4. HAI LỰC LƯỢNG PHẢN ĐỘNG
Chàng về Hồ Hán… – Như chúng ta đã biết, đẳng cấp nho sĩ là đẳng cấp có thế lực quan trọng nhứt ở thời phong kiến, mà cũng là một đẳng cấp bảo thủ, không muốn có những cuộc thay đổi lớn lao có thể làm lung lay nền móng xã hội. Khốn thay, họ lại có uy tín đối với nhân dân và ảnh hưởng của họ trong nhân dân cũng rất lớn lao.
Khi một triều đại đã vững vàng và đẳng cấp họ đã chiếm được nhiều quyền lợi thì họ trở thành bức tường bảo vệ triều đại và không muốn thấy một triệu chứng nào làm rung rinh địa vị của những người thuộc giòng chính thống, dẫu những kẻ đó thuộc hạng hôn quân dâm ác, bất tài.
Đại diện của họ là đám quan lại có nhiều ưu quyền và những người khoa bảng trong chánh quyền hay ngoài chánh quyền – khắp nước.
Chúng tôi xin đơn cử một thí dụ điển hình.
Theo VIỆT NAM PHONG SỬ của Nguyễn Văn Mại 20 bản sao của trường Viễn Đông Bác Cổ, số AB 320, tờ 5Ia và 5Ib, thì :
« Dưới đời Trần Thuận Tông vào năm I397, Hồ Quí Ly ý muốn soán ngôi, nên cho xây kinh đô mới ở Thanh Hóa. Trong số các đốc công coi việc xây thành, có một cống sinh. Vợ cống sinh bảo chồng : « Người ta ở đời, phải trọng cương thường, nên rõ phải trái, huống chi chàng là cống sinh của triều Trần, chớ có phải cống sinh của nhà Hồ đâu ? Nay lại khuất thân theo Hồ, ham phú quí một thời, sao bằng đem lòng thề với cố quốc, mà để lại tiếng thơm nghìn thu ? » Sau Hồ Quí Ly biết, lấy làm căm giận, nhân việc đắp thành mãi không xong, mới sai đem cống sinh ấn vào chỗ thành lỡ ấy, rồi đắp lên trên. Người vợ ngày ngày ra đấy, dập đầu vào đấy, lấy hai tay vỗ mạnh vào đá, kêu khóc mãi rồi chết. Chỗ đá ấy lõm xuống : cái dấu vết đầu và hai tay đến bây giờ hãy còn.
« Vì vậy có câu ca dao truyền đến ngày nay :
Chàng về Hồ, thiếp cũng về Hồ :
Chàng về Hồ Hán, thiếp về Hồ Tây.
« Hồ Tây là cố đô nhà Trần, cho nên câu ấy có ý nói : dù chàng có theo Hồ Hán Thương, thiếp vẫn theo nhà Trần. »
Câu chuyện này không giải thích được một cách hoàn toàn thỏa mãn câu ca dao trên, vì có một điểm ngờ : năm I397, lúc Quí Ly cho xây thành Tây Đô, thì mới tháng giêng năm Đinh Sửu, dưới đời Thuận Tông. Đến tháng mười năm ấy mới thiên đô. Năm sau Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử Ấn và đến tháng hai năm canh thìn (I400) Quí Ly mới lên ngôi, như vậy làm gì có « Hồ Hán » lúc xây kinh đô mới ?
Tuy nhiên câu ca dao kia và huyền thoại nọ thật sự được truyền khẩu trong nhân dân – chẳng biết từ đời nào. Xét về văn chương câu ca dao và tinh thần huyền thoại – mặc dầu thuộc loại văn chương bình dân – thì tuyệt hay. Điều đó chứng minh xuất xứ của chúng có lẽ từ đẳng cấp nho sĩ.
Xét qua đại ý câu chuyện, ta nhận thấy rằng phe nho sĩ đã mở một cuộc tuyên truyền trong dân chúng phá hoại công cuộc xây thành của họ Hồ, và có thể có những sự phá hoại tương tự trong tất cả những cải cách khác của Quí Ly lúc bấy giờ.
Để đối phó với phản động, Hồ Quí Ly phải dùng những biện pháp mạnh, thẳng tay đàn áp. Tuy nhiên, cuộc tuyên truyền ngấm ngầm chống Quí Ly bằng ca dao, bằng huyền thoại truyền khẩu vẫn lan rộng trong dân gian, gây ra một cuộc chống đối tiêu cực và trở thành tích cực một khi quân xâm lăng tràn sang giày đạp quê hương, và vì vậy mà xảy ra nạn mất nước !
