CHƯƠNG 5 HY VỌNG NGUY HIỂM
Một truyền thuyết đẹp. Là vật hy sinh của tình yêu hay là nô lệ của tình yêu. Bị người khác giết hay tự sát. Cách nhìn nhận của chính giới. Sự phỏng đoán của bạn gái. Những kiến giải của các nhà chính trị.
Lần gặp gỡ đầu tiên của họ được diễn ra trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Lúc đó đang là những ngày hè nóng nực, ánh mặt trời chiếu rọi xuống nơi nơi, mặt biển lóng lánh ánh bạc, giả sử như không có biển cả thì con người ta khó mà thở được vì phải chịu sức nóng hầm hập như trong một phiên chợ đông người vậy. Nhưng ở đây tuy nóng như thế nhưng vẫn rất dễ chịu, trên bờ biển một lũ trẻ đang nô đùa với nhau, thỉnh thoảng chúng lại phát ra những tiếng cười vô tư.
Đột nhiên một bé gái trượt chân bị ngã xuống nước, các bạn cùng lứa đứng ngây người ra vì sợ, tiếng kêu thất thanh chìm vào tiếng sóng vỗ. Trên bờ, tất cả đều cuống cả lên. Đúng lúc đó, một chàng trai không rõ tên chạy đến và nhảy bổ xuống nước. Người ta chỉ trông thấy hai tay cậu nâng đứa trẻ khỏi mặt nước. Người đã cứu được đứa trẻ là một người không cao tóc hung hung, trên mặt rỗ hoa, lăn tăn mấy sợi râu, chính chòm râu sau này đã trở nên quen thuộc với toàn thể nhân dân thế giới.
Cô bé chơi ở bờ biển và không may bị ngã xuống biển ngẫu nhiên được chàng thanh niên Joshep, người Grudia 24 tuổi. Cô gái đó tên là Natia. Họ của cô là Aliluêva. Trước đó không lâu, cô vừa tròn 2 tuổi. Đó là việc xảy ra tại thành phố Bacu năm 1903.
"Đối với một người mẹ có nhiều ảo tưởng và rất nhạy cảm mà nói, đó là sự mở đầu rất có ý nghĩa". Xvétlana Aliluêva viết: "Sau đó khi mẹ gặp bố, lúc đó mẹ đã là một học sinh trung học 16 tuổi. Còn bố là một nhà cách mạng 38 tuổi vừa bị đi đày ở Sibêri trở về, và đã sớm trở thành bạn của gia đình này... " Rồi rất nhanh, họ đã cưới nhau, Nađêzđa Aliluêva trở thành vợ của Stalin.
Đây là lần kết hôn thứ 2 của Stalin. Lần kết hôn thứ nhất là vào thời kỳ trước cách mạng. Người vợ đầu của Stalin là Ekachierina Sêmiaonôpna Sưvanítchơ. Bà mất vào năm 1907. Bà sinh cho Stalin một người con trai tên là Yasha. Lúc nhỏ Yasha ở với họ hàng đi học ở Grudia, sau đó lên Mátxcơva ở với bố. Lần kết hôn thứ 2, Stalin có 2 người con là Vaxili và Xvétlana.
Cuộc sống gia đình của Stalin là một trong những điều bí mật quan trọng nhất của ông. Trong thời kỳ Stalin nắm quyền, tình hình cuộc sống gia đình của ủy viên Bộ chính trị như: Niềm vui sở thích và thái độ đối với một vấn đề nào đó đều là những bí mật quốc gia đặc biệt quan trọng. Như vậy dễ dàng thấy rằng, tình hình cuộc sống riêng tư của Stalin là điều cơ mật quốc gia quan trọng biết chừng nào. Một xã hội bị bưng bít bắt đầu từ việc thần bí hóa và không có cá tính hóa của giới lãnh đạo nhà nước. Cho dù hình tượng của Stalin được hàng chục triệu người tôn sùng là "cha của các thời đại và của nhân dân các dân tộc". Tượng ông có ở khắp nơi, trong cả nước không thể đếm xuể nhưng cũng chỉ là để hoan hô và ca ngợi mà thôi. Đời tư của lãnh đạo luôn bị giấu kín, chẳng ai có thể biết được.
Chỉ đến giai đoạn gần đây, các độc giả thông qua báo chí mới bắt đầu biết những thông tin đã bị giấu kín suốt hơn nửa thế kỷ qua: Cuộc sống gia đình của vị Đại nguyên soái, những tập tục, thói quen trong gia đình, về cái chết của bà vợ thứ 2 lúc bà mới 31 tuổi. Xuất thân của bà từ đâu? Làm việc gì? Cha mẹ bà là ai? Bà đã chết như thế nào? Bị bức tử chết hay chết tự nhiên? Những vấn đề này tuyệt nhiên không phải là chuyện phiếm, khi người ta đưa ra những vấn đề này cũng không hẳn chỉ là sự hiếu kỳ. Bình thường nếu xem xét về cái chết của người vợ mà Stalin yêu mến đã có ảnh hưởng lớn đến tính cách của Stalin, thì đó là một sự thật không còn phải tranh cãi. Đây là vấn đề đặc biệt có ý nghĩa.
