← Quay lại trang sách

6. TÌNH CẢNH KHỐN ĐỐN CỦA NHÂN DÂN

Dưới thời phong kiến, thường dân – Nông, Công, Thương – là đẳng cấp sản xuất trong nước, phải nuôi dưỡng đẳng cấp quí tộc, những ông hoàng, bà chúa, các bực công hầu, ăn sung mặc sướng, tôi tớ đầy dinh thự, và cả đẳng cấp nho sĩ ăn trên ngồi trước, chuyên ngâm thơ vịnh nguyệt, đờn ca, xướng hát, cờ bạc vui chơi… Họ bị khinh khi, bạc đãi, sách nhiễu không ngớt. Gặp vua sáng, tôi hiền thì còn khá, vào những thời hôn quân vô đạo, quan lại tham nhũng thì nỗi cơ cực không biết đến đâu.

Đã vậy mà còn phải đóng góp để cung phụng cho nước Trung hoa rộng lớn dưới hình thức cống sứ, nào người vàng, người bạc, nào những vật trân quí như châu báu, ngà voi, kỳ nam cùng lương thảo hàng năm cả muôn thạch.

Đó là thời bình.

Vào thời loạn, đẳng cấp sản xuất còn phải nuôi thêm mấy trăm ngàn quân lính và chịu chi phí chiến tranh, lại bị quân giặc cướp bóc, hãm hiếp vợ con, lùa trâu bắt người mang đi, đốt nhà cửa, chà đạp hoa mầu.

Những thảm cảnh ấy, nhân dân dưới các triều vua cuối đời Trần đã phải gánh đủ.

Theo chính sử, từ năm Đại trị nguyên niên (I358) trở đi, sau khi Thượng hoàng Minh Tông qua đời, vua Dụ Tông chơi bời trác táng, phung phí công quĩ vào việc đào hồ đắp núi, tổ chức cờ bạc trong cung, đánh một tiếng bạc hàng 300 đồng vàng, tiệc tùng, hát xướng mỗi đêm. Lẽ tất nhiên là nhân dân phải thắt lưng buộc bụng đóng góp thêm cho vua chúa, công hầu, khanh tướng vui chơi cho thỏa thích. Vua quan như vậy nên bọn quan hầu của nhóm quí tộc chiếm cả bãi sông Tô lịch là đất trồng rau của dân để làm của riêng. Quan lại khắp nơi thi nhau tranh giành nguồn lợi kinh tế của đại chúng, gây cảnh đói khổ cho giới cần lao.

Vua quan loạn như thế, nên bọn bất lương nổi lên cướp phá nhân dân, làm cho những người không tự vệ phải khốn đốn khổ sở.

Chánh quyền suy nhược nên tiểu quốc như Chiêm Thành cũng khinh miệt, đem quân xâm lấn bờ cõi, đánh tận Thăng Long cướp bóc ngọc ngà châu báu, gấm vóc, lụa là, đốt sạch cung điện, hãm hiếp, cướp luôn của cải dân chúng, rồi lùa gia súc, bắt người đưa về Đồ Bàn. Mỗi lần như thế thì vua quan đều trốn chui, trốn nhũi, mất hết thể thống, mặc cho dân lãnh hết tai họa.

Trong những tai họa ấy, người dân không khỏi tủi nhục mà nhớ đến công nghiệp hiển hách của các vị anh hùng khởi nghiệp nhà Trần như Hưng Đạo đại vương, Trần quang Khải, Trần quốc Toản, Phạm Ngũ Lão v.v… đã từng hiên ngang đánh đuổi đoàn quân vô địch Mông Cổ…

Nhà vua sợ giặc Chiêm đến nỗi phải mang vàng bạc ngọc ngà, châu báu, chôn giấu ở trên núi Thiên Kiện, tức là núi Kiện Khê, huyện Thanh Liêm. Chánh quyền hèn yếu phải nhờ đến đám tăng nhân là bọn Đại nạn thiền sư đi đánh giặc Chiêm.

Giặc giã lại nổi lên khắp nơi. Tại Thanh Hóa, bọn Nguyễn Thành nắm giữ miền Lương giang. Nguyễn Kị chiếm cứ Nông Cống, quan trọng nhất là bọn Phạm Sư Ôn, một tăng nhân lãnh đạo một số nhà sư, dưới tay có vài vạn người vô lại, nổi lên ở Sơn Tây, đem quân chiếm cả Kinh đô suốt ba ngày rồi rút về Nộn Châu (Quốc Oai). Nghệ Tông thượng hoàng và vua Thuận Tông phải lánh sang Bắc Giang. Sau tướng Hoàng Phụng Thế phải khai lòng sông tiến thuyền đánh úp được giặc, bắt giết Sư Ôn và các tướng của hắn mới trừ xong bọn chúng. Từ đó, nhà chùa mất cả uy tín đối với nhân dân và chính quyền.

