← Quay lại trang sách

6. CẢI CÁCH VĂN HÓA GIÁO DỤC

Hồ Quí Ly là một nhà cách mạng trên mọi lãnh vực.

Các nhà khảo sử tiến bộ đều nhìn nhận những cải cách kinh tế, tài chánh và văn hóa của Hồ Quí Ly đều xuất chúng từ xưa đến lúc ấy.

Riêng về địa hạt văn hóa giáo dục, tinh thần cách mạng của Hồ Quí Ly càng tỏ ra nổi bật.

Từ thời Lê Ngọa Triều xin được chín Kinh (I007) của nhà Tống để làm căn bản tổ chức việc giáo dục, bốn thế kỷ sau, giới nho sĩ đã trở thành một đẳng cấp gián tiếp lãnh đạo cả quốc gia.

Ngay từ Lý sang Trần, Nho giáo và tư tưởng của các bậc hiền giả Trung Nguyên được sĩ phu ta kính cẩn tôn thờ và gây được một ảnh hưởng sâu xa qua các từng lớp nhân dân.

Chữ nho giữ một địa vị tối thượng trong văn học và các giấy tờ hành chánh.

Chúng tôi dẫn sơ lược nơi đây một ít bằng chứng cho ta thấy suốt I00 năm Pháp thuộc, chúng ta ngày nay không sử dụng Pháp ngữ I cách thông thạo như tiền nhân chúng ta đã sử dụng chữ Hán! Những thí dụ này rất thông thường vì có ghi gần hết trong sách sử của ta ;

Năm Thiên Phúc thứ tám (988) đời Lê Đại Hành, có sứ nhà Tống là Lý Giác sang Việt Nam.

Khi sứ Tống đến chùa Sách Giang du ngoạn, vua mật sai sư Đỗ Pháp Thuận (9I4-990) giả làm người lái đò. Trong lúc ngồi thuyền cho sư Thuận chèo, Lý Giác thấy 2 con vịt trời bơi lội dưới nước, ứng khẩu đọc 2 câu thơ:

Nga nga lưỡng nga nga

Ngưỡng diện hướng thiên nha

Sư Thuận đọc tiếp:

Bạch mao phô lục thủy

Hồng trạo bãi thanh ba

Tạm dịch:

Chim nga đôi chim nga

Hướng về chân trời xa

Lông trắng phô nước lục

Chèo hồng sóng biếc pha

Sứ Tàu rất phục, khi về đến sứ quán, thảo I bài thơ gởi tặng sư Thuận. Trong bữa tiệc tiễn sứ, vua truyền Khuông Việt đại sư làm I bài từ tiễn Lý Giác.

Trong sách « Kiến văn tiểu lục », mục Truyền dật ký , Lê Quí Đôn bình về hai sự việc trên rằng: « …câu thơ sư Thuận, sứ Tống khen hay, bài từ Khuông Việt, nổi tiếng I thời! »

Đặc biệt hơn các nước Âu Châu, các danh tướng Việt Nam chẳng những dụng binh như thần, tung hoành nơi mặt trận, chém đầu cả các đại tướng « thiên quốc » đã từng làm mưa làm gió từ Á sang Âu, lại xuất khẩu thành chương, đầy thi hứng, hơi thơ lại mạnh như vũ bão.

Trước khi ra trận sống mái một phen với quân Tống. Lý Thường Kiệt cho người giả làm thần nhân ngâm to bốn câu thơ Tàu do ông sáng tác để làm phấn khởi lòng quân sĩ:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như Hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Tạm dịch:

Sơn hà Nam quốc vua quan ở,

Ý trời định trước trong thiên thư.

Tại sao ngu ngốc sang xâm phạm,

Há chẳng am tường lẽ bại hư?

Đức Hưng Đạo vương soạn sách « Binh thư yếu lược » bằng Hán Văn, ban hịch tướng sĩ lời lẽ thật hùng hồn, cũng bằng Hán văn.

Đánh bạt Thái Tử Thoát Hoan của Mông Cổ xong, thượng tướng Trần Quang Khải dẫn binh nhập thành Thăng Long. Giữa tiệc liên hoan tưng bừng, ông hừng chí ngâm:

Đoạt sáo Chương Dương độ

Cầm Hồ Hàm tử quan

Thái bình tu nỗ lực

Vạn cổ thử giang san.

