3. NHỮNG LÝ DO THÚC ĐẨY VIỆC CƯỚP CHÍNH QUYỀN
Người ta cũng có thể tự hỏi: nếu Hồ Quí Ly không ham làm vua, thì với cái thông minh ấy, tại sao không nghĩ ra giải pháp mà chúa Trịnh áp dụng sau này, giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản!
Ta thử tìm hiểu chuyện ấy trong chương này.
Như đã nhận xét ở trên, chúng ta phải thú nhận rằng người Việt Nam có quá nhiều thành kiến, trong đó, có thành kiến phải làm quan mới là người sang trọng.
Muốn làm quan theo đường lối thông thường thì phải theo cử nghiệp. Do đó, người ta trọng nho sĩ vì những kẻ này đang đi trên con đường có thể xuất chính. Huống chi cấp bằng, nhứt là từ cử nhân trở đi, đã là quan chức của triều đình rồi.
Đây là một vấn đề quan trọng, vì chính những thành kiến sai lầm, chuộng hư danh, nệ cổ, chống duy tân đã làm dân tộc ta suy nhược và bỏ mất những dịp tốt để canh tân, tự cường.
Chúng tôi xin trích đoạn này trong bài « Hiếu Thượng » của Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm 16 :
« Xưa ta học chữ nho, mới vỡ lòng được độ một năm, nghĩa là sau khi học trọn cuốn Tam Tự Kinh, khoảng bảy, tám tuổi, đã được trau dồi vào trí não cái tư tưởng trọng sĩ mà khinh rẽ mọi nghề khác, bằng những câu thơ ngụ ngôn này: « Mãn triều Chu, tử quí: Tận thị độc thư nhân » nghĩa là: hết thảy những người quan sang mặc phẩm phục màu son, màu tía đứng đầy trong triều đều là những người « đọc sách » cả. Và: « Bách ban giai hạ phẩm, Duy hữu độc thư cao » nghĩa là: hàng trăm tầng lớp khác đều là đồ thấp kém cả, chỉ có hạng người « đọc sách » là cao hơn.
« Ta nên hiểu rằng hạng « đọc sách » đây là tức là chỉ về hạng sĩ, một hạng đã được xã hội ta xưa liệt đứng hàng đầu trong « tứ dân ».
« Ăn phải cái tư tưởng ấy từ bé, người mình đổ xô cả vào một đường hiếu thượng, đi học, thi đỗ, làm quan rồi… tự mãn, tự túc, tự cao, tự đại! »
« Hiếu thượng ấy phải chăng đã đưa nước ta đến bước « văn nhược », rồi kết quả đi chung một đường lầm lạc như nước Chi-na, đến nỗi chác lấy câu phê bình này của người ngoại quốc:
« Độc Mạnh Tử phú cường chi thư nhi vị thường bất thái ư kim nhật chi Chi-na dã! Câu ấy có nghĩa là: đọc MẠNH TỬ là sách chú trọng về thuật phú cường, thế mà không khỏi thở dài cho nước Chi-na ngày nay!
« Này, mở đầu cuốn Mạnh Tử, ta thấy nhà hiền giả Mạnh Kha nói ngay đến thuật phú cường, khuyên người ta phải chú trọng đến thuật nông tang, đừng làm lỗi mùa làm ruộng, đừng làm lỡ lứa sinh nở của loài gà mái, chó cái, lợn sề, khiến cho trong nước ai ai cũng được no cơm ấm áo. Đó là những phương thuật cốt yếu cần phải thực hành nếu muốn dân giàu, nước mạnh.
« Nhưng vì sao học lầm và hiểu sai, nên ta cũng như Tàu chỉ đua nhau theo đuổi mạt học là từ chương khoa cử, quên hẳn cái học căn bản có thể đưa quốc gia đến chốn vũ đài hùng cường ; vì thế mới bị người ngoài phê bình như vậy. »
Đến cụ Phó bảng Bùi Kỷ, giáo sư Hán học trường Đại học Đông Dương, một bực đại khoa của cửa Khổng sân Trình cũng phải nói 17 :
« Ta không trách bọn học mới là bọn chỉ cốt lấy văn bằng, hơn hai ba trăm năm về trước đây, phần nhiều phái nho học cũng như thế cả.
