← Quay lại trang sách

Chương 5

Cuối mùa mưa năm ấy, trời đã có nắng nhiều hơn. Đi lại đỡ vất vả và điều kiện tắm giặt cũng thuận lợi hơn. Không còn cảnh ngót tháng trời mới được tắm một lần nữa. Mà kể cũng lạ, mùa mưa lâu không được tắm, quần áo cứ lúc cứng lúc dẻo và đất bám đầy người bẩn như thế mà sao không thấy khó chịu lắm. Cứ đêm xuống dù người có ướt, quần áo có ẩm thì cũng chỉ sau vài phút ngả lưng là giấc ngủ đã đến rồi. Nhưng cảnh chiến trường đã tạo nên thói quen bản năng, chẳng bao giờ có thể ngủ say như chết được. Dễ ngủ, ngủ nhanh đấy nhưng lại rất tỉnh. Một tiếng đề pa của pháo địch hay tiếng gọi thay gác nhè nhẹ của đồng đội đều nghe thấy được trong giấc ngủ và có thể bật dậy được ngay. Bây giờ bắt đầu sang mùa khô thì khi hành quân xa hay mang vác gùi cõng cả buổi, mồ hôi ra nhiều nên ghét trên người cũng bở theo, da thịt bứt rứt chỉ muốn được tắm. Cũng may là khi trời không mưa thì quần áo phơi trong lán cũng mau khô, thậm chí mặc ngay quần áo ướt vào sau khi tắm thì cũng chỉ một hai tiếng sau đã có vẻ khô khô rồi.

Trung đoàn quyết định đánh tiêu diệt một tiểu đoàn quân Thái Lan đang đóng căn cứ tại khu vực ngã ba Lào Ngam, chắn giữ hai con đường 23 và 231. Nhổ được căn cứ này cũng có nghĩa là sẽ mở ra một thế trận mới: Giải phóng hoàn toàn tuyến đường 231 và lấn dũi tiếp theo đường 23 vào Pakse, hướng tới sào huyệt cuối cùng của quân phái hữu Phumi ở tỉnh cực nam này. Và nếu như thế thì coi như đã giải phóng xong toàn bộ vùng đất Nam Lào, càng tiến dần đến ngày hết chiến tranh. Dù chẳng biết là đến bao giờ nhưng vẫn cứ hy vọng, chiến tranh dù kéo dài đến đâu rồi cũng sẽ có ngày phải kết thúc chứ. Nếu như đến ngày đó không còn mình nữa thì niềm vui an ủi vẫn là những đứa em mình ở nhà sẽ không còn phải cầm súng ra trận nữa. Cũng bởi vậy nên cứ nghe nói chuẩn bị đánh lớn, đánh sâu vào phía địch là lính ta thấy rất háo hức và hăng hái.

Trinh sát trung đoàn, rồi trinh sát tiểu đoàn cùng các cán bộ từ trung đoàn cho đến cấp đại đội liên tục đi trinh sát căn cứ địch và địa hình để lên phương án tác chiến. Đánh căn cứ, nhất là căn cứ lớn cấp tiểu đoàn địch thì công tác chuẩn bị bao giờ cũng rất chu đáo và cẩn thận, có khi phải hàng tháng trời. Cán bộ và trinh sát cứ đi nắm địch, còn cánh chiến sĩ ở hậu cứ thì lo đi chuyển gạo đạn, lo chuẩn bị súng ống đạn dược và tập tành chiến thuật, nhất là khi có đánh hiệp đồng binh chủng. Lần này đánh căn cứ có một tiểu đoàn địch thì phải dùng tới hai tiểu đoàn của ta. Lần lượt bao giờ cũng có ba cửa mở trong đó có một cửa phụ và hai cửa mở chính. Rồi còn chia ra một bộ phận làm quân dự bị và đánh bọn tiếp viện hay đón lõng bọn rút chạy từ căn cứ ra. Tóm lại là rất nhiều chuyện phải làm. Có lẽ cả địch lẫn ta đều biết rất rõ về chiến thuật “tiền pháo hậu xung” của quân ta khi đánh căn cứ và “đánh điểm diệt viện” khi bố trí quân. Có thể đánh ban ngày hay đánh đêm và cụ thể bố trí quân như thế nào thì tùy trận đánh và xử trí của chỉ huy trong chiến trận. Nghe phổ biến lần này trung đoàn sử dụng Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 3 đánh căn cứ này. Ngoài pháo chi viện, sư đoàn còn tăng cường cho một đại đội xe tăng T-54 phối hợp tạo mũi đột kích nữa. Sau mấy tháng mùa mưa vất vả đánh địch lắt nhắt, bây giờ chuẩn bị được đánh to, khí thế bộ đội hăng lắm.

Đại đội 6 và Đại đội 7 được giao nhiệm vụ đón và dẫn xe tăng từ thị trấn Paksoong về nơi tập kết. Đường 23 qua một mùa mưa quang cảnh lại không khác gì so với năm trước Đại đội 6 đánh phục kích bọn quân Thái Lan ở gần khu vực bản Vườn Lê. Cây xấu hổ và cây mâm xôi mọc tràn ra gần lấp kín con đường 23. Xe tăng đi từ thị trấn Paksoong tới nơi tập kết để vào trận cũng gần ba chục cây số. Chỉ có mỗi đường 23 để đi là tiện nhất, còn nếu luồn rừng bên bắc đường thì không thể có lối đi qua huội Champi được. Nếu để xe tăng nghiến nát cây xấu hổ và mâm xôi mà đi thì cái vệt xích xe tăng rõ mồn một sẽ là dấu hiệu cho máy bay địch phát hiện và đánh tan cả đại đội xe tăng trước khi vào trận không sót một chiếc nào. Bàn mãi rồi cấp trên chọn giải pháp cho bộ binh mang sào vén cao các mảng cây xấu hổ và mâm xôi lên tạo lối cho xe tăng đi qua rồi trả lại vệt cây như cũ. Vậy là gần trăm người của hai đại đội bộ binh mỗi người phải đẵn một đoạn sào dài chừng ba mét mang theo ra đường 23 để công binh hướng dẫn thao tác. Khó hơn nữa là không phải xe tăng đi ban ngày mà toàn đi ban đêm. Mỗi lần cả đoàn quân nối đuôi nhau nâng cây xấu hổ cho xe tăng đi qua cũng chỉ được vài trăm mét. Một đêm dài từ chập tối đến mờ sáng vất vả như thế cũng chỉ đi được năm sáu cây số. Còn phải xóa dấu vết trước khi trời sáng bảnh đề phòng máy bay L-19 săm soi phát hiện. Tới sáng lại phải tìm chỗ nào có rừng cây to cho xe tăng rẽ vào trú ẩn ban ngày. Công việc tưởng chừng đơn giản mà cũng tốn rất nhiều công sức. Cả đơn vị chỉ thầm mong xe tăng vào trận sẽ đột kích mạnh, áp đảo địch để bớt thương vong cho cánh bộ binh. Cuối cùng thì sau một tuần, bốn chiếc xe tăng cũng vào được nơi tập kết nhưng rồi do ngụy trang không tốt nên lại bị máy bay T-28 đánh bom phá hỏng mất một chiếc. Tin về tổn thất này không được phổ biến và cánh bộ binh chỉ biết sau khi trận đánh đã kết thúc.

Hai đại đội còn lại của Tiểu đoàn 2 là Đại đội 5 và Đại đội 8 cũng phải làm nhiệm vụ khác hỗ trợ cho xe tăng. Từ nơi tập kết vào trận địa, xe tăng sẽ đi công khai vào hôm nổ súng nhưng đó không phải là đường rừng bằng phẳng nên cánh bộ binh lại phải làm đường. Chỗ có cây nhỏ thì chặt bớt, chỗ có cây to thì phải cưa sẵn nửa thân để xe tăng có thể dễ dàng húc đổ khi vào trận. Ngay cả đường đi cũng phải bạt bớt nhiều đoạn gồ ghề, nhất là những chỗ có gờ sống trâu. Bởi theo phổ biến thì nếu đi vào một cái sống trâu cứng gồ lên đội vào bụng xe tăng thì xe cũng bị mắc cạn lại không chạy được. Lúc vào trận mà bị mắc cạn thì cũng không có thời giờ để xe khác kéo giải cứu. Đúng là có được đánh trận cùng xe tăng mới biết có nhiều thứ khó khăn và phức tạp thật, không đơn giản như xem phim Liên Xô thấy xe tăng lao ầm ầm húc đổ tường đổ nhà tiến quân như vũ bão.

