← Quay lại trang sách

3. CẢI CÁCH QUÂN SỰ

Về địa thế, Việt Nam đứng sát một cường quốc khổng lồ có nền văn minh cao tột lúc bấy giờ, lại không có thế lực quốc tế nào khác chi phối, với kiến thức của Quí Ly, ông biết rằng chẳng sớm thì muộn, Việt Nam cũng sẽ bị Trung Hoa xâm lược.

Sở dĩ họ chưa gây hấn là vì Chu Nguyên Chương, tức Minh Thái tổ vừa dẹp xong nhà Nguyên, thống nhất Trung Quốc vào năm Mậu Thân (I368). Về phía Nam ; nước Chiêm Thành đang ở vào thời kỳ hùng mạnh hơn bao giờ hết, thường đem quân sang quấy phá bờ cõi.

Triều đình lại hèn yếu, từng lớp lãnh đạo từ vua, hoàng thân quốc thích và trăm quan, gần hết chỉ lo quyền lợi riêng tư, không ai lo nghĩ đến tiền đồ dân tộc.

Trong tình trạng ấy chống đỡ với Chiêm Thành đã vất vả lắm rồi ; nếu nhà Minh rảnh tay mang quân sang, thì mất nước là chuyện không còn ngờ vực gì được nữa.

Vì vậy, bước vào quan trường được 2 năm, đến tháng 8 năm Quí Sửu (Long Khánh nguyên niên – I374), Quí Ly đã lo cải cách quân sự, đóng chiến thuyền và tuyển mộ trai tráng chia làm 3 hạng sung quân. Để tránh ẩn lậu, tức là tránh bất công trong vấn đề quân dịch, Quí Ly cho làm sổ hộ tịch ghi tên dân chúng từ 2 tuổi trở lên. Số người có thể động viên (từ I5 đến 60 tuổi) tăng lên gấp mấy lần hơn lúc trước.

Đây là một dịch vụ vừa kiểm tra dân số, vừa để kiểm điểm tráng đinh có thể nhập ngũ khi cần.

Một dịch vụ mới mẻ như vậy chắc chắn không được dân chúng hoan nghinh, cho rằng mình bị phiền nhiễu vì phải khai báo lôi thôi. Ngoài ra, tráng đinh và gia đình họ cũng lo ngại vì viễn ảnh phải tòng quân đánh giặc gian lao nguy hiểm. Tuy nhiên, đó là việc cần thiết cho bất cứ một quốc gia nào về mặt hành chánh và quân sự. Suy như vậy, ta đủ thấy rằng những biện pháp tân tiến vượt thời gian của Hồ Quí Ly chẳng những không được nhân dân tán thành mà còn làm cho họ thêm mất cảm tình với ông nữa.

Tháng 8 năm sau (I375) đặt thêm quân hiệu. Trước kia quân túc vệ chia ra làm 4 Thiên, 4 Thánh, 4 Thần ; nay đặt thêm các quân Uy Tiện, Bảo Tiệp ; Long Dực, Thần Dực, Điện Hậu, phân biệt bằng các màu sắc trên trán như sau :

Quân Túc vệ trán vẽ đen, quân mới tuyển trán nhuộm tím. Thanh hoá, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá đặt quân hiệu riêng.

Tháng giêng năm Mậu Ngọ (Xương phù thứ hai – I378), những người khoẻ mạnh, am hiểu võ nghệ được lựa làm Vệ sĩ giám đốc việc quân. Trần Ngoạn được cử làm quản quân Thiên đình ? Bùi Hấp quản quân Thần dực, Bùi Bá Ngang quản quân Thần sách, Nguyễn Kim Ngao quản quân Thần vũ, Trần Trung Hiếu quản quân Bảo tiệp, Trần Bang quản quân Long tiệp, Lê Mật Ôn quản quân Hoa ngạch, Đỗ Khả Gia quản quân Thị vệ, Nguyễn Tiểu Luật quản quân Thiên trường, Nguyễn Bát Sách quản quân Thiết sang, Nguyễn Văn Nghi quản quân Thiết giáp, Nguyễn Hộ Lễ quản quân Thiết liêm, Nguyễn Khánh Dư quản quân Thiết hộ, Trần Quốc Hưng quản quân Ô đồ.

