← Quay lại trang sách

2. TÂM LÝ CHIẾN

Từ ngày ngồi vững trên ngôi Hoàng-đế Trung-quốc, cũng như mấy ông vua trước, Minh Thành-Tổ muốn thôn tính nước Việt-Nam. Nay có dịp Trần Thiêm Bình trá xưng là con vua Nghệ Tông, tố cáo việc Quí Ly thoán đoạt và khẩn cầu Minh đế xuất binh « điếu phạt », lại thêm bọn hoạn giả Nguyễn Toán được sai về Việt Nam dọ thám, trở về tâu rằng nước Nam giàu thịnh, có nhiều sản vật quí, vua Minh càng hăm hở quyết định cuộc Nam chinh.

Tháng tư năm bính tuất, vua Minh sai Đốc tướng là Hàn Quan và Hoàng Trung đem 5000 binh đưa Thiêm Bình về nước.

Đến ải địa đầu của ta, Hoàng Trung tiến đánh cửa Sầm Kênh. Tướng Phạm nguyên Khôi, Chu bỉnh Trung của ta tử trận. Ngay lúc đó, tướng Hồ Vấn tiếp chiến. Quân Minh thua, và bị hai tướng Hồ Xạ, Trần Đỉnh chận đường rút lui ở ải Chi Lăng từ trước. Hoàng Trung đành sai quan của hắn là Cao cảnh Chiếu giải Trần Thiêm-Bình sang trại quân Hồ và nói: « Vì Trần Thiêm Bình bảo mình là con vua An-nam nên được đưa về nước. Nhưng từ lúc vào bờ cõi đến giờ không thấy ai theo tức là gian dối. Nay nộp Thiêm Bình xin mở đường cho về ».

Hồ Xạ ưng thuận, đưa Thiêm Bình về dâng công. Hán Thương thưởng mọi người, và trách Hồ Xạ không bắt luôn Hoàng Trung, rồi cho trảm quyết Thiêm Bình.

Biết thế nào quân Minh cũng trở sang, Hán Thương cử sứ bộ sang biện bạch với Minh Triều việc Thiêm Bình giả mạo và xin theo lệ cũ tiến cống. Sứ bộ nầy có Trần Cung Túc, An-phủ-sứ Tam Giang làm chánh sứ, Mai Tá Phu, Thông-phán làm Phó-Sứ, bị nhà Minh giữ lại cả.

Minh Thành-Tổ quyết đánh, lấy cớ nhà Hồ giết Thiêm Bình, phong Thành Quốc-công Chu Năng làm đại tướng, Tán Thành hầu Trương Phụ, Tây-Bình hầu Mộc Thạnh làm tả hữu phó tướng, Phong Thành hầu Lý Bân, Vân Dương bá Trần Húc làm tả hữu tham tướng, chia quân làm hai đạo đánh sang nước ta.

Quân nhà Minh đến Long-Châu thì đại tướng Chu Năng chết, phó-tướng Trương Phụ lên thay, đi từ Bằng-Tường (Quảng-Tây) đánh vào cửa Nam-quan, rồi tiến sang phía tây-bắc về mé sông Cái. Còn đạo quân của Mộc Thạnh từ Vân-nam theo đường Mong-Tự đánh lấy cửa Phú-Lĩnh (có lẽ là Hà-Giang) tiến dọc theo sông Thao. Cả hai đạo hẹn họp nhau ở ngã ba Hạc (Bạch-Hạc).

Nhà Hồ đã phòng bị cẩn mật. Nhưng tướng Minh biết dân Nam có nhiều thành kiến về việc họ Hồ lật đổ nhà Trần nên tung ra một đòn chánh trị tầm thường nhưng rất hiệu quả đối với một đại chúng mà trình độ trưởng thành chánh trị cũng như ý thức về quyền lợi quốc gia dân tộc còn quá thấp kém do bọn Việt gian Trần Thiêm Bình, Nguyễn Toàn, Bùi Bá Kỳ đã bày ra từ trước. Các tướng Minh cho thả xuống sông những tấm ván có viết bài hịch kể tội họ Hồ, và nói rằng quân Tàu sang là để khôi phục dòng dõi nhà Trần, dẹp nhà Hồ, cứu dân Nam khỏi sự khốn khổ.

Đòn chánh trị nầy kết quả tốt đẹp trông thấy rõ.

Những mảnh ván nhỏ ấy trôi tới đâu, quân sĩ ta bắt được, nhờ đám nho sĩ giải thích để hiểu nghĩa.

Đẳng cấp nho sĩ vốn không thích những cải cách của Quí Ly, thừa dịp nầy sẵn sàng nối giáo cho giặc, mở một trận giặc ngấm ngầm phản tuyên truyền đối với nhà Hồ. Họ khờ dại đến nỗi không hiểu rằng làm như vậy là dâng tổ quốc cho quân Minh giày đạp.

Thế là nhiều quân sĩ vốn là nông dân chất phác, dốt nát hết lòng tin tưởng giai cấp lãnh đạo của họ là đám nho sĩ, không đánh mà hàng giặc. Hơn nữa, bọn Mạc Địch, Mạc Viễn, Mạc Thủy (cháu trạng Mạc Đĩnh Chi ở lộ Hải Dương) và Nguyễn Huân cùng nhiều nho sĩ theo quân Minh được trọng đãi. Nhờ vậy mà quân Minh đi tới đâu là chiếm tới đó, thắng lợi ngay ở buổi đầu. Quân nhà Hồ phải lui về giữ thành Đa bang.

Như đã hẹn trước, hai cánh quân Minh hội nhau trước Ngã ba Hạc chuẩn bị đánh thành Đa bang là tiền tuyến của quân Nam, cũng là một căn cứ quan trọng để tiếp ứng cho các đồn binh hai bên bờ sông Nhị Hà.

Ở chỗ thành Đa bang, quân Hồ lập đồn ải liên tiếp ở phía nam sông Thao và sông Cái, tức là dọc theo sông Hồng Hà, rồi đóng cọc ở giữa sông, thuyền bè không qua lại được, cốt để cho quân Minh mỏi mệt rồi sẽ đánh.