Xong việc với xe tăng, quay về hậu cứ là đã có lệnh chuẩn bị ngay cho trận đánh. Ngày N cũng chỉ còn vài hôm nữa. Không có sa bàn mà chỉ có bản đồ phổ biến đến từng trung đội trưởng. Các tiểu đội tổ chức chặt gỗ và bó bao cát để đem theo làm nắp hầm cá nhân. Trung đội trưởng Quân về phổ biến, Đại đội 6 chúng ta sẽ làm nhiệm vụ đón lõng đánh địch bỏ chạy hoặc đánh quân tiếp viện. Nhiệm vụ này sẽ đỡ ác liệt hơn so với các đại đội đánh căn cứ. Tiểu đội trưởng Nhạn bảo anh em trong tiểu đội, lúc này chỉ còn Tháo và Hoài, trận đánh này sẽ gần giống như đánh phục kích. Tất cả lại lao vào hùng hục chuẩn bị. Đến lúc này Tháo mới hiểu tại sao trong những ngày mùa mưa vừa qua đại đội phải thường xuyên cử lính ra các căn cứ cũ của địch dỡ công sự lấy bao cát đem về giặt sạch tích trữ lại. Bọn địch khi xây dựng công sự sử dụng những cái bao dứa hoặc bao vải ni lông nhỏ để dựng đất vào đó chất lên nóc hầm, giống như các bao đất đắp kè trên bờ đê. Nay chiến sĩ ta tận dụng cách đó để làm công sự cá nhân có nắp cho nhanh. Hơn chục cây tre hoặc gỗ nhỏ cỡ cổ tay rải trên nắp công sự chữ L có chiều rộng 60 phân, dài 80 phân rồi xếp lên đó chục bao đất là đã có một chiếc hầm cá nhân chống được đạn M79.

Ngày N-1, các đơn vị bộ binh hành quân tiềm nhập vào trận. Trinh sát dẫn đường đưa các đơn vị hỏa lực 12 ly 7 và ĐKZ của tiểu đoàn và bộ binh vào khu vực cửa mở. Trong khi cánh hỏa lực và bộ binh đào công sự chiến đấu ngoài hàng rào theo hình rẻ quạt thì công binh trung đoàn phối hợp với trung đội bộ binh đánh cửa mở bò vào cắt rào và đặt mìn định hướng. Căn cứ của tiểu đoàn quân Thái Lan này có ba lớp rào bao quanh, trong đó hàng rào trong cùng là loại rào gai bùng nhùng. Nhiệm vụ của bộ phận mở cửa là phải phá rào tạo độ rộng tới 8 mét để xe tăng có thể dễ dàng lao nhanh vào trận địa địch. Do đã trinh sát kỹ nên các đơn vị đã triển khai đặt mìn định hướng và đào xong hầm mà địch vẫn không phát hiện được. Đất ẩm qua một mùa mưa nên cũng dễ đào hầm và trời không mưa nên việc giá mìn và kết nối dây nổ không lo bị ướt. Tất cả hai phía cửa mở của Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 3 bí mật chờ đợi giờ nổ súng.

5 giờ sáng ngày N, khi tiếng đề pa của pháo binh sư đoàn bùng bùng cũng là lúc công binh trên hai cửa mở đồng loạt bấm mìn định hướng. Những giá mìn ĐH-10 ba quả một đồng loạt nổ vang đã thổi bay cả ba lớp hàng rào của địch, lẫn trong tiếng pháo 105 ly của sư đoàn và cối 120 ly của trung đoàn nổ dữ dội vào căn cứ địch. Hỏa lực tại chỗ của tiểu đoàn và đạn B-40, B-41 của Đại đội 5 cũng dập vào cửa mở, bắn phá lô cốt đầu cầu. Sau chừng 10 phút, tất cả cối pháo dừng bắn mà địch cũng chưa có phản ứng gì. Khác với những trận đánh căn cứ thông thường, khi pháo cấp trên bắt đầu chuyển làn bắn sâu vào căn cứ địch thì cũng là lúc bộ binh xung phong đánh chiếm lô cốt đầu cầu, nhưng trận này do chờ xe tăng đến tối mới vào tới được, nên nhiệm vụ của bộ binh là giữ vững cửa mở không cho địch ra lấp lại trong suốt ban ngày.

Đêm N-1, Đại đội 6 cũng có trinh sát tiểu đoàn dẫn đường đến vị trí phục kích đón lõng địch. Đường đi của Đại đội 6 xa hơn vì phải đi vòng qua căn cứ địch nên tất cả phải xuất phát sớm, ngay sau bữa cơm chiều. Đoạn đường đi trong rừng rậm an toàn nhưng vất vả vì lắm bụi rậm và những đám dây rừng, nhất là khi có vác gỗ đè trên vai. Nhiều lúc phải chui qua cả một bụi cây và dây rừng chằng chịt với tư thế lom khom có lúc như bò, Tháo mới thấy anh Nhạn nhắc anh em lấy bao cát bọc hai đầu vác gỗ là một kinh nghiệm thật quý báu. Nếu không làm như thế, dây rừng dai chắc mắc vào giữa những thanh gỗ thì thật khó gỡ và khi đó quân ta không thể bám sát nhau mà đi được. Thật may là khi trời tối hẳn thì đội hình cả đại đội đã đi qua rừng già và ra ngoài bãi cỏ trống và rừng thưa. Đêm không trăng sao nhưng đi trên bãi trống đã có thể nhìn thấy bóng người đi trước nhờ nhờ trên nền trời mà bám theo. Đôi lúc đội hình tiềm nhập phải dừng lại một chút để bộ đội không bị lạc do vác gỗ nghềnh ngàng rất mỏi và phải trở vai liên tục không bám kịp. Thêm một vất vả nữa là đường tiềm nhập của Đại đội 6 lại phải qua một bãi lầy nhỏ, bùn ngập đến gần đầu gối, phải giãn cách cự ly. Cuối cùng thì tới gần nửa đêm, trinh sát cũng đã dẫn được bộ đội vào đúng vị trí triển khai đào công sự. Nơi này là một vùng cây lúp xúp lẫn cỏ tranh và bông lau trắng gần một con đường xe bò đã bỏ từ lâu. Bình thường thì tiểu đoàn quân Thái Lan ở căn cứ này được tiếp tế qua con đường ô tô chạy từ ngã ba Lào Ngam vào, nhưng khi bị quân ta bao vây đánh căn cứ thì con đường đó bị chặn nên địch sẽ phải chọn con đường xe bò men theo nam đường để chạy sâu vào bên trong mới có lối rẽ ra ngoài đường 23.

Xa căn cứ địch nên bộ đội đào hầm thoải mái hơn. Tuy vậy các trung đội trưởng sau khi chỉ vị trí cho từng người vẫn phải chạy qua chạy lại kiểm tra. Đây là lần đầu tiên Tháo tự mình đào và làm một cái hầm cá nhân có nắp nên Tiểu đội trưởng Nhạn vừa đào hầm của mình, vừa phải thỉnh thoảng chạy qua kiểm tra và chỉ dẫn thêm cho Tháo. Cần đào hầm đủ rộng rãi vì phải chui vào đó chờ đợi cả ngày chứ không phải chỉ một thời gian ngắn. Hơn nữa nơi này trống trải phải ngụy trang rất cẩn thận vì cả một ngày trời máy bay trinh sát L-19 của địch có thể phát hiện ra và gọi không quân đánh bom. Buổi sáng ngày N, sau khi phía căn cứ địch ùng oàng pháo của ta bắn vào rồi im lặng, Đại đội trưởng Khâu biết ở hướng đó quân ta đang chốt giữ bảo vệ cửa mở đến tối để chờ xe tăng vào theo kế hoạch. Còn ở đây sẽ là một ngày chờ đợi, có thể rất căng thẳng nhưng có khi cũng nhàn nhã. Nơi phục kích địch của Đại đội 6 nằm độc lập không thể rải dây hữu tuyến nên được tiểu đoàn tăng cường cho một máy thông tin 2 oát.

Qua kinh nghiệm chiến đấu của mình trên chiến trường này, Đại đội trưởng Trần Khâu phán đoán nhiều khả năng địch sẽ không ứng cứu bởi vì cả ngày hôm nay quân ta vẫn chưa tiến công vào căn cứ. Điều đó cũng có nghĩa là bọn quân Thái Lan trong căn cứ chưa phán đoán ra ý đồ của ta, chưa thấy nguy cấp nên cũng sẽ không yêu cầu tiếp viện giải vây. Đại đội 6 sẽ phải giữ bí mật trận địa là chính để đêm nay đánh bọn rút chạy. Còn bên phía trận địa chính, anh em trên cửa mở chỉ vất vả ngày hôm nay chống địch thôi, còn đến tối có xe tăng công kích thì chắc chắn sẽ đánh chiếm được căn cứ địch. Vì thế khi trời đã sáng rõ, Đại đội trưởng Khâu tự mình cùng các trung đội trưởng kiểm tra lại lần cuối ngụy trang của bộ đội, thấy đảm bảo rồi mới yên tâm lệnh cho tất cả ngồi im tại vị trí chờ đến tối.