Người vợ thứ 2 của Stalin sinh ra tại Bacu. Bố là Sécgây Iacốplêvích Aliluép. Bà là con thứ tư trong nhà, và là con út, bà có 2 người anh trai. Một là Paven, còn người kia là Phêôđô. Người chị gái của bà tên là Anna. Cha bà xuất thân là một nông dân ở Vôrônhiedư, mang đậm bản chất của dân đảo Síp. Mẹ của ông là người Síp. Do mang trong người dòng máu Síp nên trông giống như người miền Nam, khuôn mặt có nét của người nước ngoài. Theo lời cháu gái ngoại của ông là Svetlann Giôgiépphuna Aliluêva, thì dường như những người trong gia tộc Aliluêva đều có đặc điểm mắt đen nhánh, răng trắng, nước da ngăm ngăm đen, cơ thể gầy nhỏ thon. Sécgây được trời phú cho cái tài làm kỹ thuật, có kỹ thuật về thợ nguội. Ông làm việc tại một xưởng sửa chữa đầu máy xe lửa ở ngoại Capcadơ. Ông đã ở Tibilisi, Bacu, Bathundô. Năm 1898 ông gia nhập Công đảng dân chủ xã hội Nga. Ông đã gặp một số nhân vật hoạt động nổi tiếng trong phong trào công nhân như Calinin, Phêaurêtôp... Năm 1900 ông chuyển đến Pêtécbua để làm giám đốc công ty chiếu sáng.
Sécgây là một công nhân được giáo dục có văn hóa. Những người sống cùng thời với ông đã nói về ông như sau: ông là một người dong dỏng cao, nghiêm chỉnh và sạch sẽ, gọn gàng, thậm chí rất lịch sự, trang nhã. Ông có bộ râu rậm điểm theo những sợi trắng, có điểm gì đó rất giống với Calinin. Ông là người luôn nho nhã, nhẹ nhàng, ôn hòa với tất cả mọi người. Ở Pêtécbua ông có một căn hộ 4 phòng. Tất cả các con của ông đều được học hết bậc trung học.
Cuộc hôn nhân của ông cũng lãng mạn không kém người con gái. Lúc đó ông đang làm việc ở Nhà máy ở Tibilisi. Trong một đêm đẹp trời, vị hôn phu của ông ném một túi đồ từ trong nhà qua cửa sổ rồi chạy ra đứng bên chàng trai. Lúc này bà chưa đầy 14 tuổi, nhưng tình yêu của bà vô cùng nồng nàn và bà cũng rất có ý thức vì hạnh phúc. Bà mang họ của người Ucraina tên là Phêđôrencô. Bố của bà lớn lên ở Grudia và sinh sống tại đó. Vì mẹ của ông là người Grudia. Bố của Ôlêga nói tiếng Ucraina. Ông lấy một người phụ nữ Đức và cũng là dân di cư đến đây, như vậy người vợ trẻ của ông, Aliluêva có thể nói tốt cả hai thứ tiếng Đức và Grudia.
Mãi tới cuối những năm 1890, Stalin mới làm quen với người công nhân Aliluép. Stalin gặp ông tại Tibilisi và Bacu năm 1910, sau khi trốn khỏi nơi bị đi đày và đến Pêtécbua. Stalin đến ở nhà Sécgây Iacốplêvích và Ôlêga Yôcôniépna. Sau đó Stalin lại bị đi đày ở rừng nguyên sinh Tuluhan lần nữa, nhưng ông vẫn giữ liên lạc với gia đình Aliluép.
Cuộc cách mạng tháng 2 năm 1917 đã làm Stalin thoát khỏi cảnh đi đày ở Sibêri. Ông đến Pêtrôgrát, con người đã sống cuộc sống hoang dã này không có tiền bạc, trong túi ông cũng chẳng có một mẩu bánh mỳ, ông sẽ đi đâu về đâu? Ông đi đến nhà những người quen cũ Aliluép nhiệt tình mời ông ở lại nhà, điều đó giúp ông tránh được cái đói, cái rét. Stalin đi suốt ngày đến khuya mới về. Bất kể là Stalin về muộn như thế nào nhưng các chị em nhà Alinuêva vẫn để phần trà nóng, súp, chuẩn bị sẵn bánh mỳ đợi ông về. Hai cô gái đều không nói gì cảm thấy vui sướng khi nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ của nhà cách mạng. Tháng 7 năm 1917, Lênin cũng trốn trong căn nhà này mấy ngày. Nachiê (tên của Nađêzđa lúc nhỏ) đã nhường căn phòng nhỏ của mình cho Người, còn bản thân cô sống trong một căn nhà khác ở ngoại thành.
