← Quay lại trang sách

5. CẢI CÁCH XÃ HỘI

Những công trình cải cách xã hội của Hồ Quí Ly chứng minh rằng, ngoài việc thực hiện hoài bão, phụng sự lý tưởng của mình, họ Hồ hoạt động không ngừng cho công bằng xã hội, nâng cao mức sống của quãng đại quần chúng, hạn chế thế lực của những đẳng cấp không sản xuất, sống bám vào xã hội lại ăn trên ngồi trước, quyết đưa quốc gia đến chỗ cường thịnh và văn minh tiến bộ hầu bảo vệ giống nòi và biên cương đất nước.

Ngay dưới triều Trần, ông đã ngang nhiên chĩa mũi dùi vào giai cấp thống trị đã mọc gốc mọc rễ từ bao nhiêu thế kỷ nay.

Đồng thời với việc cải cách điền địa (I397-I398), ông triệt để bài trừ sự lạm quyền của giai cấp quí tộc, quan liêu, chia tay nhau tài sản quốc gia, bóc lột sức lao động của dân nghèo bằng cách hạn chế việc dùng dân nghèo làm nô lệ.

Dưới triều Trần, chế độ phong kiến lên đến cao độ. Dân nghèo không được nâng đỡ nên chế độ nô lệ đã bị bãi bỏ dưới triều Lý lại tái sanh. Bần dân phải bán vợ, đợ con khi lâm vào bước đường cùng. Người mắc nợ có thể bị chủ nợ tự ý giam cầm cho tới khi nào lời vốn trả xong mới được thả ra. Nếu không trả được nợ thì phải đợ mình, đợ vợ, chịu làm nô lệ 39 để chuộc nợ.

Những kẻ nghèo từng làm nô (tớ trai), tì (tớ gái), cho các vương hầu, công chúa, để khai hoang, xây dựng điền trang. Họ vẫn được lấy vợ chồng và cùng sanh sống ở nơi nào mà họ làm nông nô. Họ khai khẩn được nhiều ruộng đất ở các miền nước mặn bằng cách đắp đê ngăn nước biển tràn vào các bãi. Mấy năm sau, những nơi nầy thành ruộng có thể trồng lúa được. Tình trạng nầy bắt đầu từ tháng I0 năm Bính dần (I266) 40 đến tháng tám năm Quang Thái thứ I0 (I397) đời Trần Thuận Tông.

Hai vụ có dính dáng đến vấn đề nông nô đời Trần mà sách sử có chép rành mạch là vụ Trần quốc Toản và Dương Nhật Lễ.

Hoài văn Hầu Trần Quốc Toản được dự hội nghị Bình Than với tư cách theo hầu vua Nhân Tông vì Hầu còn quá trẻ, không được dự bàn. Quá bực tức, sau đó Quốc Toản hợp gia nô hơn I000 người tự sắm chiến thuyền kéo cờ đánh Mông cổ. Sử không nói rõ số gia nô ấy của riêng ông hay ông gom của nhiều nhà quí tộc.

Vụ thứ hai: Thái tế Trần nguyên Trác cùng vợ là Công Chúa Thiên Ninh với ít nhiều tôn thất đang đêm đem gia nô vào thành toan giết Nhật Lễ. 41

Có thể chỉ dùng gia nô thôi cũng đủ số tráng đinh đánh giặc hoặc để chỉnh lý, cho thấy số gia nô của các nhà quí tộc đời Trần đông đảo bực nào.

Năm I397, triều Thuận Tông, chính Quí Ly ra lịnh hạn chế số gia nô của các nhà quí tộc, chỉ cho phép mỗi nhà được một số tùy theo phẩm trật, số còn lại phải trả cho nhà nước.

Như trên đã có nói, những kẻ hầu hạ của các vương tôn, đại thần từ đời Dụ Tông thường dựa vào thế lực của chủ hà hiếp tranh công ăn việc làm của dân, gây nên sự thán oán. Để biết họ là gia nô của ai hầu trừng trị khi họ phạm phép nước, Quí Ly ra lệnh phân biệt họ bằng các dấu trên trán:

- Gia nô nhà nước vẻ hỏa châu.

- Gia nô của công chúa vẽ dương.

- Gia nô nhà đại vương vẽ một khoanh đỏ.

- Gia nô của các quan nhất nhị phẩm vẽ đen.

- Từ tam tứ phẩm trở xuống vẽ hai khoanh đen.