Đúng như phán đoán của Đại đội trưởng Khâu, suốt ngày N bên khu vực cửa mở của căn cứ chính là một ngày vất vả của bộ đội. Sau khi pháo ta dừng bắn, bọn địch chờ đợi để đánh quân ta xung phong vào, nhưng chờ mãi chẳng thấy gì ngoài sự tĩnh lặng như chưa có gì xảy ra. Kiểu đánh này của bộ đội ta cũng không giống những trận đánh vây ép. Phải rất lâu sau, địch mới cho quân ra sửa lại các lô cốt đầu cầu và bố trí lại quân tại nơi đó. Sau khi lò dò ra kiểm tra hàng rào bị đánh tung, bị quân ta bắn cho mấy loạt, chúng tụt vào trong và không ra nữa. Hàng rào ở cửa mở không bị lấp nên các hầm hỏa lực sát hàng rào cửa mở cần phải giữ bí mật cho đến tối. Các đơn vị ở thê đội hai phía sau tiếp tục củng cố công sự và cũng phải giữ bí mật lực lượng. Một điều may nhất mà cấp trên luôn lo lắng cho những trận đánh không dứt điểm ngay như thế này là địch không cho máy bay ném bom. Chúng chỉ tập trung bắn cối 81 ly từ trong căn cứ ra ngoài khu vực cửa mở nhằm sát thương đối phương. Cứ độ nửa giờ lại bắn ra ngoài chừng chục trái kiểu cầm canh như thế. Buổi chiều thêm một đợt pháo 105 ly vài chục quả của địch từ trong phù Chiêng bắn ra các khu vực cửa mở, có lẽ chúng định lấy điểm bắn chuẩn trước mà thôi. Tuy vậy bên hướng của mở phía đông của Tiểu đoàn 2 cũng có vài chiến sĩ bị thương, một người hy sinh. Chiến sĩ thông tin hữu tuyến tiểu đoàn phải đi nối lại dây điện thoại bị đứt đến mấy lần. Suốt một ngày quân ta trên cửa mở thấp thỏm và chờ đợi, càng đến chiều càng bớt lo lắng hơn. Đến chập tối cán bộ Đại đội 5 đã có thể thở phào vì cửa mở vẫn thông, đảm bảo xe tăng có thể tiến công vào căn cứ mà không vướng víu gì.

5 giờ chiều khi nắng vừa tắt, cũng là lúc trên trời không còn máy bay trinh sát L-19 lượn lờ nhòm ngó, đội hình xe tăng bắt đầu xuất kích. Các xe tăng để chân dầu nhỏ, lịch xịch tiến về phía căn cứ địch theo con đường đã mở sẵn của công binh trung đoàn. Từng đoạn vẫn có công binh đứng làm hoa tiêu chỉ dẫn. Tuy đã được lệnh sẵn sàng nhưng tiếng xe tăng rất nhỏ nên khi chỉ còn cách căn cứ vài trăm mét, bộ đội trên cửa mở mới biết xe tăng đang vào. Lúc này trời tối rất nhanh. Tất cả bộ binh được lệnh chuẩn bị bám theo xe tăng. Căn cứ của tiểu đoàn quân Thái Lan xây dựng trên một khu vườn cà phê lâu năm rất rộng, phía ngoài hàng rào vài chục mét là những vạt cây rừng tái sinh nên khi xe tăng vào sát đến lớp hàng rào đầu tiên, bộ binh phải dùng đạn lửa bắn vào khu cửa mở chỉ đường cho xe tăng. Cùng lúc chiếc xe tăng đi đầu dịch đít chỉnh lại hướng và nổ to máy lao qua cửa mở, các loại hỏa lực tại chỗ của bộ binh cũng đồng loạt khai hỏa bắn vào căn cứ địch. Chớp lửa của B-40, B-41, ĐKZ -75 và 12 ly 7 nhoang nhoáng nhằng nhịt hòa cùng các loại súng bắn ra từ chiếc xe tăng T-54 đang xông vào. Theo hai vệt xích xe tăng, bộ binh lao theo vọt qua cửa mở. Theo hiệp đồng, xe tăng đi đầu lao thẳng chọc sâu vào trung tâm căn cứ còn hai xe tăng sau rẽ ngang đánh sang hai bên. Những bánh xích xe tăng đè và day nát các công sự của địch. Bộ binh từng tốp bám theo xe tăng tung thủ pháo xuống các giao thông hào hai bên và bắn găm AK vào bất cứ chỗ nào nghi ngờ. Bọn quân Thái Lan lần đầu tiên gặp xe tăng ta nên rất kinh hoàng và lúng túng. Lúc xe tăng ta lao qua cửa mở, chúng chỉ kịp bắn trung liên và các loại đạn thẳng vào xe tăng, thành xe tăng liên tiếp tóe lửa cùng tiếng va chát chúa nhưng chẳng hề hấn gì. Về sau lúc xe tăng đã lọt vào căn cứ, bọn địch mới kịp bắn ra mấy quả M72, nhưng do vội nên không có quả nào trúng xe tăng. Những vệt lửa da cam của đạn M72 vạch những vệt sáng trong đêm vượt qua cả đầu bộ binh chạy sau xe tăng. Tiếng súng các loại của quân ta nổ vang trong căn cứ, áp đảo những tiếng súng thưa thớt của địch.

Ngoài vài phát đại bác bắn thị uy ban đầu, xe tăng chủ yếu chỉ bắn 12 ly 7 và đại liên trên xe, nhưng uy lực về khối thép khổng lồ quần nát hầm hào mới khiến địch khiếp sợ không chống cự được bao nhiêu. Chỉ sau chừng nửa giờ tiến công, các mũi của Tiểu đoàn 2 hướng đông và Tiểu đoàn 3 hướng nam đã bắt tay được với nhau và dấn thêm một bước tảo thanh về phía tây. Hướng đó có cửa chính của địch để ra vào căn cứ và một bộ phận địch đã rút chạy qua đó. Nhiệm vụ cuối cùng của bộ binh bây giờ là chia nhau tảo thanh làm chủ toàn bộ trận địa, bắt tù binh, kiểm tra thu hồi vũ khí và đưa thương binh tử sĩ ra. Đêm tối đen lại nằm giữa vườn cà phê tươi tốt nhưng mọi việc đều diễn ra thông suốt, nhìn mọi thứ trong đêm có lẽ đã thành một thứ bản năng của bộ đội trong chiến trường. Trung đoàn nghe báo cáo quân ta làm chủ căn cứ đã phát lệnh cho bộ đội khẩn trương rút nhanh ra ngoài, đề phòng địch dập pháo hủy diệt căn cứ. Rút nhanh và vội vã, vậy mà ngoài một số vũ khí thu được, quân ta kể cả bộ binh và lực lượng tăng cũng đã kịp thu chiến lợi phẩm của địch. Cứ lấy cái đã, ra ngoài rừng xem xét sau. Mấy chiếc xe tăng lúc rút ra chạy từ từ và bật đèn gầm để khỏi chẹt vào bộ binh.

