thường rất cao, lên tới 42 độ và mê man bất tỉnh. Hiếm có ca sốt rét ác tính nào qua khỏi, phần lớn trở thành liệt sĩ khi chưa vào tới đơn vị nhận quân. Mấy năm ở Nam Lào ít nghe thấy tin có đồng đội trong trung đoàn bị sốt rét ác tính, vậy mà về B3 Tây Nguyên chỉ nửa năm mà đã có mấy ca. Có một chiến sĩ quê Hà Tây bên Tiểu đoàn 3 bị sốt rét ác tính, trạm phẫu trung đoàn tiếp cho hơn chục đơn vị máu mà vẫn không cứu được.

Kẻ thù thứ hai nguy hiểm và kinh hoàng hơn với quân ta, đó là các loại mìn cài của địch. Bên chiến trường Nam Lào tụi Phumi và ngay cả bọn quân Thái Lan được trang bị đầy đủ đến tận răng như lính Mỹ cũng chỉ sử dụng mìn claymo khi phục kích, còn không thấy cài mìn rải rác kiểu giăng bẫy khắp nơi. Tất nhiên không kể mìn chống tăng chúng cài ven đường cái vì đã là tuyến phòng ngự tất phải đề phòng xe tăng đối phương. Kiểu gì thì xe tăng ta khi xuất hiện ở chiến trường cũng là quả đấm thép trong tiến công mà bọn địch rất ngán. Nói cho đúng, mìn tăng chỉ là khắc tinh của các loại xe pháo chứ bộ binh có dẫm phải thì dù đang gùi nặng cũng không đủ 200 cân để làm sập lò xo kim hỏa của mìn chống tăng. Bây giờ ở chiến trường B3 Tây Nguyên, trên bất cứ bãi cỏ hay lối mòn nào dẫn đến chỗ địch đóng quân cũng có thể bị mìn cài, chủ yếu là lựu đạn tức thì và mìn claymo. Lựu đạn cài thường được tháo chốt và đút hờ vào một cái vỏ đồ hộp, căng một sợi dây cước nhỏ tí ngang lối mòn làm bẫy. Có khi sợi cước còn lẫn vào trong đám cỏ mọc lòe xòe. Đang đi đá chân phải sợi dây là quả lựu đạn văng ra nổ ngay tức khắc, người đá phải chỉ có chết chứ không thể chỉ bị thương. Những người đi gần cũng ít khi thoát khỏi mảnh lựu đạn văng bốn phía dính vào. Nhưng kinh hoàng hơn, gây tâm lý nặng nề với lính ta hơn chính là dính mìn định hướng claymo của địch bởi phạm vi quét bi sát thương của nó quá lớn. Tụi biệt động quân ở đây thường tận dụng những thỏi pin thông tin thải loại, nhưng dòng điện của nó còn thừa để kích nổ kíp mìn. Thỏi pin bọc trong ni lông giấu trong bụi cỏ giữ điện được đến cả tháng trời ngay cả trong mùa mưa. Hầu như tiểu đoàn nào cũng có người bị dính mìn claymo. Cánh trinh sát là bị nhiều nhất vì luôn phải luồn rừng hay mò mẫm lên phía trước bám địch. Có trường hợp bộ binh ta bị trúng mìn rất oái oăm không phải lúc ở tuyến trước mà là lúc đang hành quân về tuyến sau, đó là do bọn thám báo của địch luồn sâu vào sau lưng quân ta rồi cài mìn. Rất hiếm có trường hợp gỡ được loại mìn claymo này vì địch toàn chọn cài ở những chỗ hiểm và dùng kiểu bẫy cài gọi là “căng, chùng nổ”. Nghĩa là nếu quân ta đá phải sợi dây căng ngang hay phát hiện dây mà cắt đứt thì đều kích thích mìn nổ. Trinh sát Tiểu đoàn 2 vướng mìn claymo đầu tiên trên đường từ phía trước về hậu cứ, hy sinh cả tổ ba người. Không ai muốn chết nhưng hy sinh trong chiến đấu bao giờ cũng thanh thản hơn cả đối với người sống và người chết, chứ hy sinh hay bị thương vì đá phải mìn thấy nó ấm ức lắm và phần nào cũng làm chúng ta hoang mang. Công binh trung đoàn phải tổ chức cử người xuống các đại đội hướng dẫn kinh nghiệm tránh và gỡ mìn của địch. Một giải pháp tình thế nhưng cũng làm cho chiến sĩ các đại đội bộ binh yên tâm hơn.

Sau bốn tháng trời cứ chốt giữ rồi luồn sâu lùng sục đánh nhỏ lẻ và thay thế nhau giữa các đại đội để kết hợp làm nhiệm vụ tăng gia thì Tiểu đoàn 2 được nhận nhiệm vụ đánh một căn cứ tiền duyên của địch. Trong một lần đi trinh sát trở về gần đến hậu cứ, Đại đội trưởng Trần Khâu bị trúng một quả pháo bắn vu vơ của địch, hy sinh. Một tổn thất rất lớn khi Đại đội 6 sẽ là mũi chủ công trong trận đánh sắp tới. Đại đội phó Hùng lên thay và một trợ lý tác chiến trên trung đoàn tên là Bạo về làm Đại đội phó Đại đội 6. Anh Hùng trong sinh hoạt phóng khoáng và lãng tử, nhưng chỉ huy chiến đấu giỏi nên chiến sĩ trong các trung đội cũng chẳng lăn tăn gì. Tất cả lại lao vào làm công tác chuẩn bị trong khi các cán bộ đại đội và tiểu đoàn tiếp tục trinh sát đi bám địch. Bộ binh đánh địch kiểu công kiên “tiền pháo hậu xung” nên chỉ cần cán bộ đi trinh sát kỹ, lên phương án phổ biến nhiệm vụ trên bản đồ, không phải đắp sa bàn hay làm trận địa tập như bộ đội đặc công. Thế mà công tác chuẩn bị từ bổ sung vũ khí, lót đạn đến xây dựng quyết tâm cho bộ đội cũng mất hơn nửa tháng. Đại đội phó Bạo mới về có vẻ muốn lập công và tỏ vẻ vai trò quan trọng của mình nên hơi lên gân với anh em. Ban chỉ huy để lại một người ở lại trông nom hậu cứ, ban đầu định cử Đại đội phó Bạo vì anh mới về đại đội, nhưng Bạo khăng khăng xin đi nên cuối cùng Chính trị viên phó Tuyến phải ở lại. Trong các đại đội bộ binh, chiến sĩ thích nhất chỉ huy của mình trưởng thành từ đơn vị lên qua chiến trận. Việc điều chuyển cán bộ từ đại đội này sang đại đội khác dù anh em trong cùng tiểu đoàn đa số đã biết nhau nhưng thường vẫn phải có một thời gian “đệm”. Đại trưởng Hùng biết các cán bộ trung, tiểu đội trong đại đội của mình có tâm lý ngại mấy “bố” tác chiến trên trung đoàn thường là dạng có “phốt” phải nằm vùng ở đó bổ sung về, không thích Đại đội phó Bạo nhưng cũng chẳng có lý do gì ngăn sự nhiệt tình ra trận của anh ta nên cũng chỉ cười chấp nhận. Nhưng trước lúc vào trận anh lại cử Bạo ở lại vị trí tập kết cùng anh nuôi để sẵn sàng làm công tác chính sách sau trận đánh.