Sau cách mạng tháng Mười, Stalin trở thành một thành viên của chính phủ Xô Viết khoá 1 - ủy viên nhân dân ban dân tộc. Lúc này cô bé Nađêzđa đã tốt nghiệp trung học và được nhận làm thư ký ở cơ quan Stalin. Đầu năm 1918, chính quyền Xô Viết dời đến Mátxcơva, Nađêzđa không thể không chuyển đến thủ đô tại Mátxcơva một học sinh vừa mới tốt nghiệp trung học 18 tuổi, đã mở to đôi mắt háo hức nhìn cuộc đời, và cô đã gắn chặt số phận mình với người đàn ông từng trải 37 tuổi - Stalin. Họ chẳng cử hành hôn lễ, bởi ngày đó, trong con mắt của những người Bônsêvích thì không nên cử hành hôn lễ là tốt nhất. Cô cũng chẳng đổi họ, mà giữ nguyên họ của mình. Cô đã vào Đảng tại Mátxcơva, cùng sát cánh bên chồng trong công việc. Sau này cô cùng làm việc với thư ký riêng của Lênin tại ủy ban nhân dân, và cô cũng đã từng là thư ký trong thời kỳ Lênin dưỡng bệnh tại làng Goócki.
Có một chi tiết rất thú vị là: Năm 1921, khi tiến hành thanh lọc hàng loạt trong Đảng, Nađêzđa đã bị khai trừ khỏi Đảng với lý do là "tham gia các hoạt động xã hội không đủ”. Tuy cô công tác trong Ban thư ký riêng của Vlađimia Ilich, nhưng thật đáng tiếc là không thể làm khác được! Tại thời điểm đó, tình hình xã hội rất căng thẳng, không thể dung túng cho ai cả. Cuối cùng, Lênin nhận thấy rằng cần phải viết thư cho người lãnh đạo ban thanh lọc của Đảng A.A.Sonsư và Ba.A.Chaluski để xin cho cô. Lênin thấy có trách nhiệm cần phải làm cho ban thanh lọc rõ một việc là tạm thời chưa hiểu: "Nađêzđa Sécgâyépna Aliluêva tuổi còn non trẻ".
"Bản thân tôi đã quan sát Nađêzđa khi cô làm việc ở Cục quản lý sự vụ ủy ban nhân dân", Lênin viết trong thư, "Nói điều này có nghĩa là tôi rất hiểu Nađêzđa, tôi nhận thấy cần phải chỉ ra rằng, gia đình cô trong đó bao gồm bố, mẹ và 2 người con gái đã sớm tham gia cách mạng và tôi đã biết họ từ trước cách mạng tháng Mười. Đặc biệt là vào tháng 7 năm 1917, tôi và Zi-nô-vi-ép bị bao vây gắt gao, tình hình cực kỳ nguy hiểm. Lúc đó, chính gia đình cô đã che chở cho tôi. Họ luôn tin tưởng tuyệt đối vào những người Bônsêvích, họ không những che giấu chúng tôi, mà còn giúp chúng tôi rất nhiều trong các hoạt động bí mật. Không có họ, chúng tôi khó tránh khỏi được bàn tay của bọn mật thám.”
Thế là Đảng tịch của Nađêzđa được khôi phục lại. Năm 1921, cô sinh được cậu con trai Va-xi-li, và đó cũng chính là nguyên nhân "tham gia các hoạt động xã hội không đủ". Sau khi Lênin mất, cô chuyển sang công tác tại tạp chí "Cách mạng và văn hóa". Sau đó cô đi học tại trường Đại học công nghiệp, nhưng rồi lại bị triệu hồi về và được phái đến công tác tại ủy ban thị ủy Mátxcơva. Trong thời kỳ học tại trường Đại học công nghiệp cô học khoa sợi nhân tạo, cô được tín nhiệm bầu làm lớp trưởng.
Trong hồi ký của mình, Khơrútsốp có viết tỷ mỷ miêu tả những ngày tháng cô ở Đại học công nghiệp. Nói đến người vợ của Stalin, Khơrútsốp viết, tính cách của Nađêzđa hoàn toàn khác với tính cách của Stalin: "Khi Nađêzđa học tại Đại học công nghiệp, có rất ít người biết được cô là vợ của Stalin. Cô không bao giờ lợi dụng vị trí đặc biệt của mình, cô chưa bao giờ ngồi xe con để đến trường, hay ngồi xe con từ trường đến Điện Kremli. Đúng vậy, cô chưa từng bao giờ làm việc đó. Cô chỉ đi xe buýt mà thôi. Đối với mọi người ở trường học, cô không thể hiện một điều gì đặc biệt cả. Chỉ có vài người biết cô là vợ của Stalin. Nhìn nhận từ góc độ của cô mà nói thì cô là người không thích khoa trương mình trước mọi người. Cô được bạn bè trên thế giới, kể cả kẻ thù gọi là người vợ của "Nhân vật số một".