Quí Ly lại đặt thêm chức Đô đốc, Đô hộ, Đô thông, Tổng quản, Thái thú bên cạnh các An phủ chánh phó sứ các lộ, các phủ. Lúc ấy, con trai Hồ Quí Ly là phó tướng Hồ Hán Thương lãnh chức Đông đô Đô hộ phủ, Thái bảo Trần Nguyên Hãng lãnh Bắc giang Đô thống phủ, Hành khiển Hà dực Lân kiêm thái thú Tân an phủ.

Dưới đời Hồ Hán Thương, Nam Bắc phân làm I2 vệ. Đông Tây phân làm 8 vệ. Mỗi đội có I8 người. Đại quân có 30 đội. Trung quân có 20 đội. Mỗi doanh có I5 đội. Mỗi đoàn có I0 đội. Còn những cấm vệ thì chỉ có 5 đội do một đại tướng thống lãnh. Tổng số quân thời ấy có chừng I0 vạn.

Về thuỷ quân, để đề phòng các ngả sông và các cửa biển, Quí Ly hạ lịnh cho các địa phương đóng cọc gỗ để chận đường tiến của giặc và thi hành một cải cách mới mẻ và quan trọng là CHO SỬA LẠI CÁC CHIẾN THUYỀN THEO LỐI MỚI, GỌI LÀ THUYỀN CỔ LÂU, thứ thuyền lớn đóng bằng sắt, ở trên có sàn đi, ở dưới cứ hai người chèo cho chống một dầm, rất tiện việc chiến đấu (I405-I406).

Quí Ly đặt bốn kho quân khí tức là xưởng công binh, tuyển thợ để chế tạo khí giới.

Một trong những thứ khí giới thuộc chương trình cải cách quân sự của Hồ Quí Ly là THẦN CƠ HOẢ SANG 30 mà ông Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm nghĩ rằng đó là loại súng HỎA MAI, do chính con cả của Hồ Quí Ly là Hồ Nguyên Trừng chế tạo dưới triều Hồ (I400-I407).

Đây là một phát kiến mới mẻ nhất thời bấy giờ.

Cuối thế kỷ I4 đầu thế kỷ I5, trong các cuộc chiến tranh trên thế giới, khí giới cá nhân của quân sĩ là gươm giáo. Nếu họ Hồ giữ ngôi được vài ba mươi năm nữa thôi để có thì giờ chỉnh đốn mọi việc trong nước, hoàn thiện và chế tạo được thật nhiều súng THẦN CƠ HOẢ SANG với đạn dược đầy đủ, thì quân đội Việt Nam đã hùng mạnh nhất Á đông. Ngoài ra, với tư tưởng và chánh sách tiến bộ của Hồ Quí Ly, khi triều đại đã vững vàng, sẽ nảy sanh những thế hệ mới đầy dẫy nhân tài.

Một thí dụ điển hình là nếu Trần Thủ Độ không cướp ngôi nhà Lý cho họ Trần, thì chưa chắc Việt Nam đã có những chiến lược gia thượng thặng, những đại tướng sáng chói như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư v.v… Huống chi các con của Quí Ly như Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương đều là những bực nhân tài xuất chúng, có thể cùng cha xây dựng một nước Việt hùng cường nếu trình độ giác ngộ chính trị của các từng lớp nhân dân không quá thấp kém.

Hồ Quí Ly là người thấy xa, hiểu rộng, biết rằng không sớm thì muộn nhà Minh cũng mang quân xâm lược nên nỗ lực về quân sự để đương đầu với một cuộc chiến tranh không thể tránh. Khi được toàn quyền hành động (I400) Quí Ly càng ráo riết cải tổ quân đội để kịp chống ngoại xâm. Ông thường than với quần thần : « Làm thế nào có nổi trăm vạn quân để chống với giặc Bắc ? », chứng tỏ ông nhận định thời cuộc rất đúng.

Cuộc cải cách quân sự của Quí Ly cũng đã mang lại những kết quả trông thấy qua các cuộc đụng độ với quân Chàm do ông vua anh hùng Chế Bồng Nga chỉ huy.