Việc hạn nô này còn có một mục đích chính trị là giảm bớt thế lực của các nhà quí tộc, các đại thần trong triều có quyền lợi sanh tử với triều Trần.

Tuy nhiên, chánh sách cải cách điền địa, hạn chế quyền tư hữu về ruộng đất, và việc hạn nô này đều có lợi cho dân nghèo, nâng cao đời sống và phẩm giá con người trong đại chúng, lại chạm đến quyền lợi các đẳng cấp quí tộc, quan lại, điền chủ, địa chủ là thành phần quan trọng của giai cấp thống trị. Do đó, Quí Ly gây thù kết oán với họ, mà hậu quả là vụ hội thề Đốn Sơn và bị phản tuyên truyền khi quân Minh kéo sang xâm lấn.

Đối phó với nạn nhân mãn ở vùng Trung châu sông Nhị và vấn đề sanh sống của dân, năm I400, Quí Ly noi gương các tiền nhân, tiếp tục cuộc tiến về Nam, cho quân sang đánh vua Chiêm La Ba Đích, bắt dâng Chiêm Động và Cổ Lũy (I402). Ông chia hai nơi nầy thành 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt lộ Thăng Hoa để trông coi bốn châu ấy, do Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ. Chỗ giáp giới đất Chiêm thì đặt ra trấn Tân ninh.

Quí Ly cho dân nghèo vào khai thác đất mới. Họ được tổ chức thành đoàn như quân đội, mang cả vợ con theo, chia nhau chiếm hữu đất mới để khẩn hoang lập nghiệp. Họ phải thích ở cánh tay tên châu mình trú ngụ. Vấn đề trâu bò để cày ruộng cũng được giải quyết: ai cung cấp trâu bò để chánh quyền phát lại cho di dân thì được ban phẩm tước.

Bấy nhiêu đó đủ chứng minh ý thức rõ rệt cuộc Nam tiến của dân tộc, nới rộng vùng đất sinh tồn của dân Việt đang bành trướng về mọi mặt. Vì vậy, ông tổ chức thật chu đáo và tỉ mỉ việc di dân với đầy đủ những gì cần thiết cho người dân sinh cơ lập nghiệp sống vĩnh viễn ở miền vừa chiếm được.

Năm Quý Mùi (I403), Quí Ly lập Quảng tế thự (như bịnh viện của chính phủ ngày nay) để chữa bịnh cho dân. Nguyễn Đại Năng, một y sĩ chuyên khoa châm cứu được cử ra trông nom.

Để cứu trợ nạn đói sau những cơn giặc giã, lụt lội, hạn hán, Quí Ly cho lập mỗi lộ một kho thóc, gọi là kho Thương Bình, xuất của công mua lúa lúc giá hạ, dành bán rẻ cho dân lúc khó khăn, hoặc đem chẩn bần khi hữu sự.

Ở các miền biển, chánh quyền cho đắp đê ngăn nước mặn để có thêm ruộng cho dân, và khai thác các bến, các sông vùng Thanh Hóa, Nghệ An để bành trướng các đường giao thông trên mặt nước, giúp cho việc thương mãi thuận tiện hơn.

Ngoài ra, Quí Ly cũng không quên hủy bỏ một bất công xã hội là chế độ tập ấm, nghĩa là nhà nào có quan tước, thì con cháu được thừa ấm rồi sau ra làm quan. Thường dân, không quan tước thì đời nầy sang đời khác chỉ làm binh lính. Vì vậy, mới có câu tục nghữ « con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa », để diễn tả sự bất bình của nhân dân.

Qua những cải cách xã hội, ta thấy Quí Ly đã đặt nặng ý niệm « dân vi quí », nghiêng hẳn về đại chúng, lo nâng cao mức sống của nhân dân, xóa bỏ những bất công xã hội. Ông lấy dân làm gốc, và thẳng tay đối với các thành phần trong giai cấp thống trị.

Ông tỏ ra có óc thực tế với những biện pháp cấp tiến và thông thái nữa. Tuy nhiên, có lẽ vì ông là một nhà trí thức thượng thặng, quá chủ quan, nên cũng quá lý tưởng.

Ông cương quyết, nhẫn nại nhưng thiếu mềm dẻo đối với những đẳng cấp đối nghịch với nhân dân.

Nếu quân Minh sang chậm một thời gian nữa, để những cải cách của ông đủ thời giờ mang lại kết quả cụ thể, trình độ trưởng thành chánh trị của nhân dân cao hơn một mức nữa thì ông có thể vượt qua mọi trở ngại, đưa quốc gia đến bến vinh quang.