Xung quanh vấn đề tính cách của Nađêzđa và Stalin hoàn toàn không giống nhau đã được Bachanốp chứng thực. "Nađêzđa hoàn toàn không giống Stalin". Cô là một người rất tốt. Phẩm hạnh đoan trang, luôn thành thực với mọi người, tuy cô không xinh đẹp, nhưng cô có khuôn mặt lương thiện, hiền lành, chân thực, rất được mọi người mến mộ...
Khi tôi quen biết Nađêzđa, tôi có một cảm giác rằng, chung quanh cô trống rỗng như thiếu một cái gì. Vào lúc đó không biết vì sao cô không có bạn gái. Còn các bạn trai không ai dám đến gần. Nếu lỡ bị Stalin nghi ngờ thì sẽ chết không có đất chôn - tôi cảm thấy rất rõ ràng là vợ của Stalin cần có một nhu cầu cực kỳ đơn giản là được giao tiếp với mọi người...
... Cuộc sống gia đình của Nađêzđa rất khổ sở. Ở nhà, Stalin là chúa tể. Bởi vì trong khi làm việc, ông luôn phải tự kìm chế mình, do đó khi về đến nhà ông không bao giờ khách khí cả. Nađêzđa nhiều lần nói với tôi một cách thương tâm rằng: "ông ấy cứ lầm lì cả ngày chẳng nói câu gì, chẳng nói chuyện với ai, có người tìm ông cũng chẳng thèm quan tâm, ông là một người rất khó tiếp xúc". Nhưng tôi cố tránh nói chuyện với Stalin. Vì tôi đã sớm biết Stalin là người như thế nào. Thật đáng thương cho Nađêzđa khi cô bắt đầu phát hiện những hành động vô đạo đức, phi nhân tính của Stalin, hơn nữa cô lại tự mình không dám tin vào những điều mình đã phát hiện.
Cuộc sống riêng tư của một cá nhân, không còn nghi ngờ gì nữa, đầu tiên là nói về cuộc sống gia đình của người đó. Hiển nhiên, sau khi dời đến Mátxcơva, Nađêzđa đã nhanh chóng hiểu được điều này, trong cuộc sống của chồng cô, cô chỉ có vị trí rất nhỏ bé mà thôi. Bất kể là cô, hay đứa con trai của cô, Stalin cũng chẳng thèm quan tâm để ý đến. Trong ngôi nhà của ông ở Điện Kremli, thậm chí trong khu biệt thự thì lúc nào cũng đầy ắp khách khứa, những người thân, bạn bè và cả những người quen. Trong ngôi nhà tràn đầy tiếng cười của trẻ nhỏ - các bạn nhỏ hàng xóm luôn sang chơi đùa với Vaxili và Svetlana.
Năm 1919, gia đình Stalin được phân một ngôi biệt thự. Năm 1932, sau khi người vợ chết, ông đã thay đổi nơi ở trong Điện Kremli, và xây đựng một khu biệt thự mới ở Cônsôvô.
Do vậy Nađêzđa ngày ngày phải đi làm, con gái giao cho bảo mẫu trông coi, nhưng trong những ngày nghỉ, hoặc buổi tối, thì cô ra sức làm hết mọi việc, dành mọi sự quan tâm cho những đứa con của mình. Svetlana trong hồi ký của mình viết trước những năm 1929-1930, mẹ cô đều tự mình làm hết mọi việc nhà, tự đi mua thực phẩm, không nhờ đến người giúp việc. Trong mọi trường hợp, bà luôn giữ được trật tự, nền nếp gia đình. Bà không nhận bất kỳ sự giúp đỡ nào của các đội viên Chêka và nhân viên bảo vệ. Stalin chỉ có duy nhất một cảnh vệ luôn đi cùng xe với Stalin và không có liên can gì đến việc nhà của Stalin. Hơn nữa, nhân viên cảnh vệ này cũng không được đến gần nhà Stalin. Ngược lại, khi Stalin một mình lái xe đến Mátxcơva; ông thường không đem theo nhân viên bảo vệ mà đi một mình như bao người bình thường khác.
Vào mùa hè, ngôi biệt thự của vợ chồng Stalin luôn có nhiều người. Bukharin hay lui tới đó. Ông yêu thích mọi động vật ở đây. Ông thường chơi đùa với lũ trẻ, dạy bà bảo mẫu đi xe đạp và bắn súng hơi.
Blôngtai cũng đã ở đây trong một thời gian rất dài, tình bạn giữa ông và Stalin rất thắm thiết, vợ của họ cũng là những người bạn rất thân thiện với nhau. Buxiôngni mang đàn ác-coóc-đê-ông, còn Vôrôsilốp chỉ thích đàn hát theo, Stalin cũng ngẫu hứng hát theo. Tuy khi nói chuyện với nhau, thì họ nói rất bé, nhưng khi họ hát thì ngược lại, âm thanh cao vút, lời lẽ rõ ràng.
