← Quay lại trang sách

2. CẢI CÁCH HÀNH CHÁNH

Như chúng ta đã biết, xã hội triều Trần từ đời Dụ Tông, đã suy sụp, các cơ cấu chính quyền trị đã mục nát có thể đổ vỡ nếu xảy ra một biến cố trọng đại.

Nhìn thấy những tệ trạng ấy, nên làm quan được vài năm, có được một ít quyền hành, với chức Khu mật đại sứ, Hồ Quí Ly bắt tay ngay vào việc cải tổ nền hành chánh trong nước.

Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp, nên hạ tầng cơ sở là xã thôn đóng một vai trò quan trọng.

Từ đời Thái Tông, Trần Thủ Độ đã tổ chức mỗi làng thành một tiểu quốc, có một qui chế tự trị.

Đại để, xã thôn của ta ngày xưa chia làm hai hạng : nội tịch gồm những chức sắc hào mục, địa chủ ; ngoại tịch gồm những người bần cùng và những người ngụ cư. Hạng nội tịch còn chia ra bậc tùy theo chức tước, tài sản, thứ vị trong hương ẩm và hợp thành một đoàn gọi là tư văn hay quan viên , được miễn những công tác nặng nhọc trong làng. Còn những dân đinh từ I8 tuổi đến 49 tuổi, không có tiền bỏ ra mua chức tước, thường bị liệt vào hạng bạch đinh , phải gánh vác các việc nặng nhọc trong thôn xóm.

Cơ quan quản trị của xã thôn được chọn trong hàng nội tịch lập thành một Hội đồng kỳ mục gồm hai ban, ban kỳ mục và ban chức dịch.

Ban kỳ mục có địa vị cao trong lệ hương ẩm. Ban chức dịch gồm những viên chức thừa hành mạng lệnh của hội đồng kỳ mục do xã chánh hay xã giám, có phó xã phụ tá (tức lý trưởng, và phó lý trưởng ngày nay). Trừ những việc quan hệ đến cả làng phải có hội đồng kỳ mục quyết định, các việc thường hành phải do lý trưởng định đoạt và sai phái.

Mỗi làng đều có đủ các cơ quan để bảo vệ an ninh và điều hành các sinh hoạt : canh phòng trộm cướp, cấp công điền công thổ, trù định và quản trị công quỹ của làng, sửa chữa đình chùa, đường xá, tổ chức việc tế lễ, phân xử các việc tạp tụng, giữ gìn phong tục, đặt ra các khoán lệ để trừng phạt những người phạm đến quyền lợi chung của làng hoặc của cá nhân, lập ra hương ước để qui định tất cả tục lệ của làng cho mọi người biết mà tuân theo. Phạm vi sinh hoạt riêng của từng xã thôn thì « phép vua thua lệ làng » vì xã thôn là một đơn vị chánh trị tự trị.

Tuy nhiên, đối với quốc gia, xã thôn phải tuân theo pháp luật của triều đình, gánh vác những nghĩa vụ chung như thâu thuế và nộp thuế, cung cấp binh lính và công dịch.

Nhờ những tổ chức quy củ như vậy, mà tháng chạp năm Giáp Thân (I248), Thượng hoàng Trần Thánh Tông triệu tập được Hội Nghị Diên Hồng. Tuy nhiên, Hội nghị nầy chỉ có tính cách tác động tâm lý quần chúng chớ không phải là một cuộc trưng cầu dân ý thực sự, nhưng trên thực tế, hội nghị cũng đại diện được cho toàn quốc.

Từ Trần Thủ Độ đến các ông vua đầu triều, nhứt là Thái Tông và Nhân Tông, nhà Trần đã thực thi một chính sách nhân dân, gần với chế độ dân chủ ngày nay.

Do đó, khi đức Hưng đạo Vương lâm trọng bệnh, vua Trần Anh Tông đến hỏi thăm mưu chước giữ nước một khi quân tàu sang xâm lấn. Trong những lời đáp của ngài, có câu đáng cho hậu thế chú ý : « …nới rộng sức dân để làm cái chước sâu gốc, vững nền : đó là phương sách cốt nhất để giữ nước. » 27

Tuy nhiên, từ đời Dụ Tông, cả nước bị bại hoại từ thượng tầng cơ sở là triều đình trở xuống, nên xã thôn cũng chịu ảnh hưởng sanh ra nhiều điều tồi tệ.