Căn cứ M3 trên đường 5 của địch đóng trên khu đất của một bản dân người Thượng đã bỏ từ lâu. Ở đây địch có một đại đội tăng cường biệt động quân đóng giữ, được trang bị thêm súng cối 81 là loại hỏa lực cấp tiểu đoàn. Xung quanh căn cứ chỉ có mìn cài và một hàng rào đơn. Nằm ở khu vực tiền tiêu, căn cứ này được trận địa pháo 105 ly ở sân bay Cù Hanh bảo vệ. Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 sẽ mở hai hướng cửa mở tạo góc 120 độ đánh vào căn cứ này. Cấp trên sẽ chi viện hỏa lực cấp trung đoàn, cao nhất có cối 120 ly, còn lại các tiểu đoàn dùng hỏa lực tại chỗ. Thực chất lực lượng đánh căn cứ này cũng chỉ có hai đại đội của hai tiểu đoàn trên cửa mở. Có hai đại đội dự bị và một đại đội làm nhiệm vụ đón lõng địch bỏ chạy. So sánh lực lượng thì quân ta quá mạnh, chuyện tiêu diệt căn cứ này là chắc chắn. Từ sau Hiệp định Paris, hầu như các căn cứ của địch ở vùng cao nguyên khi bị quân ta tiến đánh, địch chỉ dùng pháo binh và không quân chi viện rồi sau đó không giữ được thì rút chạy và giội bom pháo hủy diệt căn cứ để tiêu diệt bộ đội ta. Chúng không còn đủ lực lượng để tiếp viện cố giữ căn cứ như hai năm về trước nữa. Sau khi quân Mỹ rút đi, tình thế chiến trường cũng có nhiều điểm khác. Lần này Đại đội 6 làm nhiệm vụ mở cửa ở hướng nam. Trung đội 6 là đơn vị mở cửa và đánh chiếm đầu cầu, sau đó đến Trung đội 5 và Trung đội 4 làm nhiệm vụ thọc sâu. Trường hợp khó khăn, tiểu đoàn sẽ dùng đến Đại đội 7, nhưng Đại đội trưởng Hùng xây dựng quyết tâm, Đại đội 6 phải dứt điểm được ở hướng này.

Trận đánh căn cứ M3 diễn ra vào trung tuần tháng 7. Đại đội 6 cùng tiểu đoàn bộ tập kết tại một khu rừng già cách căn cứ hai cây số. Một buổi chiều làm công tác chuẩn bị rất nhẹ nhàng. Các bao cát làm hầm, đại đội đã tổ chức cho bộ đội lấy sẵn ở căn cứ Chư Nghé cũ của địch từ hơn tháng trước, giặt phơi khô bó sẵn. Gỗ làm hầm bằng ở đây cũng khá đơn giản vì vùng này có các rừng cây le bạt ngàn. Le đang mùa ra măng, các bụi cây cứ đan nhằng vào nhau dày đặc. Thân le vừa tầm cổ tay và dễ chặt nên bó le 12 cây mỗi người chỉ mất nửa tiếng là chặt xong. Đã rất lâu không đánh một trận vào căn cứ như thế này, lại thêm công tác chuẩn bị rất chu đáo nên khí thế đơn vị rất hăng.

Nói ra thì có thể bị coi thường hay bị đánh giá lung tung nhưng quả thật đã rất lâu rồi lính ta không có thuốc hút. Người dân tộc ở Tây Nguyên rất nghèo, nương rẫy thường nhỏ và rau cỏ trồng rất lưa thưa. Khái niệm “cải thiện” ở đây bị thu hẹp rất nhiều. Chỉ còn đi lấy rau rừng, tìm nấm và chịu khó đào củ mài chứ không thể xin hay lấy của dân thứ gì. Một cái bản dân tộc làm trong rừng thường chỉ có chưa tới chục nóc nhà, tiếng là nhà sàn mà cái nào cũng xiêu vẹo và xơ xác, sàn rộng chưa tới chục mét vuông. Bản nào may lắm mới có độ vài ba cây mít. Còn nương sắn của dân thì bé hơn cả những vườn sắn các đơn vị trồng vội. Có thấy dân hút thuốc nhưng lần mò mãi mà cũng không phát hiện được họ trồng ở đâu. Thật là khác nhau một trời một vực so với dân ở cao nguyên Boloven bên Lào. Ở đây nhiều tay nghiện đã phải tìm rau tàu bay thái phơi khô hút thay lá thuốc. Chỉ được cái mùi thơm thơm một chút chứ không có vị say như thuốc lá.

Những trận đánh phục kích, tập kích nhỏ lẻ hay tao ngộ chiến ở đây hầu như không có mấy chiến lợi phẩm. Tụi biệt động quân ở đây trang bị cũng nghèo nàn. Chiến lợi phẩm thỉnh thoảng lấy được chỉ là mấy túi cơm sấy. Loại cơm sấy này ở Lào không thấy có. Mỗi túi cơm sấy là một suất ăn, đổ nước nóng hay nước lã vào theo chỉ dẫn là ít phút sau có được suất cơm nóng hay cơm nguội để ăn. Mà không có nước thì ăn sống cũng ngon na ná như cơm rang khô vậy. Trong cảnh thiếu ăn và đói ở Tây Nguyên thì cơm sấy lấy được của địch cũng là thứ chiến lợi phẩm tuyệt vời, chỉ tiếc là không phải lúc nào cũng lấy được. Chính vì vậy nên khi nghe tin được đánh căn cứ địch, thì một trong những thứ chiến sĩ nghĩ tới là chiến lợi phẩm trong căn cứ địch.