Tất cả mọi người trong nhà đều phải công nhận vai trò thủ lĩnh của nữ chủ nhân. Chỉ một mình Nađêzđa cũng có thể làm cho mọi tính cách khác nhau ở đây trở nên thân thiết, đoàn kết, làm cho mọi người luôn thuận hòa bên nhau. Rất nhiều người hiểu bà đã nhấn mạnh rằng, ở bà không những có một ma lực, sự thông minh, lòng hào hiệp với khách, mà còn có một ý chí kiên cường, phẩm chất đứng đắn. Đứng trước những sự việc mà bà cho là không thể thay đổi được, bà tuyệt nhiên không bao giờ chịu lùi bước. Khi nhấn mạnh đến tính cách độc lập của bà, mọi người thường đưa ra ví dụ sau: Năm 1927, giữa Stalin và Trôtxki nổ ra cuộc đấu tranh gay gắt. Sau khi Trôtxki và Zinôviép bị khai trừ khỏi Đảng, A.A.Giêfây ra mặt ủng hộ họ đã tự sát. Trong buổi lễ tang để đưa người xấu số về nơi an nghỉ cuối cùng, có cả Nađêzđa.
Nađêzđa có rất nhiều người thân, tất cả họ đều nhận được sự quan tâm của bà. Sau khi kết hôn, Stalin đã đón bố mẹ bà lên Mátxcơva. Năm 1932, sau khi Nađêzđa mất, bố cô luôn đóng cửa ở lỳ trong nhà. Sau đó ông chuyển đến ở với cô con gái lớn Anna. Sau này ông bắt đầu viết hồi ký và đã được xuất bản năm 1946. Nhưng ông không được xem cuốn hồi ký của mình vì ông đã mất vào năm 1945, thọ 80 tuổi. Vợ của ông cũng mất khi 76 tuổi. Sau khi đứa con gái út chết, hai cụ già lại bị phân đi đôi ngả, mỗi người lại đơn độc đón nhận những ngày cuối cùng của đời mình ở một nơi. Đúng vậy gia đình họ dã gặp hết sự đau buồn này đến sự đau buồn khác.
Vận hạn cứ liên tiếp rơi xuống gia đình ông, nó giống như đã được định đoạt sẵn. Sau khi Nađêzđa chết, vận hạn lại đổ lên đầu người anh trai của bà, Paven, và người chị dâu. Tính cách của Paven rất giống với Nađêzđa, rất yếu đuối, tình cảm và tin người. Nhưng điều mà mọi người không ngờ tới là anh lại xung phong vào bộ đội, trở thành một quân nhân, không phải là Paven tự lựa chọn con đường binh nghiệp mà chính quân đội đã chọn anh. Khi cách mạng bùng nổ và khi cuộc nội chiến nổ ra, anh phải cầm vũ khí và chiến đấu ở Tuốcghinixtan.
Sau cuộc nội chiến, theo chỉ thị của Lênin, Paven tham gia vào đội khảo sát Uvansep và được phái đến cực Bắc thăm dò khoáng sản, và tìm mỏ than. Anh không phải là nhà khoa học, mà là người phụ trách an ninh cho các nhà khoa học. Bằng việc khảo sát được mở quặng than và mỏ sắt có trữ lượng lớn, Paven và Uvansep là những người đã đặt nền móng cho vùng đất này.
Cuối năm 1920, anh được cử làm đại biểu quân sự và được đi thăm Đức. Sau khi về Mátxcơva, anh đã sáng lập ra cục quản lý xe tăng. Năm 1938, khi đi nghỉ về, trở về cương vị công tác cũ, anh đã không nhận ra được Cục quản lý xe tăng do mình sáng lập ra: khi Paven không có mặt ở đây, những nhân viên của anh ở cục đã bị bắt hết. Nhiều phòng làm việc bị niêm phong, cả hành lang không có lấy một tiếng động. Anh cảm thấy cơ thể mệt mỏi, và kết quả là anh đã bị chết vì bệnh tim trong khi đang ở phòng làm việc. Gần 10 năm sau, vào năm 1943, Bêria nghĩ tới cái chết đột ngột của Paven và đã lợi dụng việc này để gây khó dễ cho vợ của Paven, bà bị kết tội là đã hạ độc chồng và bị tù 10 năm, nhốt trong một phòng riêng, mãi đến năm 1954 mới được thả ra.
Cuộc đời của chị gái Anna cũng gặp bi kịch không kém. Anna cũng giống như Nađêzđa, cô lấy chồng từ rất sớm. Chồng cô là Rêtensư là một người Bônsêvích Ba Lan, bạn cũ của Chiêrenxki. Rêtensư đã từng công tác tại ủy ban tiễu trừ bọn phản cách mạng ở Ucraina và Grudia. Tại Tibilisi ông đã gặp Bêria.
Bêria không thích ông đã tìm đủ mọi cách để loại ông ra khỏi Grudia. Cuối cùng Bêria đã tìm được một lý do vô cùng xác đáng. Điều Rêtensư đến công tác tại ủy ban thanh trừng phản cách mạng ở Mátxcơva. Năm 1936, trong cuộc tuyển cử đại biểu Xô Viết tối cao đầu tiên, ông đã trúng cử. Nhưng đến năm 1938, sau khi bị Bêria điều đến công tác ở Mátxcơva, ông lại tiếp tục bị điều đi Kazắcxtan. Thế là cả nhà ông phải chuyển đến Alamutu - Kazắcxtan. Vừa dừng chân ở đó không lâu, ông lại bị triệu về Mátxcơva. Ông trở về Mátxcơva với một tâm trọng nặng trĩu. Tâm trạng này không phải là vô duyên cớ - Lần này, ông không còn trở về nhà được nữa.