« Vậy cái suy là suy từ cũ rồi đến bây giờ mới suy. Lỗi là ở cái cũ nó truyền nhiễm sang, chứ không phải cái mới có lỗi.
« Tinh thần Hán học của ta đã mất từ lâu… Cái tập quán ấy truyền từ đời nọ sang đời kia cho đến ngày nay…
« Chưa có phong trào Âu học tràn sang đây, mình đã dở rồi còn nói gì ngày nay.
« Cái học thuở xưa thoạt kỳ thuỷ không vụ hư danh, nhưng về sau cái ý nghĩa của sự học đã sai lạc đi dần dần.
« Ngày xưa, ông Đào Duy Từ (I572-I634), một bực túc nho nạn nhân của thành kiến « xướng ca vô loại », không được đi thi chỉ vì mình là con nhà phường chèo, cũng đã kích học cái hư văn. Ông phân biệt « nho quân tử » và « nho tiểu nhân » như sau:
« Nho quân tử là người trên hiểu thiên văn, dưới tường địa lý, giữa thấu việc đời, biết đạo ngũ luân, biết cách cứu dân giúp nước, hòng lập công danh trong một thời, lưu sự nghiệp về muôn thở, khiến cho tiếng tăm sau này lừng lẫy như là Y Doãn nhà Thương, Thái Công nhà Chu, Võ Hầu nhà Hán.
« Còn nho tiểu nhân thì chỉ biết học như vẹt, tìm từng chương, dò từng câu, mua danh, mua lợi, khoe khoang câu văn ngòi bút, hóm hỉnh cái giọng cười giăng cợt gió, không còn biết ý chí thánh hiền, đạo nghĩa vua tôi. Nếu có được xuất chính thì chỉ mưu xoay cho no vợ ấm con, không quản gì mọt dân hại nước. Lại may ra có quyền hành trong tay, được lo tính việc nước, mà nếu gặp việc khó khăn thì chỉ biết ngồi mà thở dài, lo nghĩ viễn vong, trí lực lờ mờ, ngây như tượng gỗ, chẳng khác gì bọn An Bạc, Vương Diễn đời nhà Tần, Tần Cối, Giả Tự Đạo ở đời nhà Tống… »
Những bậc danh nho chính nhân quân tử thời xưa cũng như nhiều nhà thâm nho ngày nay đều nhìn nhận có sự chuộng hư danh trong đẳng cấp nho sĩ của ta.
Đẳng cấp nho sĩ vốn là công cụ của chánh quyền, nên chánh quyền cũng đặc biệt ưu đãi họ, nào miễn sưu thuế, tự do giáo dục đến cấp bậc đại học, cử nhân đã được ban áo mão và bổ nhiệm làm quan ngay, ông Nghè, ông Thám, Bảng nhãn, Trạng nguyên thì cờ biển vinh qui: « Võng anh đi trước, võng nàng theo sau ».
Cuộc vinh qui bái tổ được chánh quyền cho tổ chức với tính cách quảng cáo rầm rộ, có lính mặc sắc phục tiền hô hậu ủng, trống khua, nhạc trổi. Dọc đường, từ tỉnh nọ tới tỉnh kia, từ làng này sang làng khác, lại được các hàng văn thân gồm những nho sĩ chưa đỗ đại khoa, chưa làm quan, sắp hàng với cờ lọng nghinh tiếp, rước vào văn miếu ăn uống nhậu nhẹt để nghe quan Thám, quan Bảng nhãn, quan Trạng nguyên ban « huấn từ ».
Các vị tân khoa trẻ còn được « hoa cù hồng phấn nữ, tranh khán lục y lang » 18 , có khi còn được một bực khuê các cành vàng lá ngọc nào đó « gieo cầu »! Thật là vinh hiển tổ tông!
Các ông Ngô Tất Tố trong LỀU CHÕNG, Chu Thiên trong BÚT NGHIÊN, NHÀ NHO, diễn tả rất đầy đủ cái thời vàng son ấy của các bực đại khoa.
Rồi thì làm quan, mà quan là cha mẹ dân, có quyền sinh sát trực tiếp hay gián tiếp. « Một người làm quan, cả họ được nhờ ».
Vì vậy mà một khi hoàn cảnh cho phép, mọi người đều « dùi mài kinh sử » vì « thư trung hữu nữ nhan như ngọc » 19 lại có cả giàu sang, quyền thế, bảng vàng, bia đá để tiếng nghìn năm!