Đường tiềm nhập có hai cây số, lại phải chờ trăng lặn nên đội hình xuất phát khá muộn. Đoạn đường đi chỉ có một nửa là rừng, còn lại là các bãi cỏ và trảng trống nên chưa tới nửa đêm, đơn vị đã vào vị trí chiến đấu. Phía trên cùng, Trung đội 6 cùng các tổ hỏa lực trung đoàn như súng máy 12 ly 7 và ĐKZ 82 triển khai. Cối 82 của tiểu đoàn và ngay cả cối 60 của đại đội cũng phải bố trí lùi ở phía sau. Trung đội trưởng Quân phân công cho các tiểu đội đào hầm ở vị trí chỉ cách sau Trung đội 6 có hơn chục mét. Nhạn chỉ từng vị trí cho anh em đào hầm. Hầm của Tháo, chiến sĩ giữ B-40 nằm sát ngay bên phải hầm Tiểu đội trưởng Nhạn. Trong chiến đấu phân đội nhỏ, bao giờ tiểu đội trưởng cũng đi cùng và chỉ huy hỏa lực, nhất là B-40 và B-41 để còn kịp thời không chế và tiêu diệt các ổ hỏa lực của địch. Cánh bộ binh phải rèn thành một thói quen bản năng khi chiến đấu, xạ thủ B-40 hay B-41 trước khi bắn phải quan sát nhanh bên phải và phía sau để tránh luồng lửa phụt phải đồng đội, còn người chỉ huy hay chiến sĩ khác phải chú ý luôn đi phía bên trái của xạ thủ loại súng chống tăng này. Đã có trường hợp đáng tiếc ngày còn ở bên Lào, một người chiến sĩ mới quê Hà Tây ra trận lần đầu sơ suất nằm núp ngay phía sau chiến sĩ bắn B-40 đã hứng trọn luồng lửa phụt lại, bị bỏng mặt và hỏng cả hai mắt, khi chưa được bắn một viên đạn AK nào. Nhận xong vị trí, các chiến sĩ khẩn trương đào hầm. Đào công sự trong đêm, mọi thứ chỉ mờ mờ, thậm chí chả nhìn thấy gì, chỉ bằng cách dùng tay đo gang rồi ước lượng phạm vi đào hầm đã trở thành một kỹ năng chiến đấu của bộ binh. Đang là mùa mưa, đất trên cao nguyên rất mềm nên cánh chiến sĩ đào xong hầm rất nhanh. Chui thử xuống hố vừa đào xoay ngang xoay dọc thấy lọt người và thoải mái là rải các thanh cây le lên mặt hầm rồi xúc đất cho vào các bao cát xếp lên thành nắp hầm, vậy là xong. Trừ phía trên cửa mở phải cảnh giới, anh em Trung đội 5 và 4 ở phía sau nhiều người còn tranh thủ ngả lưng chợp mắt được cả tiếng đồng hồ.

5 giờ sáng, cối 120 của trung đoàn nổ ầm trong căn cứ địch, bộ binh Trung đội 6 cũng điểm hỏa mìn phá hàng rào. Các loại súng hỏa lực của trung đoàn và tiểu đoàn trên cửa mở cũng đồng loạt cấp tập bắn phá khu vực lô cốt đầu cầu. Hai mươi phút bắn phá bằng các loại hỏa lực của ta, địch chưa có phản ứng gì. Khu vực đầu cầu mờ mịt trong khói súng. Pháo chuyển làn. Các loại cối và ĐKZ câu đạn vào sâu trong căn cứ địch, còn súng máy 12 ly 7 vẫn bắn vào khu vực cửa mở nhưng nâng tầm tới hơn hai mét yểm hộ cho bộ binh xung phong. Trung đội 6 đã xung phong rồi, các số vừa chạy vừa bắn từng loạt AK lên phía trước. Trời đã nhờ nhờ sáng, nhìn khá rõ bóng người. Bỗng một loạt đạn pháo của địch nổ trùm lên khu cửa mở khiến đội hình B6 phải nằm rạp xuống rồi bò lui lại khu công sự. Địch bây giờ mới phản ứng bằng pháo binh từ xa. Rồi cối 81 ly và 61 ly của địch trong căn cứ cũng bắn ra, điểm nổ rải rác xen kẽ giữa những điểm nổ của những chùm đạn pháo 105 ly. Bộ binh ta phải chững lại nằm trong công sự chờ hỏa lực cấp trên chi viện tiếp. Bây giờ chỉ còn cối 120 của trung đoàn bắn cầm canh vào căn cứ địch. Còn hỏa lực tại chỗ của tiểu đoàn trên cửa mở phải chờ bộ binh xung phong mới bắn yểm trợ vì đạn mang theo có hạn. Cứ chập chờn giằng co, khi quân ta xung phong thì pháo địch bắn tới dữ dội, Trung đội 6 đã có thương vong. Đại đội trưởng Hùng nhô người lên khỏi căn hầm phía sau Trung đội 6 lẩm bẩm: “chắc bọn địch có mắt pháo”.

Trời sáng rõ hơn và đã có những tia nắng. Đại đội trưởng Hùng gọi Trung đội trưởng Quân lên, lệnh:

“Cậu chuẩn bị cho Trung đội 5 xung phong đi. Khi hỏa lực trên cửa mở bắn tiếp thì cho bộ đội lên. Chia nhỏ từng tổ ba người thôi, phải vọt tiến giữa các đợt pháo thì mới vào được”.