Vợ ông đã mang con cái trở về Mátxcơva. Anna không hề tin rằng chồng mình lại là "kẻ thù của nhân dân". Lúc đó người anh trai Paven vẫn còn sống, Paven đã kiên trì biện hộ cho ông thậm chí vì việc này mà Paven đã cãi nhau cả với Stalin, nhưng Stalin không mảy may dao động. Đúng như Svetlana đã từng viết: "không ai có thể lay động được quyết định của cha". Nếu như Stalin muốn loại một người nào (kể cả những người quen) nếu ông đã coi ai là "kẻ thù” thì không ai có thể làm thay đổi được. Bất kể là Paven hay Aliôsa Sưvanítchơ cũng vậy mà thôi. Mà điều duy nhất mà họ được là mất đi cơ hội tiếp xúc với Stalin, mất đi sự tín nhiệm của Stalin. Sau lần gặp cuối cùng này, Stalin và hai người này đã chia tay nhau mỗi người một ngả, coi nhau như kẻ thù vậy. Rêtensư đã bị xử bắn, và chính Stalin con người tàn khốc và phũ phàng cũng đã tự mình báo tin này cho Anna vợ của Rêtensư. Từ đó về sau, Anna không bao giờ bước chân vào ngôi biệt thự của vợ chồng Stalin nữa, và càng không bao giờ thèm vào ngôi nhà của Stalin trong Điện Kremli nữa. Điều này đã làm cho ông bà Aliluép, bố mẹ của Anna vô cùng đau khổ và vì cái chết của con rể mà ông đã khóc không thành lời. Họ dự định đem hết những gì có thể để giúp cô con gái cả. Giống như tất cả những người thật thà khác, Anna ngây thơ, đã đi cầu cứu đến những người bạn cũ của chồng - Vôrôxilốp, Môlôtốp và Kaganôvích. Cô không tin là chồng cô đã bị xử bắn. Các bạn cũ của chồng cô đã tiếp cô rất tử tế, mời cô uống trà, ra sức an ủi cô, và họ cũng chỉ biết làm như vậy mà thôi. Không ai có thể giúp cô được.
Năm 1947, Anna đã cho xuất bản cuốn hồi ký "Cách mạng và gia đình Aliluép". Sau khi đọc cuốn sách này, Stalin đã nổi trận lôi đình. Viện sỹ Phêđôxiép thuộc viện khoa học đã đột nhiên đăng một bài có tính chất hủy diệt bình luận trên báo "Sự thật". Trong bài viết ông đã dùng những lời lẽ sắc bén và dự đoán được một cách đúng đắn là bài bình luận này đã lấy lời của ai làm dẫn chứng. Ngoài Anna ra, tất cả mọi người đều kinh hãi lo sợ, Anna không chú ý đến sự gào thét này, mà còn dự định sẽ viết tiếp hồi ký. Nhưng ý nguyện của cô đã không thành. Năm 1948, cô và vợ góa của Paven đã bị xử 10 năm tù giam. Năm 1954 cô được thả khỏi nhà ngục, cô đã không thể nhận ra người con của mình đã lớn thế này, cả ngày cô ngồi ngây ra ở trong phòng, lạnh lùng với tất cả mọi tin tức ở xung quanh; tin Stalin chết, tin kẻ thù số một của gia đình cô - Bêria cũng đã chết. Bệnh thần kinh phân liệt đang hành hạ Anna. Năm 1964 Anna chết trong bệnh viện. Sau 10 năm biệt giam, cô luôn sợ hãi cánh cửa nhà tù. Trong bệnh viện, cho dù cô đã nhiều lần đề nghị, nhưng cánh cửa phòng cô vẫn bị khóa suốt đêm. Vào buổi sáng ngày thứ 2, người ta đã phát hiện cô đã chết trong phòng bệnh. Cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời, cô vẫn luôn tin rằng Rêtensư vẫn còn sống, cho dù cô đã nhận được giấy báo chính thức sửa sai cho chồng mình.