Bản dịch Trần trọng Kim:

Chương dương cướp giáo giặc

Hàm tử bắt quân thù

Thái bình nên gắng sức

Non nước ấy nghìn thu.

Ta thử so sánh với bài Biệt Ngu Cơ của Hạng Võ:

Lực bạt sơn hề khí cái thế

Thời bất lợi hề truy bất thệ

Truy bất thệ hề khả nại hà

Ngu hề ngu hề nhược nại hà

Nghĩa là:

Sức xô ngả núi hề, hùng khí ngất đời

Thời không lợi hề, ngựa truy phong không chạy

Ngựa không chạy hề, biết làm thế nào

Nàng Ngu Cơ ơi, nàng Ngu Cơ, không làm sao được nữa rồi.

Hơi thơ Hạng Vương khởi như giông tố rồi chìm biệt tăm tích. Hơi thơ Quang Khải hào hùng lướt đi vun vút như không bao giờ dứt.

Bài « Hoành sáo » của Phạm Ngũ Lão:

Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu

Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu chính nhân gian thuyết Võ hầu

Tạm dịch:

Ngọn giáo tung hoành đã mấy thu

Ba quân hùng khí nuốt sao ngưu

Làm trai chẳng trả công danh nợ

Thêm thẹn khi nghe chuyện Võ hầu 42

Thượng tướng như vậy, vua cũng chẳng kém gì.

Một ngày Xuân nọ, Trần Nhân Tông (I279-I293), một thần văn thánh võ, một bực đại anh hùng hai lần thắng quân Mông Cổ, cùng các quan yết Chiêu Lăng là lăng vua Trần Thái Tông (I225-I258) để tỏ lòng ghi nhớ công ơn của vị tiên đế khai triều đã có những văn trị võ công rực rỡ.

Trước những nghi vệ thiên tử oai nghiêm, đầy màu sắc lộng lẫy, nhạc thiều cùng quân nhạc nối tiếp, bá quan văn võ từ thất phẩm bao quanh, nhà vua xúc động nghĩ ra một bài ngũ ngôn tuyệt cú với đề tài Xuân nhựt yết Chiêu lăng :

Nghi vệ thiên môn túc

Y quan thất phẩm thông

Bạch đầu quân sĩ tại

Vãng vãng thuyết Nguyên phong.

Bản dịch của Hoa Bằng:

Nghi vệ bày răm rắp

Áo xiêm góp đủ đông

Lính già phơ tóc bạc

Thường kể chuyện Nguyên phong.

Nguyên phong (I25I-I258) là niên hiệu đời vua Trần Thái Tông.

Để xưng tụng công đức tổ tiên, nhà vua đã gián tiếp phô diễn một cách tài tình ; trong đám quân nhân theo hầu, có một ít lính già đã từng sống qua thời thịnh trị hoặc tham gia những trận kháng Tống bình Chiêm hiển hách thời Nguyên phong, và họ kể lại nho nhỏ cho các lính trẻ nghe.

Một sáng xuân nào đó, trong cảnh thái hòa êm ấm, không còn phập phồng lo ngại vó ngựa Nguyên chà nát quê hương, sau giấc ngủ say, vua bừng tỉnh dậy vén rèm nhìn ra vườn thượng uyển thì con người thi nhân trong lòng bàng hoàng trước cảnh nên thơ, mà vì bận rộn việc nước, nhà vua quên hẳn rằng xuân đã tới từ bao giờ. Là một thi nhân thấm nhuần giáo lý nhà Phật, Trần Nhân Tông ghi ngay lên mảnh hoa tiên bài Xuân vãn :

Thụy khởi khải song phi,

Bất tri xuân dĩ qui,

Nhất song bạch hồ điệp,

Phách phách sấn hoa phi.

Hoa Bằng dịch:

Bừng tỉnh hé song ra,

Ồ xuân đến với ta,

Một đôi bươm bướm trắng,

Vỗ cánh lượn theo hoa.

Hơi Đường phảng phất trong những vần điệu của ông vua chiến sĩ đã bao lần quên cả trời xuân trong rừng gươm giáo ở bến Chương dương, cửa Hàm tử, đất Tây kết, hay sông Bạch đằng. Nếu ta đặt những lời ấy bên cạnh những câu:

Ly biên đa hồ điệp,

Nghi thị lạc hoa phi.

(Ven rào đàn bướm lượn

Tưởng mấy cánh hoa bay.)

Hoặc:

Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân,

Phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân.