Hội thề Đốn Sơn . – Cuộc mưu sát Hồ Quí Ly được tổ chức tỉ mỉ vào ngày Hội thề Đốn Sơn do sự cấu kết giữa phe quí tộc, và các sĩ phu công thần triều Trần.
Theo tục lệ nhà Lý, hàng năm các quan văn võ đem đủ quân hầu, gia nhân đến thề trước thần vị của thần Đồng Cổ.
Nguồn gốc hội thề ấy xuất phát từ đời vua Lý Thái Tông.
Năm I028 21 , Lý Thái Tổ mất, Thái Tông nối ngôi. Đêm ấy thần Đồng Cổ báo mộng cho vua rằng : « ba tước vương Vũ Đức, Đông Trinh và Dực Thánh sắp làm loạn, nên mau điều khiển binh lính phòng bị trước để khỏi lo sau ». Sáng hôm sau, quả như lời trong mộng. Lý Thái Tông lấy làm kinh dị, phong làm thiên hạ minh chủ thần, gia phong tước đại vương.
Thái Tông ban chiếu cho các quan lập miếu ở sau chùa Thánh Thọ, bên hữu thành Đại La. Đến ngày 25 tháng 3 ta năm ấy (I028), lập đàn treo cờ, bắt quân lính đủ cả khí giới sắp thành hàng ngũ nghiêm chỉnh ở trước thần vị rồi đọc lời thề rằng : « vi tử bất hiếu, vi thần bất trung, thần minh cức chi », nghĩa là « làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh giết chết ». Các quan, từ cửa đông đi vào, qua thần vị uống tiết sống. Từ đó, mỗi năm một kỳ uống máu ăn thề, lập làm lệ thường. Ai trốn thề bị phạt 50 trượng, sau vì tháng ba có húy vua Thái Tổ, nên hoãn đến ngày mồng bốn tháng tư.
Đời Trần bắt chước lối thề của nhà Lý 22 , ngày hôm ấy, vua ngụ tại điện Đại Minh, các quan đem đủ quân hầu, đầy tớ đến đền để thề rằng : « vi thần tận trung, vi quan thanh bạch, hữu thần thủ minh, thần minh cức chi », nghĩa là « làm tôi hết lòng trung, làm quan thanh bạch, ai trái lời thề ấy, thần minh giết chết ». Nhân dân đến xem, cho là thịnh sự (việc hay). Đến triều Lê, lấy ngày mậu tháng giêng, thề ở bên sông, còn đền Đồng Cổ thì sai quan đến tế. 23
Quí Ly lên ngôi, cũng theo tục lệ ấy.
Nguyên vụ Quí Ly cho hạ sát Thượng Hoàng Thuận Tông, dư luận sĩ phu trong nước, ngay nhiều người theo Hồ Quí Lý cũng vô cùng xúc động.
Một số trung thần triều Trần họp mật mưu trừ Quí Ly, dưới sự lãnh đạo của Thái bảo Trần Nguyên Hãng và Thượng tướng Trần Khát Chân. Họ dự định thực hiện vào ngày hội thề ở Đốn Sơn 24 , thuộc làng Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, vì kinh đô đã dời vào Thanh Hóa.
Đàn thề được tổ chức với đầy đủ nghi vệ thiên tử. Quí Ly lên lầu nhà Thượng tướng Trần Khát Chân để chứng kiến hội thề. Hai thích-khách là Phạm Tổ Du và Phạm Ngưu Tất mang kiếm lên theo, Khát Chân trừng mắt, hai người không dám sấn tới. Thoáng thấy tình hình, Quí Ly sanh nghi, đứng lên đòi vệ sĩ đưa xuống lầu.
Ngưu Tất hoảng hốt, quăng kiếm xuống đất nói to : « việc hỏng mất rồi, cả lũ đến chết uổng mạng ».
Ngay sau đó, Quí Ly ra lịnh bắt tất cả 370 người trong đó có các nhân vật quan trọng như : Thái bảo Trần Nguyên Hãng, Trụ quốc Trần Nhật Đôn, Thượng tướng Vũ Tiết hầu Trần Khát Chân, Thánh dực tướng quân Phạm Khả Vĩnh, Thượng thư Hà Đức Lân, Hành khiển Lương Nguyên Bưu, Bảng nhản Lê Hiến Phủ và bọn Phạm Ông Thiên, Phạm Tổ Du, Phạm Ngưu Tất…
Cuộc khủng bố lan tràn khắp nơi, kéo dài cả năm, đến nỗi dân chúng đi đường gặp người quen cũng chỉ lấy mắt nhìn nhau, không dám nói chuyện.
Những lực lượng phản động trong nước từ đó tạm yên, Quí Ly rảnh tay lo đối ngoại và tiếp tục thực hiện chương trình cách mạng quốc gia.