Trên trận địa phục kích đón lõng của Đại đội 6, từ lúc sẩm tối mọi người đã nghe thấy tiếng súng nổ ran phía căn cứ địch. Những chớp sáng loáng nhoáng xen trong nhiều tiếng nổ. Thỉnh thoảng lại nghe bùng một tiếng rất to kèm theo quầng sáng hất lên trời, có vẻ như từ một trái đạn hỏa tiễn bắn vung lên nào đó. Đại đội trưởng Khâu lệnh cho toàn đại đội chuẩn bị đánh địch rút chạy. Cũng chẳng phải chờ lâu, từ lúc nghe tiếng pháo của xe tăng ta bắn vào căn cứ địch đến khoảng chừng nửa giờ sau đã nghe tiếng những bước chân rậm rịch chạy. Đêm tối nhưng giữa khoảng trống nên cũng đã nhìn thấy những bóng đen lố nhố, chừng khoảng vài chục tên. Theo đúng hiệp đồng khi những tên chạy đầu sắp vượt qua đội hình phục kích, Trung đội trưởng Quân lệnh cho nổ súng chặn đầu. Tháo đã kiểm tra rất kỹ càng quả đạn B-40 được đẩy vào khấc sẵn sàng từ trước và giương súng lên nhắm vào giữa những bóng đen. Thấy Tiểu đội trưởng Nhạn nằm sát bên trái mình phẩy tay ra hiệu Tháo liền bóp cò. Đây là quả đạn B-40 bắn đầu tiên trong đời của Tháo. Tiếng ùng oàng vang to trong đêm cùng chớp lửa màu da cam chết chóc lao vào giữa những bóng đen phía trước. Ngay lúc đó tất cả các chiến sĩ Đại đội 6 cũng đồng loạt nổ súng xả tất cả các loại đạn vào đội hình địch. Tiếng đạn xen ríu vào nhau không còn phân biệt được ai bắn và từ đâu bắn ra nữa. Trận đánh diễn ra rất nhanh, chỉ chừng hai phút. Ta hoàn toàn chủ động nên địch không bắn lại được phát đạn nào. Tháo cũng đã kịp bắn xong quả đạn B-40 thứ ba. Ở phía khóa đuôi của Trung đội 6, đội hình của địch vẫn còn nhưng chúng không bắn trả mà tìm cách tháo lui và tìm đường khác chạy trốn. Anh Ngự, Trung đội trưởng Trung đội 6 lệnh cho bộ đội truy kích ngắn và cho nã thêm B-41 cùng cối cá nhân M79 về phía đội hình phía sau của địch. Trận chiến đấu kết thúc, tiếng súng ngừng lại cũng nhanh như lúc phát hỏa. Trung đội 6 bắt được năm tên tù binh. Phía Đại đội 6 không có thương vong. Đại đội trưởng Khâu báo cáo kết quả về tiểu đoàn rồi lệnh cho bộ đội khẩn trương thu vũ khí rút nhanh về vị trí tập kết được giao lúc trước theo lệnh tiểu đoàn. Vẫn sợ pháo địch bắn chi viện gây thương vong không cần thiết cho quân ta nên công tác kiểm tra cũng kết thúc nhanh. Thu vội vũ khí và đếm nhanh, diệt được chừng hai chục tên, bắt sống năm tên. Có thể vẫn còn sót lại vũ khí chiến lợi phẩm và nhiều ba lô của địch chưa kiểm tra hết, nhưng lúc này không thể tự ý chần chừ được. Ngay trong đêm, Đại đội 6 về đến vị trí tập kết được phân công là một rẻo rừng sát con suối lớn nằm ở phía đông nam căn cứ địch ở khoảng cách non cây số. Các đơn vị đánh căn cứ lúc này cũng rút hết ra bên ngoài đóng quân rải rác trong các khu rừng gần căn cứ địch. Trong căn cứ đêm nay chỉ còn Đại đội 7 nằm sát ngoài hàng rào canh chừng.

Về tới nơi tập kết trong đêm, Đại đội trưởng Khâu phân công vị trí cho các trung đội, cho anh em rải ni lông ngủ quanh các gốc cây. Cả đại đội chỉ bố trí một vọng gác. Thật ra trong lúc như thế này không lo có địch hay thám báo mà chỉ sợ địch bắn pháo vu vơ trong đêm, còn canh gác chính là trông chừng mấy tên tù binh, dù lúc này chúng đã bị trói cả tay lẫn chân và trói dính vào nhau. Ngày mai tiểu đoàn mới tiếp nhận tù binh của các đại đội nộp lên và cử được người giải về hậu cứ của trung đoàn. Nhạn gọi Hoài và Tháo trong tiểu đội mình lại cùng mở mấy cái ba lô chiến lợi phẩm ra xem. Trong ba lô nào của địch cũng có gần tút thuốc lá “To A” hay Salem. Trong một ba lô còn có hai hộp thịt. Nhạn cho tiểu đội đục hai hộp thịt chia nhau ăn lấy sức, vì bữa cơm tối đã tiêu đi đâu hết rồi qua gần một đêm vất vả. Nhạn lại lấy một tấm ni lông che tạm ánh sáng để mấy anh em cùng hút thuốc. Đã lâu ngày không được hút thuốc “thẳng” mà chỉ toàn thuốc rê quấn sâu kèn hôi rình, bây giờ được hút điếu thuốc đầu lọc thấy khoan khoái và tỉnh cả người sau khi đã giải quyết xong hai hộp thịt dằn bụng. Đứng thẳng người lên nhìn ngó xung quanh thấy đâu đó cũng lập lòe đốm đỏ thuốc lá và mùi thuốc thơm cả góc rừng, Nhạn biết anh em các tiểu đội và trung đội khác cũng vớ được các thứ giống tiểu đội mình. Cẩn thận hơn, Nhạn cầm nửa tút Salem sang cho Trung đội trưởng Quân, nhưng thấy anh cũng đang nằm ngả lưng cạnh một gốc cây to, điếu thuốc thơm có đốm đỏ lập lòe trên môi. Thấy Nhạn lại gần đưa ra mấy bao thuốc, anh Quân cười bảo:

“Mày về ngủ đi, tao cũng có gần tút thuốc đây rồi. Nhớ nhắc anh em ngủ ngay đi, mai còn dậy sớm đấy nhé”.

Hôm sau cả đại đội thức dậy lúc trời vừa nhìn rõ mặt người. Một lô công việc cần làm được triển khai. Một tiểu đội được giao dẫn giải tù binh lên vị trí tập kết của tiểu đoàn, nằm không xa khu cửa mở liền cùng với Đại đội 7. Số còn lại của các trung đội tập trung tổ chức đào hầm chữ A vì toàn tiểu đoàn có lệnh trụ lại, chưa rút về hậu cứ. Một bộ phận khác được lệnh vào căn cứ địch tổ chức thu vũ khí và chiến lợi phẩm. Suốt đêm qua địch không có động tĩnh gì với căn cứ bị mất này và nghe qua đài kỹ thuật từ trên báo về, địch không có ý định tái chiếm lại căn cứ. Gần trưa, nhóm chiến sĩ được vào căn cứ quay về nơi tập kết của đại đội kể chuyện thu chiến lợi phẩm khiến cánh chiến sĩ cứ nháo cả lên. Thế là buổi chiều tạm dừng đào hầm để vào căn cứ thu chiến lợi phẩm đã. Có vẻ như tiểu đoàn quân Thái Lan này vừa được tiếp tế hậu cần thì bị ta đánh. Trong căn cứ có một kho gạo Thái phải cỡ vài tấn. Ngoài ra các thứ như đồ hộp, đường trắng, nước mắm và các thứ linh tinh khác rất nhiều. Còn trong các ba lô của địch bỏ la liệt trong các hầm hào thì cái nào cũng có thuốc lá đầu lọc và nhiều thứ hay hay. Buổi sáng trước khi rút về căn cứ của sư đoàn, cánh xe tăng đã kịp lái xe quay vào căn cứ tranh thủ thu chiến lợi phẩm. Có xe tăng cõng hộ không phải mang vác, mỗi kíp xe lấy cả tạ gạo và nhiều thứ khác rồi mới rút đi. Các Tiểu đoàn 2 và 3 cho các đại đội tùy sức lấy gạo và thực phẩm theo khả năng. Tiểu đoàn cũng cử một bộ phận gùi thuốc lá, đồ hộp, đường, sữa và cả gạo về nộp cho trạm xá trung đoàn để phục vụ cho thương binh.

Nhạn cùng Tháo và Hoài cũng được vào căn cứ gùi hàng về vào buổi chiều. Ngoài những thứ lấy chung cho đại đội như gạo và thực phẩm. Nhạn cũng nhắc anh em thay một vài thứ quân trang của địch. Trước tiên là xanh-tuya-rông của Mỹ. Loại này làm bằng chất liệu pha ni lông và có thớ ngang nên không bị ngấm nước, bền và nhất là không bị bị vặn vỏ đỗ khi gắn nhiều thứ vào đó. Mấy cái xanh-tuya-rông vải của Trung Quốc được phát từ ngoài Bắc bị vứt bỏ không thương tiếc. Tiếp theo là mỗi người lấy vài đôi tất sợi pha ni lông của địch. Loại tất này cũng vô địch, bền, giặt nhanh khô và nhẹ, đi dép cao su không thể thiếu đôi tất chân, bất kể mùa nào. Một thứ nữa cũng rất tốt là chăn dù thám báo và vải dù làm võng. Tất cả mấy thứ đó vo lại nhét trong ba lô rất gọn, nặng chưa tới một cân, ấm và bền. Nhạn bảo hai chiến sĩ trong tiểu đội mình:

“Đây là cơ hội hiếm có đấy vì bọn quân Thái Lan là con nhà giàu được trang bị toàn đồ tốt của Mỹ và rất đầy đủ. Đánh bọn Phumi không mấy khi có những thứ này đâu. Anh em mình phải tranh thủ khua ngay chứ chậm một chút nữa cũng chẳng còn”.