Tâm trạng kính quan, trọng bằng ấy cho đến thời này chỉ mới phai lợt nhờ công kỹ nghệ, thương mãi phát triển.
Vì vậy, ngay cả những nhà cách mạng chân chính, quyết tâm xả thân phục vụ quê hương dân tộc cũng phải cày cục kiếm mảnh bằng trước khi hoạt động. Cụ Phan Bội Châu đâu có muốn làm quan huyện, quan đốc, vẫn phải lều chỏng đi thi cố đoạt cho được cái Giải nguyên: cụ Phan Châu Trinh cũng là một quan Nghè ; các cụ nghè Ngô Đức Kế, nghè Huỳnh Thúc Kháng kiếm chân đại khoa để lấy uy tín hầu hoạt động cách mạng mới hiệu quả.
Các nhà cách mạng Tây học chống Pháp thời thuộc địa, được nhân dân chú ý nhiều nhất như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm đều xuất thân từ những trường đại học Pháp với những văn bằng khá to đối với thời ấy: cử nhân luật khoa, cử nhân văn chương…
Khi nho học tàn tạ, « ông nghè ông cống cũng nằm co » thì bằng cấp Tây lại có giá. Có được cái « đíp-lôm », cái « brờ-vê », là làm được thầy ký thầy thông cũng danh giá chán, rồi có thâm niên ba năm được thi tham tá, thâm niên sáu năm được thi huyện. Đậu là tương lai rực rỡ ngay. Có tú tài, cử nhân là làm « ông », thạc sĩ, tiến sĩ là danh vang toàn quốc tha hồ ăn trên ngồi trước. Thạc sĩ Phạm Duy Khiêm, thạc sĩ Hoàng Xuân Hãn, thạc sĩ Ngụy Như Kontum… nghè Nguyễn Mạnh Tường, nghè Trần Văn Giáp, nghè Nguyễn Văn Huyên… học vấn uyên thâm thế nào, người bình dân chỉ biết lờ mờ, nhưng ai nghe tên cũng kính trọng.
Người ta mê bằng cấp đến nỗi các cô gái Hà Nội bảo nhau « phi cao đẳng bất thành phu phụ », có nghĩa rằng nếu thanh niên mà không lọt nỗi vào một trường cao đẳng hay phân khoa đại học nào, thì dầu hiền đức đến đâu, hiểu biết rộng rãi hơn cả ông Thạc, ông Nghè, cũng đừng mong rớ đến cái móng chân của các cô!
Tinh thần chuộng bằng cấp, thích làm quan của dân ta hiện đã bớt đi nhiều vì các điều kiện kinh tế đang đổi khác nhưng cũng vẫn còn. Tú, cử, cao học ngày nay đã khá đông, nên giá trị trước mắt người dân cũng mất độ năm chục phần trăm, thạc sĩ, tiến sĩ, kỹ sư đều đi làm mướn, dầu « làm việc nhà nước », và chỉ trông vào số lương thì không đủ sống! Do đó, không còn vấn đề « phi cao đẳng » nữa. Làm quan to thì cũng còn được thèm thuồng lắm. Vì vậy mà thời cách mạng thì ta có « quan cách mạng » khá hống hách ; thời dân chủ thì ta có « quan dân cử » cũng oai vệ lắm! Đa số dân biểu, nghị sĩ trước khi nghĩ mình là người đại diện dân, phải lo bảo vệ quyền lợi dân, thì lại nghĩ mình ngang hàng với thứ trưởng, bộ trưởng theo nghi lễ, và muốn được mọi người đối xử với mình như vậy!
Điểm qua tâm lý ấy, thì ta thấy rằng ở cuối thế kỷ I4, một người muốn đem tài năng mình thay đổi cả vận mạng quốc gia dân tộc thì phải tham gia chính quyền.
Là một nhà trí thức thượng thặng, Quí Ly lại không xuất thân từ chân khoa mục, mà mở đầu hoạn lộ vào tháng năm năm Tân Hợi (I37I) với chức Chỉ hậu chánh trưởng, một chức quan trong nội điện dưới đời Nghệ Tông, lúc ông vua này lên ngôi độ một năm, vì Quí Ly cũng là hoàng thân quốc thích, anh em cô cậu với Nghệ Tông. Tuy nhiên, sử liệu không đầy đủ để chứng minh rành rẽ gốc tích của ông.
