← Quay lại trang sách

2. MỤC ĐÍCH BIỆN CHÍNH CHO THỦ ĐOẠN

Người ta đã trách Hồ Quí Ly những gì ?

Chuyên quyền, giết hại tôn thất nhà Trần, phế lập vua, soán ngôi.

Trong lịch sử đế chế quốc tế, không thiếu những người như vậy và họ đã lập những triều đại được nhân dân yêu mến, kính trọng.

Tại sao ?

Vì họ có đủ thì giờ và tài ba để lập công với tổ quốc và gây uy tín với nhân dân, và nhân dân quên những thành tích xấu xa của họ để chỉ nhớ những hành động hào hùng hay ích quốc lợi dân của họ.

Không cần tìm kiếm đâu xa, chỉ đơn cử một Trần Thủ Độ, kẻ đã dựng lên Trần triều là đủ thấy rõ.

Năm Giáp Thân (I224) Lý Huệ Tông cho người em họ Hoàng hậu là Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ, một chức quan trọng bực nhứt trong triều.

Huệ Tông ốm đau luôn, lại điên điên dại dại, say rượu suốt ngày, giao cho Thủ Độ trọn việc triều chính. Trần Hoàng hậu không có con trai chỉ sanh được hai người con gái là Thuận Thiên công chúa đã gả cho Trần Liễu, còn người em là Chiêu Thánh công chúa mới lên bảy tuổi. Tháng I0 năm Giáp Thân (I224) nghe lời Thủ Độ, Huệ Tông truyền ngôi cho Chiêu Thánh công chúa rồi vào chùa Chân Giáo.

Chiêu Thánh công chúa lên ngôi năm I225, tức là vua Lý Chiêu Hoàng. Nhưng quyền hành trong tay Thủ Độ. Thủ Độ đã tư thông với Trần Thái Hậu, nên cho Trần Cảnh mới lên 8 tuổi vào cung làm chức Chính thủ. Tháng chạp năm Ất Dậu (I225) Trần Thái Hậu và Thủ Độ đứng ra làm chủ hôn cho Trần Cảnh và Chiêu Hoàng lấy nhau rồi Chiêu Hoàng truyền ngôi cho chồng. Các quan đều công phẫn nhưng chẳng ai dám nói gì. Thế là chấm dứt triều Lý.

Trần Cảnh làm vua, tức là Trần Thái Tông, phong Thủ Độ làm Thái sư Thống quốc hành quân chinh thảo sứ. Thái Tông mới 8 tuổi nên Trần Thủ Độ chỉ huy chính sự.

Thủ Độ tuy thất học, nhưng là kẻ nhiều mưu lược, chủ tâm xây dựng nhà Trần nên không từ bỏ một hành động tàn ác, thương luân bại lý nào cả. Ông chủ trương như nhiều chính trị gia sau này : MỤC-ĐÍCH BIỆN-CHÍNH CHO THỦ ĐOẠN 14 !

Ông bức tử Huệ Tông, lập kế chôn sống tôn thất nhà Lý, rồi ra lệnh cho nhân dân họ Lý phải cải ra họ Nguyễn để dân chúng không còn nhớ đến họ Lý nữa !

Để giữ vững ngai vàng cho họ Trần, ông bất kể luân thường bắt buộc trai gái họ Trần phải cưới gả lẫn nhau.

Chính ông đã bày ra tục « đồng tộc giao hôn » làm chướng tai gai mắt cả nước. 15

Những đế vương, hoàng thân, công chúa, đều lấy vợ chồng trong số những người đồng họ. Khâm Từ hoàng hậu, chánh cung của Trần Nhân Tông (I279-I293) là Trinh công chúa, con gái Hưng Đạo Vương. Hưng Đạo Vương là anh em chú bác với Thánh Tông, cha của Nhân Tông. Trần Anh Tông (I293-I3I4), con Nhân Tông và Khâm Từ hoàng hậu, kén một người cháu Hưng Đạo Vương làm hoàng hậu, tức là cháu gọi mẹ Anh Tông bằng cô. Chính phu nhân của Hưng Đạo Vương là Thiên Thành công chúa là em gái An Sinh Vương Trần Liễu, mà An Sinh Vương lại là thân sinh của Hưng Đạo Vương, Thiên Thành là cô của Hưng Đạo Vương vậy. Con cả Hưng Đạo Vương là Trần Quốc Hiến tức Hưng Võ Vương là rể Trần Thánh Tông, mà vua Thánh Tông là chú của Hiến. Thánh Tông lại là chồng Thanh Thụy công chúa là em họ ngài.

Trên địa hạt loạn luân, Trần Thủ Độ còn đi xa hơn nữa, là giáng Trần thái hậu vợ Lý Huệ Tông xuống làm Thiên cực Công chúa để gả cho chính ông là em họ bà. Chiêu Thánh hoàng hậu lấy Thái Tông I2 năm mà không con – Chiêu Thánh năm ấy mới I9 tuổi ! – Thủ Độ bảo Thái Tông bỏ đi, giáng xuống làm công chúa rồi đem chị của Chiêu Thánh tức là vợ Trần Liễu lên làm hoàng hậu, vì bà này đã có thai ba tháng.