Nhạn là chiến sĩ cũ, đánh trận nhiều ở chiến trường này nên rất có kinh nghiệm kiểu “láu cá” ấy. Quả như lời Nhạn nói với anh em trong tiểu đội, cánh chiến sĩ khác chỉ nhăm nhăm tìm thuốc lá và đồ ăn, đến khi về chỗ tập kết mới ớ ra khi nhìn thấy mấy thứ linh tinh của tiểu đội Nhạn, lần sau được vào lại căn cứ để gùi hàng tiếp thì chẳng còn kiếm đâu ra. Thuốc lá và đồ hộp thì sớm muộn cánh nào cũng lục tìm được kha khá, có lấy nhiều thì sau này tiểu đoàn cũng cho kiểm kê và thu bớt lại để nộp lên trung đoàn. Các thứ ăn và hút trước sau rồi cũng hết, còn những đồ dùng của địch thuộc loại cho phép lấy để sử dụng cá nhân thì bền mãi. Nhạn còn tìm trong ba lô của địch lấy được một chiếc đèn pin “cổ ngoéo” bằng nhựa cứng và một chiếc địa bàn pháo binh. Hai thứ này đều là của quý và hiếm, rất ít khi gặp. Đèn pin “cổ ngoéo” nắp vặn có gioăng cao su nên không thấm nước, có rơi xuống suối cũng chẳng sao. Đặc biệt là nó có thêm một mắt kính mờ. Khi lắp mắt kính này vào thì có ngồi ngay trong hàng rào bật xem bản đồ, thằng địch đứng gác cách đó chục mét cũng không phát hiện ra. Nhạn dùng chiếc địa bàn mới còn nguyên nước sơn quân dụng trên vỏ, đưa chiếc cũ đang dùng cho cậu Hoài. Cánh bộ binh tuy không thường xuyên phải dùng địa bàn như trinh sát, nhưng thằng nào cũng thích có một cái để đến nơi dừng chân là có thể biết được phương hướng. Nhỏ nhẹ và gọn, cái địa bàn đút vừa túi áo ngực của chiến sĩ. Tháo cũng lọ mọ kiếm được một bộ bài tú-lơ-khơ mới tinh và một cuốn vở chỉ mới ghi có hai ba trang chữ Thái cùng hai cây bút bi. Vô tình mà lại hợp vì đôi lúc Tháo cũng muốn ghi chép một cái gì đấy. Chẳng để làm gì cả, nhưng cứ ghi lại, đánh dấu mốc cho những bước chân của mình trong đời quân ngũ, biết đâu còn có lúc được xem lại. Nhạn cầm bộ tú-lơ-khơ lên, lật mặt sau xem thấy vẽ hình hoa văn rất đẹp còn mặt trước chỉ là hình rô cơ nhép bích, bảo Tháo:

“Bộ bài này được đấy. Có lần tớ lục ba lô địch cũng lấy được một bộ nhưng mặt nền của lá bài toàn ảnh con gái cởi truồng. Mới nhìn thấy tò mò, sau ngượng bỏ mẹ, thấy nó cứ thế nào ấy lúc chơi bài. Sau chính trị viên nhìn thấy, bắt đem đốt bỏ, còn cho thêm một bài chính trị nữa. Chuyện kết nạp Đảng của tớ bị kéo dài thêm tới nửa năm cũng do cái chuyện dở hơi ấy”.

Hôm đầu lấy được gạo về nơi tập kết, anh nuôi nấu thả phanh cho mỗi suất gần cân gạo. Chưa cần mở thịt hộp chiến lợi phẩm, chỉ rưới nước mắm cũng là thứ vừa lấy được của địch trong căn cứ mà mỗi thằng chén tới sáu, bảy bát cơm hết bay. Gạo Thái hạt dài, nhìn đã thích, nấu lên lại thơm lừng. Rất nhiều người lần đầu tiên biết đến thứ gạo hạt đẹp và nấu lên thơm như thế. Mấy tháng qua tiêu chuẩn gạo có năm lạng một ngày lúc nào cũng thấy đói, nay được nấu ăn thả phanh chả tính vào tiêu chuẩn nào, từ cán bộ đến lính tráng, anh nuôi mặt ai cũng phởn phơ. Ăn no nên làm khỏe, mấy cái hầm chữ A làm xong chỉ trong một ngày. Lại thêm cái khoản thuốc lá thơm xông xênh nên chả ai chịu chui xuống hầm, lúc nghỉ cả đêm lẫn ngày cứ chặt ít lá rải ni lông nằm mà hút thuốc và tán chuyện với nhau. Chỉ tiếc là trong ba lô của bọn địch không có cà phê và chè mạn, có một ít quân ta hái về tự làm được thì đã dùng hết từ khi còn ở hậu cứ rồi. Càng nghĩ càng thấy bọn địch sướng thật, cứ như con nhà giàu. Trung đội trưởng Quân, người đã từng tham gia đánh Mỹ ở mặt trận Trị Thiên hồi năm 1967 - 1968 hứng chí còn kể thêm chuyện lính Mỹ. Chúng nó được phục vụ hậu cần tới tận chân răng. Đào công sự trên núi có máy bay trực thăng cẩu ụ súng đúc sẵn bằng bê tông lên. Còn mùa hè nóng bức thì không phải mò ra suối tắm mà có máy bay đem nước lên phun xuống cho tắm như mưa nhân tạo. Hèn gì chúng nó không chịu nổi khắc nghiệt khí hậu của Việt Nam, thua quân ta là phải.

Mấy ngày dừng chân quanh căn cứ đã bị nhổ bỏ của tiểu đoàn quân Thái Lan, không gian và cảnh vật thanh bình như nơi này chưa hề có chiến tranh. Không một tiếng pháo, không một tiếng máy bay trinh sát L-19 ò è và vè vè trên trời. Mọi sự tĩnh lặng vô cùng. Nhìn qua khe lá lên, thấy bầu trời như cao hơn, xanh hơn với những làn mây trắng nhẹ trôi. Rừng cây lá xanh rì rào, tiếng suối chảy róc rách phía xa xa, sáng sớm và chiều tối nghe tiếng chim ríu rít trên những tán cây cao. Lính tráng thay nhau vào căn cứ địch, lấy hết những thứ cần thiết cho mình rồi thì gùi hàng về cho trung đoàn. Súng ống từ nhỏ đến to, máy thông tin, đạn dược rồi đủ thứ linh tinh khác được gùi về nộp lên trên mà xem ra vẫn còn nhiều thứ hay hay nhưng chả mấy khi dùng, ôm vào chỉ nặng lúc hành quân nên bỏ. Thời gian rất nhiều, chả sinh hoạt hay họp hành gì. Vậy nhưng mỗi đêm vẫn phải ngồi canh gác, nghe tiếng lũ côn trùng thi nhau hòa tấu và đếm hết một giờ gác để gọi người khác thay. Ngày nào nhà bếp cũng nấu rất nhiều cơm. Anh nuôi bảo, gạo không tiêu chuẩn, tao cứ nấu nhiều cho đến khi nào chúng mày không ăn được nữa thì thôi. Vậy mà cánh chiến sĩ vẫn cứ ăn rào rào, mỗi ngày cả cân, dù thức ăn bây giờ chỉ còn mỗi nước mắm hay món canh lá chua.