Liên lạc đại đội bò lên khu cửa mở yêu cầu hỏa lực bắn tiếp để bộ đội xung phong theo lệnh Đại đội trưởng Hùng. Quân quay lại trung đội mình, gọi các tiểu đội trưởng truyền lệnh xung phong. Nhạn đã quan sát từ đầu, thấy cứ có bộ đội ta xung phong là pháo địch bắn tới, sau đó chúng ngừng để chờ đón đợt xung phong sau, như vậy có thể chọn được thời điểm xung phong thích hợp. Pháo địch vừa trùm trên cửa mở, tranh thủ lúc khói chưa tan, Nhạn dẫn tổ đầu tiên vọt nhanh qua cửa mở nhảy được vào công sự đầu tiên của địch và chĩa AK quạt về phía trước. Tổ thứ hai cũng bám theo rất nhanh vào tới nơi, bây giờ tiểu đội của Nhạn đã chiếm được lô cốt đầu cầu, trong đó chỉ có vài xác địch đã chết từ lúc pháo ta bắn đợt đầu. Khi pháo địch lại bắn tới cửa mở thì tiểu đội của Nhạn đã an toàn trong công sự của địch rồi. Theo cách vọt tiến của tiểu đội Nhạn, Trung đội trưởng Quân điều tiết chỉ huy cho các tiểu đội còn lại xung phong vào căn cứ. Các tiểu đội vào sau bắt đầu nổ súng làm một mũi thọc sâu, trong khi Nhạn cho anh em trong tiểu đội đánh tỏa sang hai bên. Khi Đại đội 6 đã vào hết trong căn cứ thì pháo địch cũng không còn bắn ngoài khu cửa mở nữa. Tiếng thủ pháo và những loạt AK bắn găm nổ ran vào sâu trong căn cứ địch, xen kẽ những loạt AR-15 lạch tạch của địch bắn trả. Trong căn cứ, để tránh mảnh lựu đạn văng lung tung nên bộ đội ta chỉ dùng thủ pháo quăng xuống giao thông hào hay các cửa hầm của địch và bắn găm AK. Đạn B-40 và B-41 thỉnh thoảng lại nổ một trái về xa xa phía trước. Tháo cũng đã bắn hai phát B-40 vào trong căn cứ phía bên trái chi viện cho cánh thọc sâu. Trong khu trung tâm, địch cũng lùi dần rồi quẳng lựu đạn lên mặt đất và bắn M79 nhưng bộ đội ta vừa tiến vừa lợi dụng những đường hào và công sự của địch để tránh. Chừng hơn nửa giờ sau, tiếng súng thưa dần khi bộ đội ta từ hai hướng cửa mở bắt tay được với nhau. Đại đội trưởng Hùng lệnh cho các trung đội tổ chức tảo thanh thật nhanh rồi rút khỏi căn cứ. Vũ khí thu được bao nhiêu thì thu, không cần tận thu. Những tên địch tháo chạy khỏi căn cứ đã có đại đội khác làm nhiệm vụ đón lõng giải quyết nốt.

Quả nhiên khi bộ đội ta vừa lui hết ra khu vực công sự đào bên ngoài lúc đêm thì pháo địch dồn dập bắn vào căn cứ. Chúng sẽ hủy diệt mọi thứ trong căn cứ và sẽ bỏ căn cứ này, đúng như dự báo ban đầu của tiểu đoàn. Công sự đào ban đêm cũng chỉ là núp tạm, không an toàn nếu địch bắn pháo rộng ra nên Đại đội trưởng Hùng lệnh cho từng trung đội tiếp tục rút nhanh về khu tập kết tạm chiều qua. Nhiệm vụ đã hoàn thành nhưng Đại đội 6 có tổn thất. Ba người bị thương và bốn người hy sinh lúc đợt pháo đầu tiên của địch bắn vào khu cửa mở. Trung đội trưởng Ngự và một tiểu đội trưởng của Trung đội 6 bị hy sinh. Đại đội 7 đã được tiểu đoàn giao nhiệm vụ làm công tác chuyển thương binh và tử sĩ về phía sau cho Đại đội 6.

Tiểu đoàn 2 còn tiếp tục làm nhiệm vụ đứng chân phía trước nên không được rút về hậu cứ Chư Nghé. Đại đội 6 nhận vị trí dừng chân bên sườn một quả đồi rộng có một ít cây to cạnh một con lạch đất rộng chỉ chừng năm chục phân. Khu vực này đã có một vài hầm nắp bằng đào từ tuần trước nhưng Đại đội trưởng Hùng lệnh cho các trung đội tổ chức đào ngay các hầm chữ A chắc chắn. Vừa đánh trận xong, các trung đội trưởng có vẻ ngần ngừ muốn cho bộ đội nghỉ thêm lấy một ngày, nhưng anh Hùng lừ mắt gắt, cương quyết bắt các trung đội cho anh em đào hầm ngay. Thế là chưa kịp tắm giặt nghỉ ngơi, bộ đội lao vào làm hầm, nhưng tinh thần không được thoải mái lắm. Lúc ấy không một ai ngờ rằng, nếu không có sự cương quyết của Đại đội trưởng Hùng bắt đào hầm ngay thì Đại đội 6 có lẽ bị xóa sổ hai ngày sau đó.

Vẫn đang là mùa mưa thế mà được mấy ngày nắng đẹp. Đào hầm chữ A kiên cố, phải đi chặt gỗ bên cánh rừng cạnh đó mà gặp phải ngày mưa thì nỗi cực nhọc tăng lên rất nhiều. Trời nắng, mệt đâu nghỉ đấy, ban đêm cứ rải ni lông cạnh cửa hầm mà nằm. Cả đại đội chỉ làm một vọng gác đêm để bộ đội có thêm thời gian nghỉ ngơi. Ngày hôm ấy, Đại đội trưởng Hùng và Chính trị viên Cẩm lên tiểu đoàn họp. Ở khu tập kết chỉ có mỗi Đại đội phó Bạo. Các trung đội tự quản lý bộ đội và cho anh em nghỉ ngơi tắm giặt. Con suối đất chảy lượn theo chân đồi tơ hơ chỉ có vài bụi cây lùm lùm dọc theo bờ cỏ. Anh em phải trải ni lông lên bờ cỏ rồi múc nước lên dội tắm. Giặt quần áo cũng phải trải trên ni lông và dội nước. Chừng mười giờ sáng, bỗng thấy có một chiếc máy bay trinh sát L-19 vo vo lượn trên đầu. Nó lượn lâu lắm, vòng đi vòng lại nghiêng ngó. Mấy chiến sĩ đang tắm dưới suối vội thu quần áo ngồi nép vào mấy bụi cây, im re. Chả biết có khói lửa hay bóng người làm lộ mà sau nhiều vòng lượn, chiếc L-19 chúi đầu bắn một quả pháo khói bên quả đồi bên cạnh. Thủ đoạn này làm chiến sĩ ta có phần chủ quan, nghĩ nó sẽ ném bom ở quả đồi ấy. Vài chiến sĩ tắm xong vội vơ quần áo chạy lên vì ở khu rừng đóng quân mới có hầm. Dù sao chui được vào hầm thì cũng đỡ ghê rợn hơn nằm tơ hơ ngoài con suối trống.