(Hoa rơi một cánh ít xuân phai,

Gió cuốn muôn hoa não dạ nầy.)

thì quả thật không biết đâu là thơ Đường, đâu là thơ Việt!

Trình độ Hán học đời Trần đã đến như vậy, đủ biết giới sĩ phu tôn sùng Nho học đến bực nào. Chữ nôm chỉ mới được dùng trong thi ca thôi.

Khi trở thành một nhân vật quan trọng có nhiều thế lực trong nước, Quí Ly, vốn mang dòng máu cách mạng trong người, đã không ngần ngại nâng cao chữ nôm và bài bác tư tưởng của thánh hiền Trung quốc, trong khi toàn thể sĩ phu ta hoàn toàn nô lệ cho những lý thuyết mà họ cho là bất khả xâm phạm.

Khi Nghệ Tông ban gươm và cờ đề: « Văn võ toàn tài quân thần đồng đức », Quí Ly nhận lãnh, rồi làm thơ Nôm dâng tạ.

Nghệ Tông thăng hà, Quí Ly lên làm Phụ-chánh-thái-sư vào ở trong điện, dịch thiên Vô dật trong KINH THI, là thiên chép lời của Chu Công, ra quốc âm để dạy vua Thuận Tông. Năm Đinh sửu Quí Ly dịch xong pho Kinh thi dạy các nữ quan, hậu phi và cung nữ. Ông bỏ bài tựa của Chu hy ở đầu sách rồi viết BÀI TỰA bằng chữ Nôm thay vào. Trong bài tựa, đại ý ông bảo rằng mình dịch và giải thích theo ý kiến riêng chứ không theo lời chú thích của Chu Hy. Bình về việc nầy Kiều Thanh Quế 43 viết: « Người nước ta, trước Quí Ly, học Thi Thư của Tàu, nô lệ theo tư tưởng của Tàu, nhất nhất qui theo lời chú thích của Chu Hy. Chỉ họ Hồ là người trước hết thoát ly được óc nô lệ cổ nhân, đáng phục thay! »

Quí Ly lại soạn ra sách MINH ĐẠO (để sáng tỏ đạo Nho) dâng lên Nghệ Tông năm Nhâm Thân (Quang thái thứ năm – I392) đáng kể là một cuốn sách phê bình triết học đầu tiên ở nước ta, gồm I4 thiên, khen Chu Công hơn Khổng tử, tôn Chu Công làm bậc tiên thánh, Khổng Tử làm bậc tiên sư và nêu bốn chỗ đáng ngờ:

- Khổng Tử đến chơi nhà nàng Nam tử.

- Khổng tử hết lương ở nước Trần.

- Công Sơn Phất Nhiễu, Phất Bạt với Khổng Tử, Khổng tử muốn đi.

Cũng trong sách này, Quí Ly kết tội Hàn dũ, một danh sĩ đời Đường, đã bài xích Phật rất kịch liệt là « ĐẠO NHO » (tức là nhà Nho ăn trộm) và cho rằng các hiền giả đời Tống (như Chu mậu Phúc hiệu Liêm Khê, Trình Hiếu, Trình Di, Dương Trì, Lý Duyên Niên, La Trọng Tố, Chu Tử tức Chu Hy hiệu Hối Am) học rộng nhưng tài thường, không có tinh thần thực tế, chỉ chuyên nghề cắp lột văn chương tư tưởng.

Ông Chu Thiên, khảo về Hồ Quí Ly, cho rằng chiếc roi mà họ Hồ đã quật vào mặt các hiền giả kể trên có điều oan uổng.

Dầu sao, ta cũng phải nhìn nhận họ Hồ có một cái học uyên bác, một tinh thần độc lập và cách mạng, tự tin, có óc phê bình và sáng tạo, không chịu nô lệ cho thành kiến, tư tưởng nào cả, dầu tư tưởng đó có vững chắc như núi non trước mắt mấy trăm triệu người Hoa Việt.

Thái độ ấy làm Quí Ly vượt hẳn đám nho sĩ Trung Hoa và Việt Nam chẳng những đồng thời với ông mà cả những thế kỷ sau nầy. Năm Đinh sửu (I387) Quí Ly sửa đổi việc học hành. Ông bỏ lối kén nhân tài bằng khoa cử , mà bằng lối ĐỀ CỬ.

