3. THIÊN TÀI THẤT THẾ
Thành Đa bang thật kiên cố. Mộc Thạnh đã bàn với Trương Phụ : « Mọi nơi đồn An Nam đóng gần bờ sông, quân sang còn không được, còn thành Đa bang thì lũy cao, hào sâu, nhưng ở trước có bãi cát, quân có thể sang đó. Và lại ta có đủ đồ chiến cụ, nếu đánh thì tất thành ấy phải đổ. »
Trương Phụ hạ lệnh : « Quân kia trông cậy có thành này, mà ta lập công cũng ở đó ; hễ quân sĩ ai lên được trước thì sẽ có thưởng to ! » Ngay đêm đó, đốt lửa, thổi tù và làm hiệu, Trương Phụ, Hoàng Trung đánh mặt Tây bắc, Mộc Thạnh, Trần Duệ đánh mặt Đông nam, dùng thang vân thê lên thành. Quân Hồ đánh không được phải lui vào thành ; sáng hôm sau đào thành cho voi ra đánh. Quân Minh vẽ hình sư tử trùm lên ngựa rồi xông vào, dùng súng bắn thật hăng. Voi sợ chạy trở vào, quân Minh theo sau voi ập vào thành. Thành vỡ, các đồn ải dọc trên sông cũng vỡ theo. Tàn quân nhà Hồ lui về Hoàng giang (khúc sông Nhị Hà thuộc huyện Nam sang, tỉnh Hà nam). Quân Minh thừa thắng, đốt sạch các đồn trại và tiến đánh Đông đô (Thăng Long) lúc này bỏ ngỏ. Chúng tha hồ bắt đàn bà con gái, vơ vét của cải. Sau đó chúng đặt ngay bộ máy cai trị, bổ nhiệm bọn Việt gian làm quan dưới quyền của người Tàu, tích trữ lương thực, định kế ở lâu dài.
Cuộc bại trận từ Sơn tây đến Thăng Long xảy ra vào tháng chạp năm Bính tuất (I406). Tháng Ba năm Đinh hợi (I407), phó tướng Mộc Thạnh đem quân thuỷ lục tiến xuống Mộc phàm, một làng thuộc huyện Phú xuyên.
Trận Mộc phàm giang. – Con sông này chạy ngang làng Mộc phàm nên mang tên Mộc phàm giang, tiếp với Hoàng giang.
Quân Minh hạ trại ở hai bên sông. Hồ Nguyên Trừng đem 300 thuyền chiến tấn công, bị quân Minh chia làm hai cánh đánh ập lại. Nguyên Trừng chống không nổi phải rút quân về cửa Muộn hải (thuộc huyện Giao thủy, tỉnh Nam định).
Các tướng Hồ Đỗ, Hồ Xạ cũng bỏ bến Bình than (thuộc làng Trần xá, huyện Chí linh, tỉnh Hải dương), về cửa Muộn Hải họp với Nguyên Trừng tìm kế chống giặc. Quân ta đào hào, đắp lũy tính giữ lâu dài. Nhưng quân Minh lại tiến đến, Nguyên Trừng cùng tướng sĩ lui về cửa Đại An (thuộc phủ Nghĩa Hưng). Tại đây, bọn Thị trung Trần Quang Chỉ, Trung thư lệnh Trần Sư Hiền cùng với người sở tại là Nguyễn Nhật Kiên âm mưu giết quan Trấn phủ rồi theo giặc Minh !
Quân nhà Hồ và quân Minh đánh nhau dữ dội suốt ngày đêm. Nguyên Trừng cho đón Quí Ly và Hán Thương từ Tây đô đến Hoàng giang định mở cuộc phản công lớn. Quân Minh ở Muộn hải đau ốm nhiều, nên lui về bến Hàm tử, cho quân ta tiến đến.
Trận Hàm tử quan. – Lực lượng thuỷ lục của nhà Hồ lúc bấy giờ có 7 vạn, nhưng hư truyền là 2I vạn, phân bộ binh làm 2 đạo đi theo hai ven sông. Hồ Xạ, Trần Đỉnh đem quân đánh vào bờ phía Nam. Đỗ Nhân Giám, Trần Khát Trang đánh vào bờ phía bắc. Đỗ Mãn, Hồ Vấn thống xuất thuỷ quân đi giữa. Chiến thuyền nối nhau hơn I0 dặm kín cả mặt sông, cùng tiến về Hàm tử quan. Quân nhà Hồ vào sâu trong mặt trận thì phục binh của Minh cả thuỷ lẫn bộ hai mặt giáp công. Lúc quân ta thua, lớp hàng, lớp ngã xuống sông chết đuối rất nhiều.