Trong cánh rừng trên đỉnh đồi, anh em nhìn rõ chiếc L-19 bắn pháo khói lên quả đồi bên cạnh và hô nhau chui xuống hầm. Đã nghe tiếng máy bay phản lực F-5E rin rít trên đầu. Nhiều chiến sĩ nhanh chân chui tọt được vào mấy cái hầm chữ A vừa làm hôm trước, mặc cho lòng hầm còn ướt nhoẹt. Có người còn cố tỏ ra bình tĩnh lắng tai nghe ngóng xem bọn F-5E ném bom như thế nào. Nhưng tiếng bom rít đè nặng xuống như bóp nghẹt không gian chứ không vù vù lẫn trong tiếng máy bay như kiểu ném bom xa, rồi bom nổ tung trong chính cánh rừng già mà Đại đội 6 trú quân. Những chiến sĩ lúc trước còn chần chừ nay lao như tên bắn vào các cửa hầm. Sáng chạy mấy bước rồi bốc người nhảy như một cú bay rơi tọt vào căn hầm của tiểu đội. Đã có hai người ngồi nép trong đó. Hầm chật nên co chân ngồi bó gối mà nửa người Sáng còn lồ lộ giữa khung sáng cửa hầm. Đúng lúc đó thì Tiểu đội trưởng Hoài cũng nhảy bổ xuống. Hầm đã chật rồi nhưng trong cảnh bom đạn thế này thì chật cũng phải lao xuống. Hoài xô Sáng cùng hai người lính trong đó ép bẹp sâu vào trong hầm, mấy người dính dẹp vào nhau như những con gián. Bây giờ đến lượt cả người của Hoài chắn trọn khung sáng từ cửa hầm hắt xuống. Một tiếng “ầm” rung cả căn hầm của một quả bom nổ ngay gần đó. Trong một giây, tất cả cùng như ngừng thở vì bị ép chặt vào nhau. Dứt tiếng bom nổ, Sáng dùng tay đẩy Hoài ra, nói như hết hơi:

“Giãn ra chút đi, ngạt thở quá”.

Nhưng không thấy Hoài cử động gì. Sáng nhìn kỹ lại Hoài, mồm bỗng há ra quên cả đang ngạt hơi. Đầu Hoài đã ngoẹo xuống bất động, một mảnh bom to như bàn tay cắm ngay giữa cổ, máu vẫn đang trào ra ướt đầm cổ áo. Sáng kêu to: “Ôi, Hoài ơi!”, rồi quay lại bảo hai đồng đội ngồi mé trong hầm:

“Hoài chết rồi. Mau chui ra đi”.

Sáng nói thế nhưng chưa thể chui ra khỏi hầm được. Tiếng máy bay F-5E bổ nhào cắt bom vẫn gầm rít và căn hầm vẫn rung lên cùng tiếng bom nổ. Chắc phải ném đủ tám quả bom, hết cơ số của mấy chiếc máy bay thì chúng mới chịu dừng. Quả như vậy, hồi lâu sau mới thấy dứt tiếng bom, không gian im ắng trở lại. Sáng nhoài người và phải cố gắng lắm mới bò qua được người Hoài để chui ra khỏi hầm vì chật. Máu trên người Hoài vẫn còn ấm, thấm bết vào người Sáng. Hai chiến sĩ kia, Kháng và Đạt cũng lần lượt chui ra nhưng khi Kháng chui ra rồi thì Sáng bảo:

“Thằng Đạt khoan đã để ở trong ấy đẩy anh Hoài ra”.

Hầm chật, ba người phải hì hục một lúc vừa kéo vừa đẩy mới đưa được Hoài lên mặt đất. Hoài đã tắt thở, không còn cứu được nữa nên Sáng bảo Kháng và Đạt:

“Chúng mày ngồi đây để tao đi báo anh Quân”.

Lúc này cả bọn mới có thời gian nhìn quang cảnh khu trú quân của đại đội. Tan hoang và xơ xác, mùi khói bom vẫn còn khét lẹt hòa cùng mùi cây tươi bị băm nát ngai ngái. Không còn nhận ra các vị trí hầm của trung đội lúc trước nữa. Ba lô và súng ống cũng bị đất vùi lấp. Phải vất vả lắm Sáng mới tìm thấy Trung đội trưởng Quân. Căn hầm của anh ấy bị sập, cây nóc đè làm sái cổ chân trái và bị dập nát mấy ngón chân. Mấy người ở hầm khác phải sang bới mãi mới lôi được anh Quân lên. Y tá vừa băng xong và anh Quân đang ngồi nhăn nhó. Nghe báo tin, anh bảo Sáng:

“Mày đi tìm những thằng còn khỏe kiểm tra lại tình hình người và súng đạn giúp anh nhé”.

Trận bom bất ngờ giội xuống đã gây nhiều thiệt hại cho Đại đội 6, nặng nhất là Trung đội 5 của Quân. Tiểu đội trưởng Hoài và thêm một chiến sĩ nữa trong tiểu đội của Nhạn hy sinh. Trung đội trưởng Quân bị thương vào chân. Thêm cậu Tảo đồng hương với Sáng cũng bị gãy ống chân phải. Nó cùng nhóm đi tắm dưới suối khi thấy máy bay ném bom phải nằm trú lại bên bờ suối. Dưới ấy chỉ có mấy bụi cây nhỏ không đủ che chắn, nhưng giá cứ chịu khó nằm ép bên bờ suối thì có khi không sao, dứt loạt bom đầu nó ôm quần áo tồng ngồng chạy lên định tìm về hầm cho an toàn thì bị một mảnh bom lia vào chân ngã luôn ngay triền dốc. Mấy anh em cùng tắm phải từ bờ suối lao lên xé áo của nó lấy vải băng và garô cầm máu chờ hết trận bom mới được y tá lấy đoạn gỗ nẹp chân sơ cứu tiếp.

Vũ khí và ba lô của các chiến sĩ cũng bị tan nát khá nhiều. Khẩu súng nào đặt trên mặt đất thì chỉ bị vùi lấp đất bẩn, khẩu nào dựng hay treo lên cành cây bị mảnh bom là hỏng. Hai khẩu AK bị vỡ báng còn khẩu B-40 của Tháo bị bom cắt đứt đôi nòng. May là không có quả đạn B-40 hay B-41 nào bị nổ.