Sau khi đi kinh lý Nghệ An năm I374, Quí Ly nhận thấy việc xã thôn, tự trị với nhiều uy quyền mà lại lâm vào cảnh tồi tệ là một nguy hại cho quốc gia, nên ông cải cách bộ máy chánh quyền ở hạ tầng cơ sở bằng cách bỏ các ty xã, đặt chức quản giáp cũ để thay thế, cho việc cai trị bớt bị tản quyền và tránh cho nhân dân những phiền phức vì phải chịu quá nhiều luật lệ. Tháng 8 năm sau, ông dâng sớ xin nhà vua ra chiếu bắt các lộ làm sổ trướng tịch.

Nguyên trong triều Trần, các quan trong triều gồm có Tam thái (thái sư, thái úy, thái bảo), Tam thiếu, lại thêm Tam tư (tư mã, tư đồ, tư không) làm văn võ đại thần, chức Tể tướng giữ việc bảo cử các quan thì thêm Tả hữu tướng quốc để phụ tá. Dưới văn ban thì có lục bộ Thượng thư đứng đầu 6 bộ, Tả hữu bộc xạ là chức Á tướng, Gián nghị đại phu, lục bộ lang trung, trung thứ lang trung là hàng quan cao cấp. Về Ngự sử đài để kiểm soát và đàn hạch bá quan thì có các chức Thị ngự sử, Giám sát ngự sử, Chú thư thị ngự sử, Ngự sử trung tán, Ngự sử đại phu. Lại các viện như Khu mật viện để tham nghị triều chánh, Hàn lâm viện để soạn thảo các chiếu thư, Quốc sử viện để soạn sử ký, Quốc tử giám viện để xem xét việc giáo dục. Thái y viện để trông nom việc thuốc thang trong cung.

Các hàng quan ngoại chức thì có An phủ, Tri phủ, Thông phán, Kiểm phán, Tào vân lệnh cùng Chánh, phó sứ hộ đê và đồn điền tại các bộ.

Tháng tư năm Đinh sửu (Quang Thái thứ mười, I379) triều Thuận Tông, Quí Ly đổi các bộ ra trấn :

- Thanh Hóa đổi ra Thanh đô trấn.

- Quốc Oai đổi ra Quang oai trấn.

- Đà Giang lộ đổi ra Thiên Quan trấn.

- Diễn châu lộ đổi ra Vọng giang trấn.

- Lạng sơn phủ đổi ra Lạng sơn trấn.

- Tân bình phủ đổi ra Tân bình trấn.

Cai trị các trấn vẫn là các An phủ chánh phó sứ. Phủ đặt chánh phó trấn phủ sứ. Châu đặt Thông phán, Thiên phán ; huyện đặt Lệnh úy, Chủ bạ. Trấn coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Trấn nào cũng phải đặt sổ sách về việc đinh, điền, tiền, thóc, kiện tụng.

Cuối năm phải đệ trình về kinh xét lại.

Tháng ba năm Canh thìn (Kiến Tân thứ ba, I400), đời Thiếu Đế (lúc này họ Hồ đã lên ngôi), Quí Ly đặt chức Liêm phòng sứ ở mỗi trấn để bí mật kiểm soát hành vi của các quan lại và quan sát dân tình.

Vì cần phải dẹp đám quí tộc là một lực lượng có thế lực nhứt nước mà lại phản động đối với chánh sách mới của mình, gây quá nhiều bất công bất bình trong nhân dân, và đám quan lại cũng cùng một bản chất, Quí Ly phải soán ngôi để thống nhất quyền hành hầu thực hiện hoài bão lớn lao của mình. Ông cũng biết rằng lật đổ nhà Trần, loại bỏ con cháu của những vị đại anh hùng cứu quốc đã từng có công trạng hiển hách đối với dân tộc, ông đã gieo sư công phẫn trong lòng nhân dân, vì nhân dân chịu ảnh hưởng quá nặng nề của đẳng cấp nho sĩ, một đẳng cấp có nhiều quyền lợi dưới một triều đại kéo dài quá lâu. Hiểu như vậy, ông phải đưa ra một tổ chức mới để vua kiểm soát quan lại, như thanh tra hành chánh và chánh trị, vừa làm tai mắt cho mình hầu đối phó với những phản ứng bất lợi cho địa vị lẫn chương trình cải cách quốc gia. Như vậy, tổ chức ấy còn có tính cách của một sở mật vụ, một chương trình tình báo chánh trị, quân sự cần thiết cho bất cứ quốc gia nào, độc tài hay dân chủ, để bảo vệ chế độ và cả đất nước.

Sử không ghi lại một chi tiết nào về cơ quan « Liêm phòng » của triều Hồ, chỉ nói sơ lược về mục đích của tổ chức ấy là : « bí mật kiểm soát hành vi của các quan lại và quan sát dân tình thôi ».