Vận hạn vẫn cứ bám đuổi triền miên đối với gia tộc Aliluép, trước khi diễn ra bi kịch của Nađêzđa, số phận đã đón anh trai Phêđon của bà đi rồi. Phêđon là một người thanh niên rất đa tài, anh đặc biệt thích những môn như toán học, hóa học, vật lý. Do có tài năng xuất chúng, ngay từ trước cách mạng anh đã được vào học ở trường sỹ quan Hải quân Nga. Ngay từ ngày còn ở Tibilisi đã quen Khamua, bố mẹ của Phêđon, đã mang Phêđon về ở với mình. Khamua và bạn bè của anh có thể chịu đựng được những điều mà người khác không thể chịu được. Bản thân Phêđon cũng không chịu được. Và anh là một chàng trai thông minh lương thiện, nhưng về mặt tinh thần thì lại thật đáng buồn. Phêđon bị điên. Có người nói rằng, Khamua thích thử thách các chiến sĩ của mình. Có một lần, anh đã đạo diễn một trận tập kích giả cho bộ đội. Lúc đó tất cả bộ đội chạy tán loạn, nhưng họ đều bị bắt và trói lại hết. Trên đất là thi thể đầy máu của viên chỉ huy, bên cạnh là quả tim của ông ta, máu dường như còn chưa đông. Trong tình cảnh như vậy, các chiến sĩ bị bắt làm tù binh phải làm thế nào? Do thần kinh bị kích thích quá mạnh Phêđon đã trở thành nửa tàn phế. Cả đời anh ta chẳng thể làm việc được nữa, chỉ nhận tiền phụ cấp. Anh đã trở thành vật hy sinh của cách mạng, đối với cuộc cách mạng này, anh đã hiến trọn tuổi thanh xuân, sức khoẻ và tài hoa của mình. Nhưng có ai biết được rằng nếu để anh công tác trong một văn phòng thì chắc chắn anh sẽ hữu ích hơn nhiều còn hơn là để anh ra chiến trường. Nhưng ai có thể nắm được vận mệnh của mình? Phêđon đã bị đưa ra nơi chiến trường nơi mũi tên hòn đạn.
Về cảnh ngộ của Aliôsa trong báo cáo tại Đại hội 22 của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Khơrútsốp viết rằng: Người Bônsêvích lão thành này của khu vực Cápcadơ sau khi xử bắn, thì tên của ông không còn trong ký ức của mọi người nữa, tên tuổi của ông trong các sách giáo khoa trên các tờ báo đều bị xóa bỏ hết. Cái tên "Aliôsa" chỉ là tên giả dùng trong Đảng, còn tên thật của ông ta là Alếchxanđrơ Sômianôvích Blôngtai.
Alếchxanđrơ là anh trai của vợ thứ nhất của Stalin, một người đã được giáo dục rất cơ bản tại Châu Âu. Trước cách mạng đã được sự hỗ trợ của Đảng, Alếchxanđrơ đã được gửi đến học ở Đại học Zêna. Ông thông thạo nhiều ngôn ngữ phương Đông và phương Tây, nắm được các kiến thức về kinh tế nhất là về mặt nghiệp vụ Tài chính. Khi đại chiến thế giới lần nhất bùng nổ, ông đang du học tại Đức, và đã bị bắt giam. Sau khi cách mạng Nga bùng nổ, ông được gọi về nước. Khi trở về Grudia, ông trở thành ủy viên Trung ương, phụ trách Bộ tài chính nước Cộng hòa. Vợ của ông - Maria xuất thân trong một gia đình giàu có, đã tốt nghiệp Học viện âm nhạc Tibilisi và Trường dòng cao cấp ở Pêtécbua, là diễn viên ca hát trong đoàn kịch Grudia. Họ đã đặt tên cho con trai mình là Giônsơnritơ, để kỷ niệm một nhà báo Mỹ là Giônsơnritơ đã gặp cảnh không may. Alếchxanđrơ không giữ chức vụ gì cao ở trong Đảng cả. Lĩnh vực hoạt động của ông là ngành tài chính tiền tệ. Ông từng công tác tại Béclin, Luân đôn, Giơnevơ. Mấy năm cuối cùng trước khi bị bắt, ông là người lãnh đạo Ngân hàng ngoại thương Mátxcơva. Làn sóng đàn áp phũ phàng lúc đó đã cuốn ông vào dòng xoáy đẫm máu. Năm 1937, sau cái chết của Rêtensư, ông cũng bị bắt, ông không thừa nhận bất kỳ một tội nào buộc cho ông, cũng không cầu cứu sự giúp đỡ của Stalin (cho dù 2 người chơi rất thân với nhau từ nhỏ). Đồng thời với việc ông bị bắt, vợ ông, bà Maria cũng bị bắt. Hai người đều bị kết án 10 năm tù và họ bị giam ở hai trại tập trung khác nhau. Đứa con của họ Giônsơnritơ được giao cho người thày giáo cũ trông nom, điều này đã cứu được mạng sống của đứa trẻ. Người thầy giáo này hiện nay công tác tại Nhà máy sản xuất máy khâu. Svétlanna đã chứng thực điều này. Anh trai của cô là Yakốp có ý định đón cậu bé về nhà mình nhưng vấp phải sự phản đối của bà vợ, bà này nói, Giônsơnritơ còn có người họ gần hơn, nhưng Giônsơnritơ không còn ai có họ gần hơn nữa. Vì cô em Malicốp (Em của Alêchxanđrơ Smaonốp Sưvanitchơ cũng bị bắt và chết trong tù. Bác (Anh của Maria) cũng bị bắt giam. Trước đây Maria đã từng hy vọng nhờ vào sự trông nom của người anh.