Đại đội phó Bạo kiểm tra tình hình các trung đội xong liền cho liên lạc lên báo cáo tiểu đoàn, đồng thời tổ chức cho đại đội hành quân ngay trong trưa ấy rút về hậu cứ Chư Nghé. Tổ anh nuôi làm bếp ở một góc suối không bị bom nhưng cũng chưa kịp nấu cơm nên trưa ấy cả đại đội đành nhịn mà hành quân về. Anh Quân bị thương ở chân nhưng cũng cố gắng chặt cái gậy chống để hành quân cùng tốp đầu. Nhạn được giao tạm phụ trách trung đội, tổ chức cho anh em khiêng cáng thương binh tử sĩ và chia nhau mang súng ống, ba lô. Ít người, khiêng cáng mang nặng nên Nhạn chỉ cho anh em mang về hai khẩu AK gẫy báng, khẩu B-40 cụt nửa nòng, còn lại ba khẩu AR-15 và hai cái máy thông tin PRC-25 chiến lợi phẩm anh lẳng lặng vứt lại. Đại đội phó Bạo đã hành quân theo tốp đầu, có muốn báo cáo cũng không dễ. Trời ban sáng nắng đẹp thế mà bây giờ lại lất phất mưa nên chặng đường hành quân về hậu cứ càng vất vả hơn.

Sau mấy tiếng hành quân, chiều tối muộn cả đại đội mới về tới hậu cứ. Mệt và đói nên ai cũng bơ phờ. Tiểu đoàn cho người hỗ trợ làm luôn công tác tử sĩ trong đêm. Thương binh cũng được đưa lên trạm xá trung đoàn. May là anh nuôi hành quân về sớm trước nấu cơm nên cũng có cơm ăn tối. Ăn xong là tất cả lăn ra ngủ, chẳng kịp rửa ráy chân tay. Sáng cũng để nguyên quần áo dính bết máu của Hoài như vậy mà ngủ. Những lúc như thế này ở chiến trường chẳng ai có thể nghĩ ngợi và phân biệt được điều gì như những lúc bình thường.

Sáng hôm sau giao ban đại đội. Nhạn báo cáo tình hình, cả chuyện vất lại mấy thứ chiến lợi phẩm cho ban chỉ huy đại đội. Đại đội trưởng Hùng chưa kịp nói gì thì Đại đội phó Bạo đã rít giọng chì chiết:

“Ai cho phép đồng chí vứt bỏ lại chiến lợi phẩm? Đồng chí có biết đồng đội phải tốn xương máu mới giành được thắng lợi và thu được vũ khí của địch không? Đấy là bằng chứng về thành tích của đơn vị đấy. Không có chiến lợi phẩm nộp lên trên, ai người ta ghi nhận thành tích hả?”.

Nhạn lầm lỳ ngồi im, buồn chán chả muốn phát biểu. Đại đội phó Bạo lại cao giọng tiếp:

“Đồng chí sẽ phải quay lại đó tìm số chiến lợi phẩm ấy đem về nếu không muốn bị kỷ luật. Đi ngay sáng nay đi”.

Giá Đại đội phó Bạo gọi Nhạn lúc này là “cậu” thì có lẽ dễ chịu hơn. Dù gì thì gì, những lúc như thế này mà cứ lôi “đồng chí” ra gọi nhau thì chẳng còn gì là tình nữa. Nhạn nghĩ vậy nên cũng vẫn ngồi im. Anh còn chờ xem Chính trị viên Cẩm và Đại đội trưởng Hùng tỏ thái độ như thế nào. Rất may Đại đội trưởng Hùng lên tiếng:

“Thôi, chuyện đã rồi. Cậu Nhạn cũng muốn báo cáo nhưng anh Bạo đi trước rồi nên phải tự quyết. Trong tình cảnh hành quân mang nặng, khiêng thương binh tử sĩ như thế thì đấy cũng là một cách giải quyết. Theo tôi, ta còn nhiều việc cần làm, không phải quay lại lấy mấy thứ đó nữa”.

Cuộc họp giao ban giải tán sau khi Đại đội trưởng Hùng phổ biến công việc tiếp theo cho các trung đội. Bạo có vẻ khó chịu thấy cách giải quyết của đại đội trưởng với Nhạn như thế, nhưng đành im. Khi chỉ còn hai người, Chính trị viên Cẩm mới nói với Hùng:

“Ông giải quyết cách ấy theo tôi hợp lý, tôi không tham gia vì đó là quyền và trách nhiệm của ông. Nhưng thẳng băng như vậy chắc tay Bạo chưa phục, có thể đến lúc nào đó nó mới lôi ra khịa lại ông. Cũng nên cẩn thận trong mọi chuyện”.

“Chuyện vặt. Mấy cái đồ chiến lợi phẩm ấy chỉ là ghi nhận thành tích theo cái quy định cổ lỗ sĩ của cấp trên. Kết quả chiến trận thế nào mới là quan trọng. Mà đơn vị ta vừa bị tổn thất nhiều, cần ổn định lại tinh thần cho anh em. Bây giờ ai cũng mệt mỏi, việc sắp tới lại nhiều, vắt thêm sức anh em làm gì. Mà chuyện xốc lại tinh thần là nhiệm vụ của dân chính trị các ông đấy”.

Cả hai cán bộ đại đội cùng cười. Chính trị viên Cẩm biết tính Đại đội trưởng Hùng. Ông này chiến đấu giỏi, anh em phục nhưng rất ghét những chuyện quan trọng hóa và nâng lên quan điểm. Tính tình cũng thẳng băng, thương chiến sĩ và chẳng sợ gì cấp trên khi mình không làm sai. Cẩm cũng không thích cách xử lý của Bạo. Đại đội trưởng chưa có ý kiến mà đã phán vội, kết tội cấp dưới như thế. Dù rằng bữa trước Bạo đang phụ trách đại đội, chịu trách nhiệm chính giải quyết hậu quả sau vụ đơn vị bị ném bom, nhưng về đến hậu cứ rồi, có anh có em thì cũng phải từ tốn chứ.

Nhạn về trung đội, vẫn tiếp tục phụ trách trong khi chờ anh Quân bình phục trở về. Chỉ còn có hai tiểu đội trưởng trong trung đội nên việc gì Nhạn cũng trao đổi bàn bạc cùng Tiểu đội trưởng Bấn. Nhạn vẫn công tác bình thường nhưng thái độ hết sức trầm lắng. Vụ vứt bỏ vũ khí chiến lợi phẩm, mặc dù được Đại đội trưởng Hùng chấp nhận nhưng thái độ có vẻ ta đây hách dịch của Bạo làm Nhạn rất chán nản. Lính tráng nơi chiến trường vốn không phân biệt quan quân, “tướng sĩ một lòng phụ tử” mới mong làm nên chiến thắng bởi khi ra trận rất cần sự hy sinh và chia lửa cho nhau. Chiến đấu chỉ đơn thuần là vì mệnh lệnh thì khó mà tạo nên sức mạnh được. Mình đã chán làm sao động viên được anh em trong tiểu đội.