Tuy nhiên, dầu có ác cảm với họ Hồ, các sử thần và sử gia trước kia cũng chẳng hề chép rằng dưới triều Hồ tham nhũng đã lộng hành, hoặc quan lại và cường hào ác bá đã hiếp đáp, xem nhân dân như cỏ rác như trong đời các ông vua cuối triều Trần. Điều đó chứng tỏ phần nào sự hiệu quả của tổ chức « mật vụ » mới mẻ của nhà Hồ.

Hơn nữa, suốt 8 năm ngồi ở ngôi vua và Thái Thượng Hoàng của Quí Ly, đối lập chỉ phản tuyên truyền trong vòng bí mật chớ không tạo nổi một cuộc chống báng công khai bằng võ lực hay dưới một hình thức nào khác.

Trước năm Bính Tí (I369), do đề nghị của Vương Như Chu ; Quí Ly cho chỉnh đốn lại phẩm phục của các quan :

Về áo :

Nhất phẩm mặc áo tím.

Nhị phẩm mặc áo đỏ tươi.

Tam phẩm mặc áo hồng.

Tứ phẩm mặc áo lục.

Ngũ, Lục, Thất phẩm mặc áo sắc biếc.

Bát, Cửu phẩm mặc áo sắc xanh.

Về mũ :

Các quan văn từ lục phẩm trở lên đội mũ Cao Sơn.

Võ từ lục phẩm trở lên đội mũ Triết sung.

Tôn thất đội mũ Phương trang đen.

Chức cao mà không tước phong đội mũ Giốc đĩnh.

Thất phẩm đội mũ Thái cổ.

Tòng thất phẩm đội mũ Tân hoa.

Vương hầu đội mũ Viên du.

Ngự sử đài đội mũ Khước phi.

Trước đời Tiền Lê ; nghĩa là từ nhà Đinh trở đi ; sử không chép rõ việc định áo mũ các quan văn võ triều đình.

Đến đời Lê Hoàn (980-I005) là ông vua có qui mô lập quốc đầu tiên của nước ta, thì ông Nguyễn đình Tuân, người làm bộ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ CẢI LƯƠNG viết : « Sau khi đã lên ngôi : (Lê Hoàn) định ra luật lệnh ; kén chọn thần quân ; đúc tiền thiên phúc (vào tháng 2 năm Giáp thân tức 984) mà lợi quyền tài hóa được lưu thông ; minh cày tịch điền, mà phép tắc khuyến nông được đầy đủ ; đặt chức tổng quản coi việc quân dân, là trị đạo rõ ràng, sai tướng súy đi tuần chốn biên thùy, là phòng biên được cẩn thận ; đào tân cảng mà đường thủy được thuận tiện ; mở châu Địa lý (Quảng Bình) mà đường bộ được thong dong ; kén người khỏe mạnh để bổ sung vào đội ngũ, chế MŨ ĐÂU MÂU để cho sáu quan thế là việc binh có pháp ; biếu phương vật mà Nhược Tuyết sang phong ; cự trái lễ mà Chế Cai sang chầu ; thế là giỏi việc giao lân ; qui mô lập quốc, có thể gọi là hoàn bị ». 28

Sử cũng không nói rõ việc định áo mão.

Đến đời Long Đỉnh (lên ngội năm Ất tỵ – I005) ; mới thấy sử chép : Lê Long Đỉnh sửa đổi quan chế văn võ ; tăng đạo ; và triều phục ; hết thảy theo của nhà Tống, thì mũ có 3 hạng : Một là mũ tiên hiền ; là phẩm phục của nhất nhị phẩm ; – Hai là mũ điêu thuyền, là phẩm phục của chức quan tam phẩm ở các ty, tam phẩm ở ngự sử đài và chức ngũ phẩm ở hai sảnh ; – Ba là mũ giãi sại là phẩm phục từ tứ phẩm đến lục phẩm. Còn phục sắc thì từ công khanh trở lên mặc màu tía, ngũ phẩm trở lên mặc màu lục, cửu phẩm trở lên mặc áo màu xanh ». 29

Trước Quý Ly, phẩm phục không có thứ tự lắm ; việc cải cách nầy đối với Quí Ly chỉ là chuyện nhỏ ; nhưng nó làm cho triều đình trang nghiêm hơn, rực rỡ hơn, có uy tín hơn. Điều đó còn chứng tỏ Quí Ly không phải chỉ lưu tâm đến việc lớn mà không để ý đến các chi tiết nhỏ nhặt.