Những hành động nầy gây phẫn uất trong đám triều thần nhà Lý và làm dư luận nhân dân xôn xao. Nhiều cuộc nổi loạn đã nổ bùng nhưng Thủ Độ dẹp yên hoặc dàn xếp đâu vào đó.

Thủ Độ là kẻ đại gian ác đối với nhà Lý, có những hành động thương luân bại lý chưa từng thấy trong lịch sử, nhưng lại là một khai quốc đại công thần của Trần triều. Tuy nhiên, nhờ sự chỉnh đốn mọi việc trong nước của ông mà Việt Nam trở nên cường thịnh, đủ sức chống lại đoàn quân Mông Cổ vô địch thế giới lúc bấy giờ. Thế là đối với quốc gia, ông cũng là bực đại công thần.

Trong một quốc gia mà trình độ chánh trị của nhân dân hãy còn quá thấp kém, dư luận nhân dân chưa đủ sức làm cho bạo quyền kính nể, lực lượng nhân dân nếu thiếu sự lãnh đạo của những cá nhân xuất sắc thì không chế ngự nỗi áp lực của độc tài, chuyên chế. Hơn nữa, nhân tâm còn bị chi phối bởi ảnh hưởng của đẳng cấp nho sĩ, lúc nào cũng là công cụ của một chính quyền vững chải.

Muốn đem tài ba phụng sự đất nước, người dân chỉ có hai ngã đường : thi cử hoặc đoạt chính quyền bằng võ lực.

Thi cử thì phải hoà mình với nền học cử nghiệp khắt khe và vô ích. Đậu xong lại phải khòm lưng leo từng nấc thang, vài ba mươi năm nếu suông sẻ, khôn ngoan, dễ dạy mới nắm được một địa vị then chốt trong guồng máy chính quyền hầu thi thố tài năng. Gặp thời hôn quân, quyền thần tham bạo, thì đành mai một tài danh nếu chưa mất mạng oan uổng !

Những kẻ hiên ngang tài tuấn chỉ còn lại một con đường : lật đổ chế độ thối nát bằng võ lực hay bằng quyền lực, trong khi dư luận cũng như lực lượng nhân dân, tự nó, không thể chủ động việc cứu nước được.

Thủ Độ đã dùng quyền lực cướp ngôi nhà Lý và không chừa một phương tiện tàn ác, vô luân nào cả để củng cố ngôi nhà Trần. Nhưng Thủ Độ thành công vì có tài và có đầy đủ thì giờ chấn chỉnh quốc gia, gây nên hành động kinh thiên động địa làm nhân dân choá mắt, tạo uy tín cho nhà Trần, xoá nhoà cả những nhơ bẩn lúc khai triều, cho đến nỗi người dân kính yêu nhà Trần, kết án Quí Ly gián tiếp giúp quân xâm lăng cướp nước !

Thủ Độ là hiện thân của chủ trương chính trị : MỤC ĐÍCH BIỆN CHÍNH CHO THỦ ĐOẠN mà tất cả các nhà độc tài cổ kim đã và đang áp dụng.

Quí Ly là một nhà trí thức tiến bộ nhứt thời đại, có một bộ óc siêu việt, nhưng thiên thời không có, nhân hoà cũng không. Quí Ly đã chẳng được may mắn như Thủ Độ, và nước Việt Nam cũng chẳng được cái may làm bá chủ Á Đông !

Nhà Trần được ngôi năm Ất Dậu (I225), ba mươi hai năm sau, đến năm Đinh Tỵ (I257) mới phải chạm trán với đoàn quân đã từng chiến thắng từ Á sang Âu, làm bá chủ hai phần ba thế giới, rồi hai mươi bảy năm sau nữa, ngày 27 tháng chạp năm Giáp Thân (I284) mới so gươm lần thứ hai với quân Mông Cổ, do Hưng Đạo Vương cầm binh đánh giàn mặt với quân của Thoát Hoan.

Thủ Độ đã có đầy đủ yếu tố thời gian, Việt Nam cũng đủ thì giờ để sản xuất những chiến lược gia bực thầy như Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão…

Hồ Quí Ly hoạt động trên chính trường 27 năm nhưng lúc nào cũng phải tranh đấu với những lực lượng phản động chung quanh nên không thể áp dụng chương trình bao la vĩ đại của ông đúng mức.

Vừa lên chánh quyền năm Canh Thìn (I400) dẹp an Chiêm Thành, tiếp tục thắng lợi cuộc Nam tiến của dân tộc, thì tháng chạp năm Bính Tuất (I406) đã phải xuất quân chống giặc Minh, trong lúc việc nước còn đa đoan, nhân tâm còn mến tiếc nhà Trần, chưa đủ uy tín hấp dẫn nhân tài cộng tác.

Đối với trường hợp Hồ Quí Ly, đúng là tài bất thắng thời, và ông chưa kịp đạt được mục đích để biện chính cho thủ đoạn , cho nên phải nhận lãnh những dư luận bất công cho đến ngày nay !