Lúc này trung đội đã ít người lại chỉ có hai tiểu đội trưởng nên Nhạn chả phân biệt tiểu đội nào với tiểu đội nào, cứ làm chung mọi việc, lúc thì Nhạn, lúc thì Bấn phụ trách. Chính vì thế nên Sáng rất dễ dàng nhận ra thái độ trầm mặc và có nhiều vẻ buồn chán của Nhạn. Hoài hy sinh ngay trước mắt Sáng, gần như một sự thế thân đã khiến Sáng nhiều lúc như mặc cảm. Nếu hôm địch ném bom, Hoài không lao thêm vào hầm đẩy ép Sáng vào trong thì chắc chắn mảnh bom oan nghiệt ấy đã cắm vào mặt Sáng. Tất nhiên trong chiến trận, chẳng ai đoán được chữ ngờ, nhưng liệu Hoài hy sinh hôm ấy có phải do số phận. Sáng nhớ lại hồi đơn vị luồn sâu ở nam đường 23 bên Nam Lào, cái ví chứa đầy thứ linh tinh để nơi túi áo ngực đã cứu Sáng thoát chết bởi một mảnh đạn pháo găm vào. Sau đấy chính anh Hùng lúc đó đang là đại đội phó đã nói với Sáng: “Em là người rất cao số. Đã thoát khỏi thần chết một lần như thế này thì sau này chẳng bom đạn nào đụng vào được nữa đâu”. Phải chăng đúng là như thế nên lần này Hoài phải hứng thay mảnh bom ấy. Sáng rất muốn chia sẻ suy nghĩ của mình với ai đó, nay thấy Nhạn cứ buồn buồn như vậy nên đã tìm gặp riêng Nhạn để tâm sự. Hai người khoác súng ra bìa rừng ngoài đơn vị nơi có lối mòn dẫn đến một cái “kiềng” của Trung đoàn 48 khi chuẩn bị đánh căn cứ Chư Nghé năm trước. Nhạn nghe Sáng nói lầm bầm như là nói một mình, nắm tay Sáng bảo:

“Đừng băn khoăn day dứt mãi làm gì, không phải lỗi của mày đâu. Hãy cứ coi như đấy là số phận. Ngay cả chúng mình bây giờ, cũng đố ai mà biết được sẽ sống hay chết lúc nào”.

“Vâng, tôi cũng nghĩ con người mình có số phận, thần chết gọi ai thì người ấy phải đi thôi chứ tránh sao được. Nhưng đôi lúc nhớ lại thằng Hoài chết ngay trước mắt mình như thế, cứ thấy nó gợn gợn sao ấy - Dừng một lát, Sáng quay sang hỏi Nhạn. - Còn anh sao mà dạo này cứ lầm lì chẳng mấy khi nói câu nào thế?”.

“Ừ, đang chán tất cả”.

Trả lời Sáng thế rồi trầm ngâm một lúc, Nhạn kể chuyện khúc mắc vừa qua với Đại đội phó Bạo. Kể xong, Nhạn bảo:

“Thắng trận nhưng đơn vị hy sinh nhiều quá. Đang cái lúc cần chụm lưng vào nhau, động viên nhau vượt qua khó khăn thì lão ấy gây sự. Mấy cái súng với máy thông tin ấy là chúng mình đem từ trong căn cứ địch ra chứ có phải lão Bạo thu được đâu mà lắm chuyện. Vì thế đã buồn cảnh chung lại thêm chán cảnh của mình”.

Sáng nghe vậy cũng thấy bực thay cho Nhạn. Nói cho cùng, sinh mạng anh em mình mới quan trọng chứ thành tích có được ghi nhận hay không thì quan trọng quái gì. Sáng cũng chẳng biết an ủi Nhạn như thế nào, ngồi mãi rồi cũng lên tiếng:

“Thế bây giờ anh định thế nào?”.

Như có người gãi đúng chỗ ngứa, Nhạn nhìn thẳng vào Sáng rồi bảo:

“Độ này buồn tự nhiên tao rất hay nghĩ về nhà. Chuyển chiến trường mới thư từ bị ngắt nên chẳng biết thêm tin tức gì về gia đình. Tự nhiên thấy nhớ con quá dù mình chưa từng nhìn thấy mặt. Nếu nó giống tao thì chắc nó cũng như tao hồi bé như lời các cụ hay kể. Không biết mẹ nó có trở lại không, thằng bé có nhớ mẹ mà nhắc luôn mồm không. Bố thì nó chưa nhìn thấy nên chắc không nhớ. Nhưng cứ hình dung con mình giống mình ngày bé, tưởng tượng ra những cử chỉ của nó mà thấy quặn cả ruột. Tao định chuồn mày ạ. Bỏ hết tất cả mà về vì ở đây mình còn cái gì nữa đâu”.

Sáng ngồi nghe, cảm thấy trong lời nói của Nhạn có gì đó cũng giống với tâm trạng mình. Nghe Nhạn nói đến câu cuối cùng mà môi hơi mím lại tỏ ý cương quyết thì thấy cũng hợp ý mình đang nghĩ nên nói luôn:

“Dạo này tôi cũng thấy chán chán thế nào ấy. Chuyện ở nhà tôi bây giờ cũng không biết đã giải quyết được đến đâu. Nếu xã không sớm trả lại danh dự cho tôi và gia đình thì thầy mẹ tôi vẫn phải sống trong buồn tủi. Lo nghĩ nhiều tổn hại sức khỏe lắm anh ạ. Mình ở trong này cứ phải hùng hục đánh nhau mà ở xã vẫn là cái tiếng theo địch để gia đình bị làng xóm khinh rẻ thì thật quá bất công, quá khốn nạn. Nếu anh định về, cho tôi theo với. Tôi cũng cóc cần mọi thứ ở đây nữa. Về nhà mang cái tiếng của thằng đào ngũ vẫn còn đẹp gấp trăm lần mang tiếng theo địch”.

Đường từ chiến trường về hậu phương xa xăm và chứa đầy bất trắc. Bao nhiêu nguy hiểm đợi chờ không thể đoán trước. Đi hai người chắc chắn bớt lo hơn đi một mình rất nhiều, bởi dù thế nào, hai người vẫn là đồng đội. Nghĩ thế nên sau khi suy nghĩ một lát, Nhạn gật đầu bảo:

“Nếu mày cũng quyết tâm như thế thì chúng ta cùng chuẩn bị. Trước mắt cứ công tác bình thường, không được để lộ thái độ gì để người khác nghi ngờ. Còn lúc nào đi, phải bàn và xem xét cẩn thận đã”.