Sau trận này, đại quân nhà Hồ tan rã gần hết. An phủ sứ Bắc giang là Nguyễn Hy Chu bị bắt. Hy Chu mắng Trương Phụ và bị giết chết. Quí Ly, Hán Thương cùng một số người chạy ra biển lui về Thanh Hoá.
Quân Minh đuổi theo đến Lôi giang (một sông nhỏ đổ vào sông Mã). Quân Hồ mất hết tinh thần, không đánh mà tan.
Quí Ly cùng một số người chạy vào Nghệ An. Tháng 5 năm ấy (I407), Quí Ly, Hán Thương đến cửa Kỳ La, (nay thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Nghệ An). Trương Phụ cử Mộc Thạnh, dẫn lục quân, Liễu Thăng dẫn thuỷ quân đuổi theo.
Giặc Minh hãm hiếp, cướp bóc dân ta như vậy, mà vì tin tưởng chúng diệt Hồ để tái lập nhà Trần, đem sự sung sướng lại cho dân Nam như chúng tuyên truyền, nhân dân trong vùng tỏ ra hể hả mà thấy cha con Quí Lý gặp bước cùng đồ mạt lộ. Dưới đây là một thí dụ.
Khi Quí Ly và vua tôi nhà Hồ đến cửa Kỳ La thì một đoàn kỳ lão ra đón tiếp và tâu : « Xứ này tên là Cơ Lê, có núi tên là Thiên Cầm, xin nhà vua chớ lưu lại ở đây ».
Sự thật, các kỳ lão cố ý đọc trệch chữ Kỳ la ra Cơ lê, nghĩa là trói họ Lê vì trước khi lên ngôi, Quí Ly mang họ Lê ; còn Thiên Cầm, có nghĩa là Trời bắt. Sự thật, Thiên Cầm chỉ có nghĩa là đàn của Trời. Tương truyền ngày xưa, vua Hùng Vương đi qua đó, nghe tiếng gió hút vi vu qua khe núi nên đặt tên núi là Thiên Cầm.
Quí Ly rất rành về địa danh vùng Thanh Nghệ, biết tên từng con sông, ngọn núi, nay nghe bọn kỳ lão ngụ ý quyền rũa mình, nổi giận ra lịnh chém cả.
Ít lâu, quân Minh kéo thuỷ bộ rầm rộ tới, bắt được Quí Ly ở núi Thiên cầm, ngày hôm sau, bắt được Hán Thương với con là Nhuế Lố ở núi Cao vọng cũng thuộc huyện Kỳ Anh.
Các đại thần tướng tá như Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng, Hữu tướng quốc Quí Tỳ, em ruột Quí Ly, cùng với con Quí Tỳ là Phán trung đô Vô Cữu, tướng quân Hồ Đỗ, Phạm Lục Tài, Nguyễn Ngạn Quang, Đoàn Kích, lần lượt rơi vào tay quân Minh.
Bọn Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Cẫn, Đỗ Mãn… đã hàng Minh trước đó ít lâu. Ngoài ra, Hành khiển hữu tham tri chính sự Ngô Miên cùng vợ là Kiều Biểu giữ chức Trực trường không chịu nhục, đều tự trầm.
Để xoá bỏ hẳn màu sắc Việt Nam, quân Minh thâu góp tất cả sách vở hay do người Việt soạn thảo chở hết về Tàu, bắt cả các danh sĩ có dính dáng đến triều Hồ mang đi, trong đó có cha của Nguyễn Trãi là Nguyễn phi Khanh, cùng hai con là Phi Bảo, Phi Hùng. Phi Khanh đã đỗ Thái học sinh thứ hai (Tiến sĩ) dưới đời vua Trần Duệ Tông khoa Giáp Dần (I374), mang chức Hàn lâm học sĩ của triều Hồ Hán Thương về ở ẩn.
Tháng sau, tướng Minh là Lỗ Lân, Liễu Thăng giải gia quyến Quí Ly cùng những người bị chúng bắt về Kim Lăng.
Minh Thành Tổ hỏi Quí Ly : « Giết vua cướp nước có phải là đạo bề tôi không ? »
Quí Ly không trả lời. Vua Minh bèn giam tất cả vào ngục chỉ tha có Nguyên Trừng và cháu là Nhuế Lỗ. Sau Quí Ly cũng được phóng thích nhưng phải làm lính tuần ở Quảng Tây. Nguyên Trừng giỏi chế tạo vũ khí, đem SÚNG THẦN CƠ HOẢ SANG tiến vua Minh nên được làm quan. Sau được phong đến chức Công bộ thị lang và soạn ra sách NAM ÔNG MỘNG LỤC còn truyền đến ngày nay.