Được chừng một tuần sống trong cảnh sung túc như mơ ấy thì có lệnh hành quân. Lệnh phát ra từ buổi trưa, chiến sĩ ta có một buổi chiều chuẩn bị. Súng đạn và quân tư trang thì vẫn vậy rồi. Ai lấy thêm cái gì lặt vặt thì tự cố gắng mang. Nghe phổ biến sẽ hành quân đi rất xa, tới một địa bàn mới và phải tác chiến luôn. Mỗi chiến sĩ tự trang bị thêm hai quả lựu đạn US của địch. Mỗi tiểu đội phải nhận thêm một ống súng chống tăng M72 để tăng thêm hỏa lực hỗ trợ cho B-40, B-41, vì cơ số đạn của họ chỉ có sáu quả. Chiến sĩ giữ M79 cũng phải tự bổ sung đạn cho mình lấy ngay từ căn cứ địch, nâng cơ số đạn từ 40 lên 50 quả. Các loại đạn của ta như đạn AK, cối 60, B-40, B-41 đã được đem từ hậu cứ ra bổ sung từ mấy hôm trước. Nhìn chung thế là mọi thứ trên vai đã rất nặng. Về lương thực, mỗi người phải mang bảy cân gạo và bắt đầu được tính ăn theo tiêu chuẩn năm lạng một ngày bắt đầu từ hôm sau. Đóng gạo cho từng người xong, nhìn đống gạo Thái thu được từ mấy hôm trước còn lại, ai cũng tiếc, nhưng làm sao ôm được. Đại đội trưởng Khâu bảo: “Chúng mày đứa nào mang thêm được cứ mang, được tự nấu tự ăn thêm không ai quản”. Nghe thì thế nhưng có cố cũng mang thêm được mỗi người một ký, bảo nhau thôi để ăn thêm một ngày nữa vậy. Dù sao sau mấy ngày nghỉ ngơi anh em được lại sức, khỏe ra và đang hăng. Anh nuôi Châu vun đám gạo bỏ lại vào một tấm ni lông để gọn bên gốc cây, nói với anh em như để tự giải tỏa sự tiếc rẻ của mình:

“Số gạo này cũng chỉ mấy hôm nữa thôi, đám chim muông và thú rừng sẽ về đây giải quyết nốt. Thôi cũng coi như món quà tặng của chúng ta cho chúng”.

Đội hình hành quân theo đại đội, nhưng cả đoàn quân của Tiểu đoàn 2 cùng lần lượt xuất quân từ ngay chập tối. Sau khi vượt qua đường 23 cả tiểu đoàn theo trinh sát dẫn đường nhằm hướng bắc mà đi. Chỗ nào chưa có đường thì đạp rừng, chỗ nào có đường xe bò thì tận dụng đi theo. Trinh sát chọn chỗ nông ở huội Champi cho bộ đội vượt qua, vì lúc này đã sang mùa khô, không còn mưa nữa rồi. Leo qua mấy cây cầu bằng cây đổ cũ làm mấy tháng trước vừa cao chênh vênh, vừa nguy hiểm. Sáng ra cả đại đội được nghỉ bên một cánh rừng, cách xa đường xe bò dân sinh. Anh nuôi triển khai nấu cơm còn bộ đội mắc võng hoặc nghỉ luôn trên mặt đất, không được đi ra xa. Như vậy đợt hành quân này sẽ là ngày nghỉ đêm đi, chắc cần phải giữ bí mật với dân, dù dân Lào nói chung thường có thái độ trung lập. Ngủ nửa ngày đã mắt, sau bữa cơm trưa, cánh chiến sĩ lại tụm ba túm năm với nhau, đốt nốt những điếu thuốc lá thơm chiến lợi phẩm cuối cùng. Các “tham mưu con” phỏng đoán nhiệm vụ mới trong lúc cán bộ đại đội lên tiểu đoàn họp. Sắp đánh nhau thì chắc chắn rồi, vì chuẩn bị súng đạn đầy đủ thế cơ mà, lại còn tăng thêm cả cơ số đạn. Nhưng tại sao lại đi lên hướng bắc, ngược với đường ra tuyến trước mọi khi. Tháo nhớ lại đợt đi mua lợn, rõ ràng đi lên hướng bắc là ra Saravan, vùng giải phóng của ta. Còn nếu đi sang phía tây, hướng tới đường 13 thì mới ra vùng có địch ở Khoong-sê-đôn. Tiểu đội trưởng Nhạn theo dõi địa bàn suốt từ hôm qua cũng xác nhận đơn vị đang đi theo hướng bắc. Chắc có một cái gì đó đặc biệt vì hành quân đợt này có vẻ vội vã và bí mật. Đêm ấy hành quân tiếp, nhưng nhiệm vụ là gì vẫn chưa được phổ biến.

Ngày nghỉ thứ hai, gần trưa Trung đội trưởng Quân đi họp giao ban đại đội về mới phổ biến cụ thể. Bây giờ mới hiểu tại sao sau trận đánh căn cứ Thái Lan ở ngã ba Lào Ngam, địch không phản ứng gì và Tiểu đoàn 2 có cả tuần nghỉ xả hơi trong cảnh thanh bình ở đó. Trong tuần vừa qua, địch không tiến quân đánh vỗ mặt quân ta ở ngã ba Lào Ngam mà đổ quân nhảy cóc ra Saravan là vùng giải phóng của ta, sau lưng Trung đoàn 9. Con đường 231 chạy từ ngã ba Lào Ngam vòng qua Keng Nhao, Lào Ngam (cũng tên là Lào Ngam nhưng nằm trên đường 231, không phải ngã ba Lào Ngam trên đường 23) rồi giao nhau với đường 23 tại ngã ba bản Bèng là địa danh thuộc tỉnh Saravan. Một trung đoàn địch chiếm giữ Khoong-sê-đôn còn hai trung đoàn nhảy ra Saravan, vùng đất nằm phía bắc đoạn đường 231 từ Lào Ngam đến bản Bèng. Cả thị xã Saravan có dòng sông Sê Đôn uốn lượn bao quanh. Nếu địch vượt được qua sông Sê Đôn ở đoạn nằm về phía đông thị xã Saravan thì chúng sẽ uy hiếp con đường vận tải chiến lược Trường Sơn có tuyến xe chạy gần đó. Vậy là sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 9 ra đánh địch ở thị trấn Khoong-sê-đôn, còn Trung đoàn 9 ra đánh địch ở Saravan. Lúc này địch đã đóng quân dã ngoại ở nhiều nơi thuộc Saravan. Có chỗ chúng đóng quân cạnh bản dân nhưng cũng có chỗ chúng đóng giữa rừng. Trinh sát trung đoàn và tiểu đoàn đi bám địch suốt lượt đã có báo cáo về trung đoàn và tiểu đoàn. Saravan là vùng đất bình nguyên, bằng phẳng không có suối sâu và núi. Các bản dân ở rất thưa nhau như trên cao nguyên Boloven nhưng họ làm ruộng cấy lúa một mùa chứ không có nương rẫy. Rừng nối rừng bao quanh các bản và ruộng lúa, tràn ra dọc hai bên sông, nhưng là một dạng rừng đặc biệt khác mọc trên các vùng đất khô cằn. Chủ yếu là cây khộp, một loại cây có dầu lá to và thưa. Cà boong, một loại đuốc thắp sáng của dân Lào dùng loại nhựa cây khộp này. Cây cao, to nhưng thân không thẳng, cành mọc ngang nguềnh ngoàng, không có tán. Trong rừng khộp có rất nhiều ụ mối to cao tới hai mét và đường kính tới ba bốn mét. Đi trong rừng khộp tầm nhìn được rất xa và lúc nào cũng có nắng dội xuống đầu nếu là mùa khô. Nhiều chỗ trong rừng khộp chỉ có thể đào được một cái hố toen hoẻn làm công sự chứ không thể làm được hầm chữ A, phần vì đất rất rắn và hơn nữa không thể tìm đâu ra gỗ để làm nắp. Có lẽ vì thế nên ở vùng bình nguyên Saravan này, các bản làng làm rất thưa ở những chỗ đất tốt có thể làm ruộng, kiểu như các thung lũng ở vùng miền núi phía Bắc Việt Nam.

Địch không đóng quân tập trung cỡ tiểu đoàn mà chia ra thành các đại đội độc lập. Trinh sát chỉ phát hiện vị trí đóng quân của địch như thế chứ chưa biết được sở chỉ huy cỡ trung đoàn của chúng ở đâu. Đặc biệt hơn nữa là chúng không đóng quân cố định mà di chuyển liên tục. Trinh sát phát hiện, quân ta chưa kịp đánh thì chúng đã di chuyển đi nơi khác. Địch không lập phòng tuyến nên rất khó phân biệt ranh giới địch - ta một khi đã xảy ra tác chiến. Bọn địch nhảy cóc ra đây nên không có pháo lớn, hỏa lực bản thân của chúng cũng chỉ có đến cối 106,7 ly là cao nhất, còn lại là ĐKZ và cối 81 ly. Trợ lực cho chúng mạnh nhất là máy bay ném bom T-28 lúc nào cũng sẵn sàng chờ khi máy bay trinh sát L-19 phát hiện ra quân ta. Trong chiến trường Nam Lào, bộ đội ta không có pháo cao xạ nên có thể coi như địch hoàn toàn làm chủ bầu trời.