Ngay quyển NAM ÔNG MỘNG LỤC của Lê Trừng, tức Hồ Nguyên Trừng, con cả của Hồ Quí Ly cũng không nói rõ.
Hồ Nguyên Trừng nguyên là tả tướng quốc đời Hồ. Khi quân Minh diệt xong nhà Hồ, thì Nguyên Trừng bị bọn Lý Bảo bắt được ở cửa biển Kỳ La, đưa về Kim Lăng vào năm Hưng Khánh (I407). Ông soạn sách NAM ÔNG MỘNG LỤC vào năm Chánh Thống thứ ba (I438) khi làm chức tả thị lang ở bộ Công bên Trung Quốc, và xuất bản ở Trung Hoa. Đó là một quyển sách chứa đựng những sử liệu quí báu, nhất là về triều Hồ, nhưng về Hồ Quí Ly cũng chỉ chép rằng bà tổ của Hồ Quí Ly là con Nguyên Thánh Huấn, một nhà văn học tên tuổi đời Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Tháng chạp năm Bảo Phủ thứ hai (I274) Nguyên Thánh Huấn và Nguyễn Sĩ Cố làm nội thị học sĩ, đọc sách với Thái Tử Khâm, tức vua Nhân Tông, do thiếu sư Lê Phụ Trần làm giáo thụ. Nguyên Thánh Huấn sau làm đến chức Trung thư thị lang, nổi tiếng văn thơ, được người đời tặng biệt danh là Nam Phương thi tổ. Quí Ly có hai người cô lấy vua Minh Tông là con quan thái y Phạm Công Bân. Căn cứ vào sách NAM ÔNG MỘNG LỤC của Hồ Nguyên Trừng thì Hồ Quí Ly sanh ra từ một gia đình quyền quí.
Xuất thân là một viên quan hầu trong cung điện dưới đời Nghệ Tông, nhưng chất chứa trong đầu một chương trình tế thế an bang sáng chói nhứt thế kỷ, lẽ tất nhiên Hồ Quí Ly phải cố gắng trèo lên các bực thang danh vọng để có đủ quyền hành thực hiện mộng ước, thể theo tâm lý quần chúng Việt Nam, và cũng vì không còn con đường nào khác hơn nữa.
Và có lẽ Nghệ Tông cũng đã nhìn thấy ở Quí Ly một chân tài thực học, nên hết sức tin dùng nể trọng. Hồ Quí Ly đã đem hết tâm trí phục vụ đất nước suốt 27 năm hoạt động chánh trị, thực hiện được những cải cách sâu rộng có thể đưa nước Việt Nam đến một tương lai rực rỡ.
Tuy nhiên, đẳng cấp quí tộc và đẳng cấp nho sĩ, – vì quyền lợi riêng tư của đám tôn thất bị đụng chạm, vì óc công thần và thiển cận, các ông quan to không muốn thấy vua bị lấn quyền, cấu kết nhau toan nhiều lần sát hại Quí Ly.
Một nhà cách mạng tự tin tài ba của mình, bao giờ cũng phải bảo vệ sinh mạng để phục vụ lý tưởng và quê hương. Vì vậy mà họ Hồ phải dùng thế lực trong tay sát hại đối lập mà ông xem là một bọn lạc hậu phản động, bất tài vô tướng, những chướng ngại vật cản trở cuộc cách mạng mà ông tin sẽ đem thịnh vượng, tiến bộ và hạnh phúc cho giống nòi.
Đã leo lên lưng cọp, ông không còn xuống được nữa. Đã thẳng tay đàn áp phe quí tộc và đám công thần nhà Trần, ông không còn có thể « giữ chùa thờ Phật » để kiếm lợi riêng tư, và ông cần quyền hành tối đa, cần sự độc tôn mới có thể tự do hoạt động đúng theo chí hướng của mình được.
Thế là ông lật đổ nhà Trần và lên ngôi vua vào đúng tháng hai năm Canh Thìn (I400).
Chính thành kiến nhân dân đã thúc đẩy Hồ Quí Ly kiếm quyền hành và vì các lực lượng phản động ngăn trở, âm mưu phá hoại mà ông phải dọn sạch con đường để đi đến một cuộc cách mạng toàn diện xứ sở.