Nhận thấy việc học hành chỉ tổ chức ở các đô thị, còn ở châu huyện thì phó thác cho tư nhân. Ông đặt ra ngạch học quan và sức cho các lộ Sơn nam, Kinh Bắc, Hải đông mỗi phủ, châu đều phải có học quan trông coi việc Giáo dục. Nhà nước trích huê lợi về công điền yểm trợ một phần vào việc học hành của thanh thiếu niên, một phần để làm lễ sóc theo tỷ lệ: phủ, châu, nhỏ I0 mẫu ; phủ, châu lớn I5 mẫu ; phủ, châu vừa I2 mẫu. Các lộ quan phải liên lạc mật thiết với các học quan để xúc tiến việc giáo dục. Mỗi năm phải kén người giỏi tiến kinh để vua thân ra bài thi tuyển chọn nhân tài làm quan.

Nhưng đến năm I397, tức năm Quang thái thứ 9, có lẽ vì việc ĐỀ CỬ gặp phải một trở ngại nào đó nên Quí Ly đành trở lại lối thi cử đã có từ trước.

Tuy nhiên, ông cũng sửa đổi lại rất nhiều. Trước đó, việc thi không có đinh thể, nay Quý Ly định lại từ trường văn thể và bỏ phép ÁM TẢ.

Trường đệ nhất làm bài KINH NGHĨA có đủ mấy đoạn: phá để tiếp ngư, tiểu giảng, nguyên đề, đại giảng, triệt kết, hạn từ 500 chữ trở nên. Trường đệ nhị có THƠ PHÚ (một bài thơ đường luật, một bài thơ cổ ngôn) cũng từ 500 chữ trở nên. Trường đệ tam ra chiếu, chế, biểu (chiếu dùng thể văn đời Hán, chế, biểu dùng lối văn tứ lục đời Đường). Trường đệ tứ thi văn sách, hỏi kinh sử hay thời vụ, hạn I000 chữ trở lên.

Ngoài ra, cứ thi Hương năm trước thì thi Hội năm sau. Các thí sinh trúng tuyển còn phải qua một kỳ văn sách nữa do chính nhà vua ra đầu đề để định trên dưới.

Đến năm Giáp thân (I404), dưới triều Hồ, việc thi cử được sửa đổi nữa. Họ Hồ đặt thêm một trường để thi viết và làm TOÁN PHÁP. Đó là kỳ chung kết. Những người đỗ hương thí, năm sau phải vào bộ Lễ thi lại, có đỗ mới được tuyển dụng, rồi năm sau nữa mới được thi Hội. Qua được kỳ thi này mới được là Thái học sinh (tức Tiến sĩ).

Những người đỗ hương thí được miễn phu phen tạp dịch năm sau thi ở bộ Lễ, trúng tuyển thì được bổ chức quan nhỏ.

Cũng nên nhắc lại rằng năm Canh Thìn (I400), khi đã thoán ngôi nhà Trần, Quí Ly viết THỦ CHIẾU BẰNG CHỮ NÔM ĐỂ PHỦ ỦY NHÂN DÂN.

Quan niệm về văn hóa của họ Hồ làm nổi bật tinh thần dân tộc cao độ của ông.

Ông nhận thức trước hơn ai cả rằng chữ Nho là một thứ ngôn ngữ vay mượn tạm thời và cũng là ngôn ngữ riêng của từng lớp trí thức trong nước. Nó là bức tường Vạn Lý Trường Thành ngăn cách chính quyền, trí thức với đại chúng.

Muốn cảm thông với đại chúng, trong khi chờ đợi một thứ chữ nghĩa giản dị có thể truyền bá mau lẹ khắp nhân dân, thì phải dùng chữ Nôm.

Mặc dầu chữ Nôm phức tạp vì phải biết qua Hán văn mới học được, nhưng ít ra khi đọc lên, người dân dốt nát cũng hiểu ngay, không qua một sự phiên dịch như chữ Nho. Vì vậy mà Quí Ly hết sức nồng nhiệt với thứ tiếng mẹ đẻ ấy của những hành động kể trên.

Sau này, vua Lê Thái Tông (I434-I442) ngỏ ý với quần thần muốn xem các thủ chiếu và thơ văn Nôm của họ Hồ. Nguyễn Trãi tìm được cho vua xem VÀI MƯƠI BÀI CHỮ NÔM của họ Hồ. Nhưng rồi những bài ấy cũng thất lạc.