Quân Chiêm đã bao lần vào tận Thăng Long như chỗ không người, tha hồ cướp phá, đốt sạch cung điện, thế mà năm Canh Thân, khi họ kéo quân khuấy rối mấy tỉnh đàng trong, Quí Ly thống lãnh thuỷ quân đã đại thắng được họ ở Ngu Giang, Chế Bồng Nga phải bỏ chạy. Năm Canh Ngọ (I390), Chế Bồng Nga rầm rộ đưa hàng trăm chiến thuyền sang xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, đã bị Trần Khát Chân dùng súng cộng đồng, tập trung hoả lực bắn xả vào soái thuyền, làm Chế Bồng Nga trúng đạn bỏ mạng, trên giòng Hoàng giang. Quân Chiêm từ đó mất hết nhuệ khí, không còn dám khinh thường dân quân Việt như trước nữa.

Người xưa thường nói : « Chớ nên đem thành bại mà luận anh hùng », rất đúng với trường hợp Hồ Quí Ly.

Ngô Quyền thắng quân Nam Hán, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt phạt Tống, Hưng đạo Vương bình Nguyên, đó là những bậc đại anh hùng, những cá nhân xuất sắc, dụng binh như thần. Nhưng tướng giỏi mà không binh hùng thì tướng cũng vô dụng. Tướng giỏi, binh hùng mà nhân dân không ủng hộ hết lòng cũng khó mà lập nên công trận.

Sau Hai Bà Trưng dựng cờ độc lập, Ngô Quyền mới thực sự là người dựng nước. Vốn là bậc anh hùng, « mặt mũi khôi ngô, mắt như điện (chớp), dáng đi khoan thai như hổ ; có trí dũng, sức có thể nhắc vạc tay không » 31 , Ngô Quyền khởi binh vào tháng I2 năm Mậu tuất (938), có đầy đủ chánh nghĩa, cho nên khi Kiều Công Tiễn cầu cứu với quân Nam Hán cõng rắn cắn gà nhà, ông giết được Công Tiễn làm nhân dân đều hài lòng.

Công Tiễn chết, Hoằng Tháo không Việt gian làm nội ứng, lại đụng phải tay kiệt hiệt nên chỉ một trận Bạch đằng bị bắt rồi bị giết chết. Nhờ dân quân một lòng mà Ngô Quyền làm nên đế nghiệp.

Lê Hoàn là Thập đạo tướng quân Điện tiền chỉ huy sứ của Đinh Tiên Hoàng, một tướng lãnh hiên ngang được triều thần khâm phục. Năm Canh thìn (980) quân Tống sang xâm lấn, Lê Hoàn được các quan ủng hộ lên ngôi, vì vua là Đinh Toàn còn quá nhỏ không đủ sức đứng ra chủ trương kháng địch.

Lúc bấy giờ, Đinh Tiên Hoàng vừa bị hành thích (979) sau I2 năm ở ngôi, quân đội đã được tập luyện kỹ càng, lại gồm toàn quân sĩ thiện chiến sau những cuộc đánh dẹp các sứ quân.

Giặc đã ở trước mặt, trong nước lại không có những lực lượng phản động, nên nhân dân chỉ sợ giặc, đồng lòng giúp Lê Hoàn đánh Tống. Một điều đáng chú ý là thời ấy, giới nho sĩ chưa có, vì mãi đến năm Đinh vị (I007) Lê Long Đĩnh con Lê Hoàn, mới sai em là Minh Xương cùng với Chưởng thư ký là Hoàng Thành Nhã đem bạch tê biếu nhà Tống, rồi xin 9 kinh : Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân thu, Hiếu Kinh, Luận ngữ, Mạnh tử và Chu lễ, thêm kinh Đại tạng của nhà Phật (chữ Phạn là Tripitaka) 32 . Từ đó mới tổ chức việc học. Vì vậy mà nhân dân chưa có thành kiến quá gắt gao với việc Lê Hoàn soán ngôi nhà Đinh.

Đánh luôn mấy trận, Lê Hoàn thắng lớn, bắt được cả tướng giặc. Thế là ông được nhân dân nhiệt liệt hoan nghinh. Dẹp xong quân Tống ông đánh luôn Chiêm Thành (982), bắt hàng trăm cung nữ thu nhặt vàng bạc châu ngọc, san phẳng thành trì rồi trở về kinh đô tức Hoa Lư. 33

Khi làm vua, Lê Hoàn tỏ ra là một đấng minh quân, một nhà cai trị giỏi, một nhà ngoại giao cương nhu đầy đủ, tánh khí lại cang cường, đánh cả sứ Tàu 34 , nên cả triều Tống đều phải kiêng nể. Được một ông vua như vậy, tất nhiên dân ta phải hãnh diện.