Sau ba ngày hành quân từ cao nguyên Boloven ra Saravan, bộ đội ta đã chạm địch. Đại đội 5 đã đánh một trận trong điều kiện quân ta không có hầm hố. Mỗi bên tổn thất một ít và địch rút luôn. Hôm sau Đại đội 6 phát hiện địch và nổ súng đánh nhau trong một cánh rừng khộp. Chả bên nào có hầm hố gì, cứ nhằm hướng có tiếng súng đối phương mà bắn. Sau mỗi đợt nổ súng như thế, địch rút thì quân ta cũng rút vì chẳng thể biết phải tiến công theo hướng nào. Sau đấy quân ta lại co về một khu rừng nào đó chia quân ra thành ba cụm vòng tròn, canh gác và cảnh giới cẩn thận. Liền trong hơn tuần như thế, hai bên đánh nhau cứ như đèn cù. Bình nguyên rừng khộp dễ di chuyển qua nên trước mặt, sau lưng và hai bên hướng nào cũng có thể có địch. Trinh sát bám địch vất vả nhất còn bộ binh thì căng ra, lúc nào cũng sẵn sàng tác chiến. Không còn cái gọi là phía trước phía sau nữa nên tiểu đoàn bộ luôn phải bám sát cùng một đại đội bộ binh để cùng chiến đấu. Không có nơi nào ở quá hai ngày nên thông tin hữu tuyến của tiểu đoàn mất tác dụng, chỉ còn liên lạc qua thông tin vô tuyến hoặc liên lạc chạy chân. Công tác hậu cần trở nên rất khó khăn vì cả đạn và gạo cứ vơi dần.

Bây giờ không thể tác chiến theo tiểu đội nữa mà phải theo trung đội. Trung đội trưởng Quân nhận lệnh rồi giao nhiệm vụ trực tiếp cho từng cụm hoặc kéo cả trung đội đi, chẳng phân biệt tiểu đội nào với tiểu đội nào. Có khi đang chốt giữ một hướng, địch vào là nổ súng ầm ầm một lúc cho đến khi địch rút, không cần truy kích. Cây khộp dù to cũng không đủ che chắn thân mình nên quân ta thường hay dựa vào ụ mối. Địch tiến công ta cũng dựa vào ụ mối làm chỗ nấp trong lúc di chuyển. Trong rừng khộp, hỏa lực B-40 và B-41 có tác dụng hơn cả cối cá nhân M79, vì trên mỗi ụ mối thường có nhiều cây lẫn dây leo, không hiếm trường hợp đạn M79 nổ ngay trên lùm cây cao, hắt mảnh xuống ít có tác dụng.

Sáng bây giờ cũng được giao thường xuyên giữ súng B-41. Tháo vẫn phải giữ khẩu B-40 còn lại duy nhất của đại đội. B-40 bắn chỉ được xa nhất 150 mét, tiếng nổ đầu nòng to hơn, Tháo phải căn để bắn ở cự ly gần và phải di chuyển liên tục để tránh địch phản hỏa lực. Mỗi lần đụng địch, Trung đội trưởng Quân thường chú ý bố trí để hai khẩu hỏa lực phối hợp nhau được tốt nhất. Đạn có hạn nên mỗi trận như thế, thường mỗi khẩu cũng chỉ bắn độ hai đến ba trái. Hậu cần tiểu đoàn rất vất vả, không biết họ vận chuyển đạn được bằng cách nào, nhưng cứ ít hôm là đại đội phải cử người đến một vị trí tập kết mới nhận đạn. Đánh bọn Phumi dã ngoại như thế này, mỗi trận chỉ diệt được vài tên, rất hiếm khi lấy được lựu đạn hay đạn M79 của chúng. Buồn nhất là mấy cái ba lô thu được của địch hầu như chả có gì đáng lấy. Chúng nó cũng gặp khó khăn về tiếp tế hậu cần nên cứ đánh loanh quanh một lát rồi rút và biến đi rất nhanh.

Sau chừng một tháng tác chiến, mặc dù vị trí địch, ta vẫn xoay quanh nhau lẫn lộn, nhưng địch cũng bị tổn thất nhiều và chúng đã lui dần về khu trung tâm thị xã, bám quanh khu vực từ sân bay Saravan đến vùng ven bờ tây sông Sê Đôn. Các đại đội của Tiểu đoàn 2 cũng đã có tổn thất. Đại đội 6 mất thêm bảy người trong đó có hai tiểu đội trưởng, cộng với ba người bị thương phải đưa về trạm xá trung đoàn trong cao nguyên Boloven. Các trung đội trưởng phải trực tiếp chỉ huy đến từng chiến sĩ. Số tay súng AK giảm nhưng trung đội nào cũng phải duy trì hai khẩu B-40, B-41 và một khẩu M79. Vẫn phải chuyển vị trí hành quân và bám đánh địch như đèn cù. Một lần Đại đội 5 tổ chức một trận đánh vận động vào một đại đội địch tại một cánh rừng khộp thưa ở khu vực phía tây sân bay Saravan lúc ban chiều đã bị hai chiếc máy bay ném bom T-28 của địch ném chặn bốn quả bom phát quang gây thương vong cho cả một nửa trung đội. Không ghê gớm như ném bom trong cao nguyên Boloven nhưng ở bình nguyên Saravan này không có rừng che chắn và ẩn nấp, dễ gây thiệt hại nên sau đó tiểu đoàn tập trung cho bộ đội đánh địch ban đêm. Có trận đánh được, nhưng có trận khi nổ súng tiến công thì chỉ còn khu đất trống cùng một số công sự, địch đã rút từ lúc chập tối rồi.

Hoạt động của địch bây giờ đã có nhiều điểm mới. Trú quân quanh khu vực các bản Đông Noong, Na Thon, quân ta nhiều đêm thấy trên bầu trời phía sân bay thị xã có những chùm pháo sáng ba quả thả hình tam giác suốt đêm của máy bay C-130. Có vẻ như chúng cảnh giới cho một vị trí đóng quân quan trọng nào đó của bọn dưới đất. Mấy tuần sau, khi chiến sự đã lùi sâu vào khu sân bay, Nhạn cùng anh em trong trung đội đi lùng sục qua một khu đất trống đã phát hiện ra những cái dù hàng bằng vải ca rô xám của địch cuộn tròn vứt lăn lóc bên bờ cỏ. Mỗi cái dù nhấc lên nặng tới cả chục cân. Chả có nhu cầu nên không ai lấy, nhưng Nhạn nói với anh em:

“Hóa ra độ trước chúng mình nhìn thấy máy bay địch thả pháo sáng ban đêm không phải để chúng canh chừng mà là để thả dù hàng tiếp tế cho bọn dưới đất các cậu ạ. Nó sợ thả ban ngày quân ta phát hiện được đánh cho thì lại mất hàng”.

Sáng nghe thế cũng gật đầu tán thưởng ý của tiểu đội trưởng Nhạn:

“Đúng là chúng phải thả dù tiếp tế chứ đánh nhau bao ngày như thế, đạn và gạo đem ra từ trước cũng phải hao mòn chứ. Chúng chỉ có mỗi cách tiếp tế thả dù thôi, tôi nghĩ cảnh này cũng giống như bọn Pháp ở Điện Biên Phủ hồi xưa ấy”.

Về nhà báo cáo lại cho ban chỉ huy đại đội, Chính trị viên Cẩm cũng gật gù:

“Kiểu này thì chả bao lâu nữa chiến dịch này cũng sẽ phải kết thúc thôi. Vừa hao quân, vừa bị thu hẹp địa bàn thì rồi cũng đến lúc chúng không còn chỗ mà thả dù xuống nữa. Cạn kiệt lương thực và đạn dược tất sẽ phải rút chạy hoặc bị đánh cho không còn một mống. Chúng ta cùng cố gắng nhé, sắp bắt được địch rồi”.

Cứ thế mà tán thêm, khí thế bộ đội lên cao lắm. Ai cũng muốn đi nhanh đến trận cuối cùng. Nhưng chiến thắng nào mà không phải trả giá bằng sự hy sinh của bộ đội. Thêm một tháng nữa, Đại đội 6 tham gia đánh hai trận lớn. Trận đánh vào sân bay thị xã, hy sinh và bị thương phải loại ngũ gần hết một trung đội. Nửa chừng có một đợt tân binh Nghệ An vào, Đại đội 6 được bổ sung chín chiến sĩ. Ít ngày sau đánh trận cuối cùng, vây ép bọn tàn quân cùng ban chỉ huy của một trung đoàn địch trong hai ngày, bom giội xuống tơi bời trong cảnh công sự chỉ là hố chiến đấu không nắp, thêm bốn chiến sĩ hy sinh. Những ngày chiến đấu ở Saravan là những ngày liên tục di chuyển tác chiến và mệt mỏi của bộ đội ta để đi đến kết quả cuối cùng là chiếm lại được toàn bộ vùng giải phóng. Rồi nghe tin Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được ký kết ngay trước Tết Quý Sửu. Mừng cho nhân dân miền Bắc nước ta được đón một cái tết hòa bình đầu tiên không còn lo máy bay và bom đạn. Mừng cho các đồng đội ở miền Nam không phải đánh nhau nữa.