Phải chờ đến bốn trăm năm sau, người ta mới thấy sự nồng nhiệt tương tự ở vị đại anh hùng dân tộc: Quang Trung hoàng đế.

Không phải là một nhà trí thức lỗi lạc như Quí Ly, nhưng vua Quang Trung cũng nhận thức được tầm mức quan trọng của tiếng mẹ đẻ. Vua đã nhờ La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp dịch kinh truyện ra chữ Nôm để tiện việc truyền bá đạo lý Khổng, Mạnh trong dân chúng. Phu tử làm được một ít sách, nhưng chưa xong thì vua Quang Trung mất. Những dịch phẩm ấy bị tịch thu, thiêu hủy, xóa nhòa dấu tích triều đại Tây Sơn!

Ngay lúc làm Đại nguyên soái, Nguyễn Huệ cũng đã đem tiếng Việt ứng dụng trong công văn. Ngoài ra, mỗi khoa thi, cứ đệ tam trường, các sĩ tử phải làm thơ phú bằng quốc âm. Việc cai trị cũng thường dùng chữ Nôm. 44

Chánh sách giáo dục của Hồ Quí Ly chứng tỏ ông cướp chánh quyền không phải vì ông, vì dòng họ ông, mà vì giống nòi, vì đất nước. Bằng chứng là ông hết lòng phổ biến giáo dục tận châu huyện, lo lắng sự học hành của giới trẻ, có chính sách đúng đắn và dài hạn.

Mặc dầu sử sách không ghi chép kết quả của nền giáo dục ấy ra sao, nhưng ta có được một chứng tích cụ thể rằng một người xuất thân hoàn toàn từ nền giáo dục của họ Hồ đã trở nên một bực đại anh hùng dân tộc, tài trí tuyệt vời, và nhờ người ấy mà Bình định vương Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh, lấy lại đất nước.

Chứng tích ấy là NGUYỄN TRÃI.

Năm 2I tuổi, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh thứ hai (tức Tiến sĩ) khoa canh thìn (I400) dưới triều Hồ.

Trong « NHỊ KHÊ NGUYỄN THỊ GIA PHẢ », ta thấy chép: Nguyễn Trãi đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh thìn (I400) triều nhà Trần. Thế là sai, vì bấy giờ Trần đã mất, Hồ đã cầm quyền rồi 45 . Nguyễn Trãi đã làm chức Ngự sử đài chính chưởng ở đời Hồ Hán Thương.

Nhà Hồ mất, tiên sinh lánh nạn, tạm lui về Côn sơn (thuộc huyện Chí linh, Hải dương), chớ không chịu làm Việt gian, ra làm quan cho nhà Minh như bọn Nguyễn Huân, Đỗ Duy Trung, Lương Nhữ Hốt.

Cha ông là Nguyễn Phi Khanh cũng đã giữ chức Hàn lâm học sĩ của triều Hồ Hán Thương. Và cũng vì vậy mà Phi Khanh cùng hai con là Phi Bảo, Phi Hùng bị người Minh bắt đưa về Kim Lăng (nay là Nam kinh). Đưa cha đến ải Nam quan, Nguyễn Trãi quay về theo lời khuyên của cha:

Thương cha con phải lo cho nước,

Đừng để giang san chịu thiệt thòi.

Một chi tiết quan trọng khác nói lên sự tiến bộ lạ lùng trong hệ thống tư tưởng của Hồ Quí Ly là đưa vào chương trình thi Hương ở đầu thế kỷ I5 môn TOÁN HỌC, một việc mà mấy trăm năm sau, trước khi Pháp tới, cũng chẳng một triều đại nào nghĩ đến.

Quí Ly đã nhận thấy trong đời sống hàng ngày, ở các lãnh vực kinh tế, tài chánh, thương mãi, toán học là một bộ môn cần thiết không thể không biết.

Đáng tiếc là không một nhà khảo sử nào để ý đến chi tiết đó để tìm hiểu xem về toán học, bộ óc đầy khoa học kia đã biết những gì!

Tuy nhiên, nếu triều Hồ kéo dài, dân Việt Nam bắt đầu nghiên cứu toán học từ I404 một cách cần cù thì tinh thần khoa học của dân ta cũng phải có nhiều tiến bộ. Và biết đâu chính họ Hồ cũng đã có những căn bản toán học nào đó cho nên ông mới toan tính đưa thanh thiếu niên sang con đường học vấn mới lạ như vậy!