Nhờ những kinh nghiệm chánh trị, kinh tế, ngoại giao của các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, nhà Lý đã tổ chức quốc gia thật qui củ, bành trướng Phật giáo và Khổng học, làm cho quốc gia thật hùng cường. Các vua Lý Thái Tổ (I0I0-I028), Lý Thái Tông (I028-I054), Lý Thánh Tông (I054-I072) đều là những bậc anh quân, mở mang bờ cõi về phương nam, nước nhà rất thịnh đạt. Lý Nhân Tông (I072-II27) lên ngôi lại là một ông vua rất hoạt động, văn trị, võ công đều hiển hách.

Nhận thấy Tống triều với đại chánh trị gia Vương An Thạch đang lo tiến quân sang đánh Việt Nam, Lý Nhân Tông ra tay trước sai Lý Thường Kiệt đem quân Bắc phạt.

Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem binh hơn I0 vạn tiến theo 3 đường sang đánh Trung Quốc. Ngày I0 tháng chạp (I8-I-I076) đại quân Việt Nam bao vây thành Ung châu, giết Tống quân khoảng 8000 35 , chém đầu Đô giám Trương Thủ Tiết, vào thành giết khoảng 58000 người. 36

Bình luận việc này, sử thần Ngô thì Sỉ viết : « Ôi ! Ra trận đường hoàng, ngọn cờ chính đáng, I0 vạn quân hoành hành đi sâu vào nơi đất khách, phá dân chúng 3 châu như bẻ củi khô, ở trong cõi thì không ai dám đấu mũi nhọn, đem quân về cũng chẳng có bọn nào theo sau : dụng binh như thế, chẳng phải là việc ít có của nước ta ư ? Cho nên tôi bảo trận đánh Ung Liêm nầy là vụ công thứ nhứt từ xưa đến nay (ĐẠI VIỆT SỬ KÝ BẢN KỶ, quyển 3, tờ a-b) ».

Một vị Đại tướng oanh liệt như vậy, mà khi Quách Quỳ kéo quân sang (Tống quân khởi hành từ tháng 2 năm Bính Thìn-I076), họp với quân Chiêm Thành và Chân Lạp chia đường đánh vào nước ta, Lý Thường Kiệt phải dùng tâm lý chiến khích lệ tinh thần dân quân, cho người lén vào đền Trường-hát bên sông thét ra 4 câu thơ danh tiếng mà mọi người chúng ta đều biết, khởi đầu bằng « Nam quốc sơn hà Nam đế cư… ». Như vậy, danh tướng Lý Thường Kiệt vẫn phải chú trọng đến lòng dân, lòng quân, nhờ vậy mà chận được quân ba nước, giữ vững nền độc lập.

Đến đời Trần, ngay từ lúc mở triều, Trần-Thủ-Độ dầu tàn ác đối với họ Lý, lại tỏ ra trọng dân, thực thi những biện pháp có tính cách dân chủ từ hạ tầng đến thượng tầng cơ sở. Các ông vua đầu triều cũng là những đấng minh quân, anh hùng xuất chúng, chịu ảnh hưởng nhiều của Phật giáo nên luôn luôn tỏ ra tôn trọng ý dân.

Những cải cách của Trần Thủ Độ và của các ông vua đầu triều đã nâng cao mức sống của nhân dân, nâng cao dân trí, giúp họ có một trình độ giác ngộ quyền lợi quốc gia cao độ, sẵn sàng và hăng hái cộng tác với chánh quyền và quân đội trong việc chống xâm lăng. Nhờ đó mà các chiến lược gia, các tướng lãnh thượng thặng mới chiến thắng được đoàn quân tàn bạo, vô địch thế giới lúc bấy giờ.