Nhạn và Sáng bắt tay nhau rất chặt. Mọi khi nhận nhiệm vụ hay chia tay nhau mọi người chỉ nhìn vào mắt nhau, không bắt tay vì kiêng rủi ro, nhưng lần nay cả hai phá lệ. Một cái bắt tay thể hiện quyết tâm, nhưng không phải để nhận nhiệm vụ chung mà là một toan tính riêng. Cả hai về đơn vị làm đúng theo giao ước, tránh gặp riêng nhau và ít nói chuyện tào lao khác trong trung đội. Thế mà những cử chỉ rất kín đáo của Nhạn và Sáng lại không che được mắt Tháo. Cái thằng lừ đừ lững thững như lợn đi kiếm ăn trong đầu đầy tư tưởng tự do vô chính phủ, chả coi cái gì là quan trọng kể cả sự sống chết của bản thân sao mà tinh ranh thế. Làm gì thì làm nhưng cứ lúc ngồi giải lao là nó kiếm ngọn cỏ hay ngọn lá đưa lên mồm chậm rãi nhai rồi lừ lừ đưa mắt nhìn từ người này qua người khác. Ánh mắt của nó kín đáo nhưng soi mói cứ như lột truồng con nhà người ta ra để xem da thịt có vết gì. Một lần được cử đi kiếm rau rừng với Sáng, nhân lúc ngồi giải lao, nó ghé sát vào mặt Sáng hỏi nhỏ nhưng rõ từng tiếng:

“Ông định đi đúng không?”.

“Sao mày nghĩ thế?”. Sáng hỏi lại bằng một câu để thăm dò lại Tháo chứ không chối đây đẩy như thường thấy trong những tình huống như thế này.

“Tôi nhìn cái vẻ của ông với anh Nhạn gần đây mà đoán bừa vậy thôi, nhưng chắc đúng. Chả phải soi mói kê kích nhau làm gì, toàn là thằng mục cả với nhau, mình không hiểu mình thì ai hiểu. Nhưng tôi nói câu này: Các ông có định đi thì cho tôi theo cùng với. Tôi chẳng có những tâm sự trong lòng nhiều như các ông, nhưng mọi thứ trên đời đối với tôi chẳng có ý nghĩa gì cả. Thích thì chết tôi cũng dám làm, còn không thì tút”.

Sáng nghe Tháo nói tuột một hơi như thế thì biết nó nói thật, đúng tính cách của cái thằng chả cần chả sợ gì. Cũng phải nói thật với nó thôi chứ vòng vo làm gì nữa, Sáng nghĩ vậy nên bảo:

“Mày đoán đúng chứ chẳng sai. Nếu quyết cùng đi thì hai đứa mình cùng gặp anh Nhạn để nói. Nhưng chỉ ba người thôi nhé, đừng lộ thêm cho thằng nào nữa mà rách chuyện”.

Cả hai gặp Nhạn nói lại ý định. Nhạn cũng chẳng ngạc nhiên cứ như đã biết trước chuyện này vậy. Ba người bắt tay nhau. Nhạn bảo:

“Chúng mình cùng quyết rồi thì cứ chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ cho gọn gàng. Còn đi lúc nào thì phải chờ. Tao định chọn lúc nào đơn vị chuẩn bị hành quân. Như thế vừa có lương thực mang theo, vừa lúc nhộm nhoạm trên đường hành quân khó kiểm tra mới có đủ thời gian đi xa”.

Chẳng phải chờ lâu, hơn nửa tháng sau đã có lệnh Đại đội 6 hành quân ra tuyến trước. Nhiệm vụ lúc này của đại đội là tiếp tục ra đứng chân ở quanh cao điểm 631 vừa chốt giữ kết hợp lùng sục và luồn sâu đánh nhỏ lẻ. Thực phẩm đem theo chả có gì, mỗi chiến sĩ lĩnh năm cân gạo tiêu chuẩn ăn cho mười ngày. Buổi chiều tiểu đoàn gửi xuống cho nửa con lợn, nhưng đại đội quyết định đem rang mặn tất cả rồi chia đều cho cá nhân tự giữ làm thức ăn trong vài ngày. Chừng ba lạng thịt nhưng có lẽ cũng chừng ấy muối nên thịt rang mặn chát, đủ giữ được nhiều ngày. Sau bữa cơm tối, anh nuôi đã nấu sẵn cho mỗi người một đùm cơm to cho cả ngày hôm sau. Đêm tối khá muộn, đại đội mới phát lệnh hành quân. Chặng đường đi ước chừng bốn giờ đồng hồ. Rất may là lần này ra đi đơn vị xác định sẽ chuyển hậu cứ mới nên mọi thứ phải mang hết. Lại một cái may nữa là Trung đội 5 đi cuối đội hình nên cơ hội để nhóm ba người Nhạn, Sáng và Tháo tách đội hình dễ hơn. Chỉ còn lo cắt đuôi Đại đội phó Bạo là người được phân công đi cuối đội hình để thu quân.

Mùa mưa, đêm không trăng sao nên mọi thứ tối om. Cả hàng quân lịch kịch hành quân giãn cách ngắn và tốc độ vừa phải. Ra khỏi hậu cứ Chư Nghé mới được một đoạn dài chừng cây số thì trời đổ mưa. Lúc đầu mưa còn lây phây, càng về sau càng nặng hạt, tất cả phải lấy ni lông ra quàng. Đường trơn trời mưa, đêm tối khiến tốc độ hành quân thêm chậm và đội hình càng ngày càng không thể bám sát nhau. Kiểu hành quân trong đêm mưa như thế này sẽ không thể duy trì được giải lao sau chừng một giờ hành quân, cứ phải bám nhau mà đi thôi. Con đường ra tuyến trước này Đại đội 6 đã từng đi tới hai lần nên cán bộ đại đội khá yên tâm không lo nhiều về chuyện có người bị lạc. Ba chiến sĩ tút bám nhau đi sát theo hàng dọc lần lượt là Sáng, Tháo rồi đến Nhạn. Như đã giao hẹn trước, sau khi qua con suối đầu tiên cách hậu cứ chừng một giờ đi đường, Sáng lủi ngay vào một bụi rậm bên đường. Đi thêm m?