Để cung ứng cho sự phung phí của triều đình, cho chiến phí chống quân Chiêm và phí tổn cống lễ cho nhà Minh, chánh quyền phải tăng thu bằng cách đánh thuế nặng nề.

Trước kia, chỉ những ai có điền thổ mới đóng tiền. Khi nào có chiến tranh, thì những người có ruộng, đồng dâu hay đầm cá phải chịu lúa, tiền và vải cho quân lính tiêu dùng. Sau này, vì chiến phí lên cao, kho tàng hết sạch, nên dân phải bị thuế đinh.

Năm Mậu Ngọ (I378) Đỗ Tử Bình xin vua bắt mỗi suất đinh phải đóng thuế mỗi năm ba quan tiền. Đó là một hình thức thuế thân, nghèo giàu đều phải chịu.

Tuy xã hội Việt Nam xưa chia làm bốn thứ bực : Sĩ, nông, công, thương, nhưng nền tảng xã hội cũng như đẳng cấp sản xuất chánh vẫn là nông dân.

Ở một quốc gia nông nghiệp, các hình thức sanh hoạt khác đều tiến bộ hạn chế và thuận chiều với nghề nông. Dân ta làm ruộng theo lối cổ truyền, tùy theo mưa nắng, cày bừa với sức người hay sức gia súc. Sự biến chế nông sản cũng giản dị. Nhu cầu của nông dân rất khiêm nhường. Do đó công nghệ chỉ giới hạn trong các nghề thủ công làm đồ gốm, dệt chiếu, sơn, khắc bản in, và những nghề tỉ mỉ như : khảm xà cừ, thêu thùa, chạm trổ, kim hoàn. Những thợ giỏi lại bị triều đình tuyển dụng ở suốt đời trong cung nội, thêm vào đó, còn tệ trạng « giấu nghề », chỉ truyền cho con cháu, nên nghề nghiệp tiến triển một cách trì trệ. Thợ thuyền phần lớn xuất thân từ nông dân, xem thủ công nghệ là một nghề phụ giữa hai vụ mùa.

Công nghệ đã như vậy, nên thương mãi cũng chỉ là những cuộc đổi chác không quan trọng, quanh quẩn ở trong địa phương, không bành trướng nổi ngoài đà phát triển của nông nghiệp, do đó mà nhu cầu giao thông vận tải cũng yếu ớt.

Tình trạng Kinh tế chi phối nặng nề vấn đề sưu thuế.

Các triều đại Việt Nam thường đặt ra hai hạng thuế : gián thâu và trực thâu.

Công nghệ, thương mãi không đáng kể thì thuế gián thâu không phải là nguồn lợi quan trọng của công quỹ, vì đó, các chánh quyền nối tiếp thường chỉ chú trọng vào thuế trực thâu là đinh và điền vì người và ruộng là những nguồn tài nguyên cụ thể của quốc gia.

Dưới các triều Lý, Trần đến đời Phế Đế, thuế đinh được chiếu theo số ruộng tư hữu của mỗi người mà đánh, chớ không đánh vào « mỗi đầu người ». Những người không điền đất thì phải gánh vác những công dịch trong làng cho những kẻ có tài sản.

Như vậy, những kẻ chịu thuế là những nông dân có điền sản. Nay theo đề nghị của Đỗ Tử Bình, mỗi suất đinh, nhứt loạt phải nộp ba quan, thêm vào đó, mỗi mẫu tư điền phải nộp thêm 3 thăng thóc, tức là từ 7 đến 9 quan.

Trong lúc giặc trong, giặc ngoài bắt người cướp của, giới lãnh đạo mạnh ai nấy chạy, chôn giấu tiền của, thêm nạn mất mùa làm nhân dân đói khổ, kinh tế, thương mãi đình trệ, tương lai quốc gia mù mịt, triều đình lại còn áp dụng chế độ thuế khóa vô trách nhiệm của một ông quan bất tài như Đỗ Tử Bình, cộng thêm những đóng góp bất thường, vừa người, vừa của cho việc tuế cống, chiến tranh, chưa kể sự sách nhiễu của đám tham quan ô lại, cường hào, ác bá, nhân dân cuối đời Trần đã vô cùng bất mãn đối với chánh quyền đã không bảo vệ được dân mà còn gây thêm phiền lụy khổ não.

Đẳng cấp quí tộc ươn hèn đã đành, đẳng cấp nho sĩ, được xem là những bực thức giả, lãnh đạo quần chúng, lại không đóng được trọn vẹn vai trò của họ. Ấy thế mà với những danh vị hảo, ông Nghè, ông Cống, thầy Đồ, thầy Khóa, họ vẫn ảnh hưởng được dân chúng trong việc chống lại những cải cách chưa từng có trong lịch sử đông tây thời bấy giờ của Hồ Quý Ly, gián tiếp gây nạn quốc phá gia vong khi đoàn quân xâm lăng nhà Minh đặt gót lên lãnh thổ Việt Nam…