Ta thử đọc đoạn này trong quyển « L’Empire Mongol et Tamerlan » (Đế quốc Mông cổ và Tamerlan) của Michalt Prawdin mới biết rằng chánh sách thân dân của Trần Thủ Độ rất cần thiết cho sự thành công của các nhà lãnh đạo quân sự thời ấy :

« Thế kỷ XIII, Thiết Mộc Chân (Témudjin) đã áp dụng trong nước chế độ cưỡng bách tòng quân. Đàn ông từ I5 đến 70 tuổi đều chỉ học có nghề chiến tranh. Việc gia đình nội trợ được giao toàn quyền cho phụ nữ.

« Mộc Chân thiết lập bộ tham mưu, dựng trường quân sự, tổ chức các hệ thống thông tin để cho các đạo quân dù ở cách xa mấy ngàn cây số cũng liên lạc với nhau một cách mật thiết và nhanh chóng.

« Không ai ngờ với đạo quân kỵ 200.000 người, Mộc Chân đã vượt Vạn Lý Trường Thành. Mộc Chân đã huấn luyện bộ đội, cách hãm và phá thành… Bộ đội ấy đã luyện tập và trang bị đầy đủ để qua những sa mạc mênh mông, vượt qua những núi cao có đến 7.000 thước. Thời bấy giờ không có một đoàn quân nào có thể đương đầu với quân Mông Cổ. Với chiến thuật cao siêu, mưu lược bao vây và đánh quân địch nhanh chóng, quân Mông Cổ, dưới quyền chỉ huy của Đại tướng Tốc-Bất-Thái (Soubotai) đã đánh tan đạo quân Hồi giáo mạnh mẽ và cứ thế mà tràn sang tận Nga-La-Tư (Russie). Lá quốc kỳ của họ (màu trắng có hình chim ưng và bên cạnh có đính chín cái đuôi trâu) đã bay từ Á sang Âu, tàn sát sinh mạng và phá hủy thành trì không biết bao nhiêu mà kể. Quân Mông Cổ đi đến đâu là gieo khủng khiếp đến đấy. »

Vào thế kỷ I3, đế quốc Mông Cổ chiếm một diện tích từ Á sang Âu bằng phân nửa thế giới !

Thế mà đoàn quân rùng rợn, dã man, mạnh như vũ bão ấy phải chạy dài, trước sức đoàn kết dân quân của nước Việt Nam nhỏ bé, đến nỗi tướng Toa Đô bị vua Nhân Tông bêu đầu răn chúng, Ô mã Nhi bị bắt rồi bị dìm xuống biển, Thái tử Thoát Hoan phải chun vào ống đồng chạy bán sống, bán chết, để lại 50 vạn quân Thanh cho quân Nam làm cỏ.

Trong LỊCH SỬ TIÊU ÁN, sử thần Ngô Thời Sĩ bàn rằng : « Mỗi lần có tin báo quân Nguyên sang cướp thì tất là vua thân hành ra ngoài trông coi quân, khi ở trên bộ, khi ở thủy, không đóng nhất định ở đâu, đó không phải là nhát, là vì vua ở bên ngoài thì dễ hiệu triệu, cổ lệ lòng hăng hái của chư tướng, thì tiện việc xin mệnh lệnh, tam quân thì vui lòng xông pha. Đinh tráng đều là binh của nước. Của nhà giàu là của nước. Có cơ hội nào thì cổ động xông vào trước, gặp tình thế không may thì tùy tiện mà chống giữ. Khi tiến quân thì nhanh như chớp nhoáng, khi lui thì như rồng rắn ẩn thân ; giặc không biết đâu mà lường được. Nếu chỉ nấp giữ ở trong thành, thì địch coi đó là sào huyệt, chúng sẽ chận đường không cho vận lương đến và giữ viện binh không vào được, đến nỗi lương hết, lực cùng, chả nguy lắm sao ! Có tin giặc đến là vua lập tức đi ra ngoài, đó là kỳ kế… »

Vua, tướng nhà Trần triệt để tin tưởng ở nhân dân, và nhân dân cũng hết sức ủng hộ chánh quyền và quân đội. Cả nước đồng tâm nhứt trí như vậy cho nên Hưng Đạo Vương mới lập được kỳ công, chiến thắng vẻ vang đoàn quân hùng mạnh nhứt hoàn cầu thuở ấy !