Bên chiến trường Nam Lào, có lẽ cũng chuẩn bị cho một điều gì đó tương tự mà chỉ có cấp trên rất cao mới biết, hai Trung đoàn 9 và 19 lại dồn quân tập trung đánh mạnh vào các đơn vị quân Thái Lan và Phumi đang đóng giữ trên đường 23 từ Paksoong đến ngã ba Lào Ngam để chiếm lại tất cả những vùng đất đã bị lấn chiếm. Trong mấy tháng trời Trung đoàn 9 ra Saravan đánh địch nhảy cóc, cao nguyên Boloven bị bỏ ngỏ nên mấy tiểu đoàn quân Thái Lan đã lấn ra đến tận thị trấn Paksoong. Chúng dựng căn cứ có cả rào bao quanh, lập cứ điểm trên mấy quả đồi phía đông, còn các đại đội Phumi rải quân đóng dọc hai bên đường 23. Không thể để mất phần đất lớn như vậy, nên bây giờ quân ta phải đánh để lấy lại. Chiến sự ác liệt kéo dài non một tháng trời, quân ta đuổi được địch trở lại vùng đất cũ gần ngã ba Lào Ngam. Ngày 21 tháng 2 năm 1973 có tin Hiệp định Viên Chăn về đình chiến ở Lào được ký kết. Thế là cũng chung cảnh đình chiến như ở miền Nam, không phải đánh nhau nữa. Sau ngày đó, bộ đội ta rút về phần đất của Pathet làm công tác cắm cờ giữ đất rồi xây dựng hậu cứ để đóng quân lâu dài. Vẫn phải giúp bạn chứ cả cái đất Nam Lào có vài đại đội Pathét độc lập chỉ đủ làm công tác dân vận, cự sao được nếu địch trở mặt.

Cả Trung đoàn 9 rút ra làm hậu cứ ở Saravan, dọc theo các khu rừng bên đường 23 kéo dài từ ngã ba bản Bèng đến ngã ba Tha Teng. Ở cánh rừng sâu trong bản Tùm Nho, Đại đội 6 tổ chức chặt tre nứa làm nhà có hầm thùng, không phải đào thêm một chiếc hầm chữ A nào. Qua bốn tháng trời chiến đấu kể từ ngày bắt đầu ra Saravan, Đại đội 6 bây giờ chỉ còn 25 tay súng bộ binh. Hy sinh mất một trung đội trưởng và bốn tiểu đội trưởng. Không còn đủ quân số để biên chế sắp xếp lại như cũ, bây giờ đơn vị sinh hoạt theo từng trung đội. Ba trung đội làm ba lán, mỗi lán đủ cả dãy sạp nằm cho cả trung đội tám hoặc chín người. Tiểu đội cối 60 ly có bốn người, nhóm quản lý, y tá, anh nuôi có bảy người, ban chỉ huy đại đội cùng liên lạc có sáu người, mỗi bộ phận này làm chung một lán. Đại đội còn cho dựng chung một khu bếp cho anh nuôi và làm một hội trường rộng lớn có ghế ngồi cho cả đại đội rất khang trang.

Vài tháng trôi qua, nghe cấp trên phổ biến, ở miền Nam chiến sự đã trở lại, địch mở chiến dịch “Tràn ngập lãnh thổ” nên bộ đội giải phóng phải tiếp tục đánh địch để giành dân giữ đất. Lại có hy sinh và đổ máu, hòa bình tưởng đã nhìn thấy trong tầm ngắm mà hóa ra không phải. Bây giờ xem ra ở Nam Lào tình hình yên ổn hơn. Suốt mấy tháng trời không còn đạn bom và chiến trận. Sinh hoạt của quân ta lúc này có nhiều vẻ giống như thời huấn luyện ngoài Bắc. Được ăn đủ định lượng bảy lạng gạo một ngày và có đủ muối. Thỉnh thoảng được cấp thịt hộp nhưng chủ yếu là cấp trên phát tiền mua lợn trong dân, quân số còn ít nên mỗi lần cấp lợn là hai đại đội chung nhau. Chỉ có món mắm tôm khô đựng trong những cái giỏ đan bằng tre phết xi măng là có vẻ rủng rỉnh. Riêng món rau xanh không có nên vẫn phải tổ chức đi cải thiện, xin dân hoặc kiếm rau rừng, măng rừng. Ổn định hậu cứ được một thời gian, tiểu đoàn còn cho phép các đơn vị tổ chức săn bắn để cải thiện thêm chất đạm. Nhiều nhất là bắn lợn rừng, có những khi bắn được nhiều phải gọi chia cho các đại đội khác và nấu nướng ăn như liên hoan.

Cuộc sống vật chất đầy đủ nhưng không phải là ngồi chơi. Trước tiên là phải xây dựng hậu cứ như doanh trại. Công binh trung đoàn tổ chức lấy nhíp xe ô tô cũ rèn dao tông phát cho các đại đội rất đầy đủ. Rừng là thiên nhiên, chỉ có bộ đội làm chủ nên muốn chặt bao nhiêu gỗ hay tre nứa tùy thích để làm nhà đẹp và chắc chắn. Cánh xuất thân nông thôn đủ ngành đủ nghề trước khi khoác áo nhà binh thi nhau trổ tài để làm nhà. Đủ các kiểu nhà cột gỗ cột tre, vách đan bằng nứa. Mái nhà là đa dạng nhất. Không phải dùng lá trung quân tốn thời gian mà làm mái lợp bằng cỏ tranh hay lá cọ rừng lấy bên các khe suối. Trung đội 6 có chiến sĩ người dân tộc còn trổ tài làm mái nhà bằng những nửa ống bương úp ngược nhau rồi buộc chặt lại trông rất độc đáo và hoành tráng. Đường đi lối lại trong hậu cứ được phát quang, làm rộng, những chỗ dốc làm thành bậc có lát gỗ hẳn hoi. Đêm đêm vẫn phải tổ chức gác theo trung đội dù chỉ có chưa đến chục người. Chả ai nghĩ đến chuyện có địch hay thám báo, nhưng canh gác vốn là một việc có tính nguyên tắc của quân đội, cần phải rèn luyện cho thành một thói quen bản năng. Mỗi người từng chứng kiến sau này nhớ lại, sẽ thấy rằng đếm thời gian những ngày mình không phải gác trong đời quân ngũ dễ hơn là đếm những đêm phải gác.

Suốt thời gian chiến đấu chẳng bao giờ thấy ngồi học chính trị mà chỉ có phổ biến thời sự và động viên của chính trị viên trước mỗi lần ra quân. Những ngày ấy chiến đấu là chính. Không có thời gian để tụ họp đơn vị cả buổi, cũng chẳng có chỗ để ngồi. Trong thời gian chiến trận, kỵ nhất là tập trung đông người vào một nơi với thời gian lâu lâu, bởi như thế mà bất thình lình bị bom tọa độ hay pháo địch bắn vu vơ trúng phải là có nguy cơ cả đơn vị bị xóa sổ. Bây giờ thì vào hội trường ngồi nghe chính trị nửa ngày cũng chả có vấn đề gì. Không những thế còn về từng trung đội tập trung thảo luận và thu hoạch nhận thức, có khi kéo dài tới hai ba ngày, nhất là gặp những ngày mưa dai dẳng. Mà không phải chỉ học có một lần, có khi vài tháng sau lại học. Cái chủ đề của các bài chính trị lúc đầu nghe lạ, nhưng mãi rồi cũng quen và thuộc lòng. Đó là “Ta thắng lớn địch thua to. Miền Bắc được mùa miền Nam thắng lớn”. Nhưng không phải vì thế mà tưởng ta sắp chiến thắng hoàn toàn đến nơi rồi, sắp kết thúc chiến tranh rồi. Cuối bài học chính trị và nghe những tin tức thời sự đầy lạc quan như thế là lời kêu gọi như một khẩu hiệu của chính trị viên: “Đi lâu, đi sâu, đi đến ngày toàn thắng”.

Không phải học chính trị thì ngoài chuyện gùi cõng và làm những công việc sinh hoạt thường ngày, đơn vị tập trung phát thao trường để học tập. Học về sử dụng các loại vũ khí của địch, ta, học về chiến thuật cấp phân đội nhỏ. Thừa thời gian thì đi làm đường. Con đường 23 chạy từ ngã ba bản Bèng về ngã ba Th