Chính Hưng Đạo Vương cũng nhìn nhận như vậy, nên khi già nua bịnh hoạn, Nhân Tông đến thăm và hỏi đại kế của quốc gia, vương tâu rằng :

« Ngày trước Vũ Vương nước Việt xây dựng cơ đồ, bị Vũ Đế nhà Hán kéo sang xâm lấn, Vũ Vương phải hạ lệnh cho dân đốt bỏ hết ruộng vườn, không để chút gì làm lương thực cho quân địch, đoạn liền kéo quân thẳng đến Trường Sa, để chận phía sau quân địch ; kế sách đó có thể dùng trong khoảng nhất thời.

« Đến đời Đinh, Lê, nhân tài nước ta đã nhiều, trên dưới đồng tâm, trăm họ phấn khởi, mà thế lực Trung Hoa suy yếu, nên mới đắp nên bình lỗ ở đất Thái Nguyên để phá quân Tống ; đó lại là một thời khác hẳn. Sang tới triều Lý, quân Tống sang phạm nước ta, vua sai ông Lý Thường Kiệt đồn quân ở Mã Lĩnh, đánh giữ châu Khâm, châu Liêm, quân hùng tướng mạnh ; đó là một thế có thể tấn công.

« Dần dà đến triều nhà Trần ta đây, quân Nguyên rầm rộ, 4 mặt bao vây, may mà vua tôi cùng lòng cùng dạ, anh em trên thuận dưới hòa, ai nấy đều hết sức chống quân thù, vì thế cho nên mới thu được thành công rực rỡ. Đại để, quân giặc sở thị ở trận dài, ta đây lại dùng trận ngắn, đem ngắn chống dài, cái phép dùng binh vẫn thường như thế.

« Thảng hoặc đại quân của giặc tới nơi, như vũ như bão, dường ấy ta càng dễ xoay. Nhưng nếu chúng lại giữ mức tầm ăn rỗi, cứ tiến dần dần, không tham lam cũng không cướp bóc, như thế mới khó cho ta. Vậy ta chỉ nên kén chọn lấy tay lương tướng, dò xem tình thế mà liệu bề quyền biến, khác nào như thuật đánh cờ, phải tùy cơ ứng biến. Dùng binh cần phải dụng tâm, sao cho như thể cha con trong một nhà, như thế mới có thể đứng ra chiến đấu với người. Tóm lại, trong lúc bình thời ta phải khoan hồng, DÈ DẶT SỨC DÂN, đặt vững cái nền tảng sâu chặt của ta, như thế mới là thượng sách phòng giữ nước nhà… »

Nhờ quan niệm về dân, quân như vậy mà Hưng Đạo Vương làm nên sự nghiệp vĩ đại, để danh lại ngàn sau. Tên tuổi vương vang lừng các lân bang, cả Nguyên sử cũng chép : « dù mang hận chiến bại, nhưng người Nguyên cũng kiêng tên húy của ngài, chỉ gọi ngài là Hưng Đạo Vương. »

Theo báo KIẾN QUỐC số I, ngày II tháng I0 năm I949, thì dân Trung Hoa ở Quảng tây từ trước tới giờ thường hay dọa trẻ quấy khóc bằng bốn tiếng « Hính-tàu-Tài-wòng », tức Hưng Đạo Đại vương 37 . Nhiều khi họ còn viết bốn chữ ấy vào giấy đỏ dán ở đầu giường trẻ em nằm để trấn át cho trẻ khỏi khóc đêm nữa.

Hồ Quí Ly không là một Đại tướng kỳ tài như Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, mà là một chánh trị gia thật tiến bộ, cực thông minh, hiểu biết rộng rãi mênh mông, tổ chức mọi việc với những phương pháp mới mẻ, có thể áp dụng hiệu quả bất cứ ở địa hạt nào.

Nhờ những cải tổ quân sự mà Hồ Quí Ly đã áp đảo được Chiêm Thành đang hồi cực thịnh, và năm I402, dưới triều Hồ Hán Thương, đã chiếm châu Amaravati (tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi ngày nay) của Chàm, tiếp tục cuộc Nam tiến của dân tộc.

Nếu ông được nhân dân ủng hộ như các vị anh hùng nêu trên để vượt qua cuộc thử thách do quân Minh đưa đến, thì sự nghiệp của ông nhứt định còn vững vàng hơn các triều trước nhiều.