Cảnh ngộ Aliôsa và vợ anh cũng thật đáng sợ. Năm 1942, Aliôsa đã bị xử bắn lúc 60 tuổi. Vừa nghe tin này, người vợ ngã lăn ra đất, bị nhồi máu cơ tim và chết.
Voncôgơnôp chỉ ra rằng, bi kịch của đứa con cả làm cho tinh thần của Stalin bất an, nhưng ông càng lo sợ hơn khi thanh danh của mình bị tổn thương. Sự quan tâm của ông đối với cậu con trai, chỉ là nằm trong giới hạn lo sợ tổn hại tới thanh danh của ông. Sự bạc tình phụ nghĩa của Stalin khiến vợ ông phải trả giá bằng sinh mạng và cũng làm cho con gái gặp nhiều điều trắc trở.
Trong hồi ký của Svétlanna có viết: Bố cô có thái độ đối xử vô cùng lạnh nhạt đối với người anh trai, điều này thật không công bằng, cũng vì điều đó mà anh ấy đã vô cùng đau khổ. Anh ấy đã sống một thời gian dài ở Tibilixi cùng với người em gái của mẹ, bà Alếchxanđrơ. Sau này khi khôn lớn, do sự kiên quyết của bác Alếchxanđrơ, cuối cùng anh cũng được lên Mátxcơva học tập. Yacốp nhỏ hơn người mẹ kế 7 tuổi. Người mẹ kế này làm rất nhiều công việc chính bà đã làm thay đổi cuộc sống không thoải mái của Yacốp. Khi mẹ mất, lúc đó Yacốp mới 2 tuổi. Rõ ràng là tính cách của anh giống mẹ chứ không giống bố, không phải là người ham thích công danh, tính hay cáu, thô lỗ, còn cha anh luôn bảo anh là kẻ nhu nhược.
Khi Yacốp quyết định kết hôn, cha anh cũng chẳng buồn nghe đến việc này. Ông cũng chẳng muốn giúp đỡ anh, hành động này của cha khiến anh rất giận dữ, trong lúc không kìm chế được, anh đã có ý định tự sát. Nhưng thật may làm sao, viên đạn không vào người, Yacốp vẫn sống nhưng chỉ nằm ỳ ở giường, không dậy. Sau khi biết được việc này, chính Stalin đã mắng thẳng vào mặt Yacốp: "Hà hà, chết hụt hả?". Vậy là quan hệ giữa hai cha con đã hoàn toàn bị phá vỡ. Sau đó Yacốp đến sống tại nhà của Aliluép ở Lêningrát và làm việc với cương vị là một công trình sư. Anh đã tốt nghiệp Học viện vận tải công trình đường sắt Mátxcơva.
Năm 1935, Yacốp đến Mátxcơva vào học tại Học viện pháo binh. Việc này là theo nguyện vọng của người cha muốn anh trở thành một quân nhân. Anh có một cuộc sống tự lập, lần kết hôn thứ nhất cũng là kết hôn bị thất bại. Lần kết hôn thứ hai cũng không nhận được sự đồng tình của Stalin. Sau này khi hiểu được thái độ của cha, Yacốp rất ít đến chỗ Stalin, trong lòng chỉ còn một cảm giác là luôn phải đề phòng với cha mình mà thôi. Quan hệ của hai cha con hoàn toàn không thể hòa hợp, rất khó có thể làm cho họ xích lại gần nhau được.
Sau khi chiến tranh bùng nổ được hai ngày, Yacốp liền đi ra tiền tuyến. Đơn vị của anh được điều động tới Bêlarútxia, xe tăng của quân địch lúc này đã thọc sâu vào giới tuyến của Bêlarútxia. Rất nhanh, không có tin tức gì về Yacốp nữa, anh đã bị mất tích, sau này mới rõ rằng anh bị bắt làm tù binh, con trai cua Stalin tỏ ra là một người rất kiên cường vượt quá cả sức tưởng tượng của Stalin. Trong trại tập trung của quân Đức, Yacốp đã phải chịu một cuộc sống cực kỳ khổ sở, nhưng anh quyết không bao giờ chịu đầu hàng quân địch.
Stalin đã từng lo sợ quân dịch sẽ lợi dụng Yacốp để đạt được mục đích tuyên truyền. Nhưng những lo lắng này là không có cơ sở. Thế nhưng Stalin đã hạ lệnh bắt Yuria, vợ của Yacốp. Mùa xuân năm 1943, mọi việc đã được làm sáng tỏ.
Điều bất hạnh của Yuria và Yacốp không có liên quan gì với nhau. Hơn nữa những biểu hiện của Yacốp tại trại tập trung đã làm cho mọi người tin rằng, anh không đánh mất nhân cách, hơn nữa đã rất dũng cảm đối mặt với cái chết. Đến lúc đó, Yuria mới được thả ra khỏi nhà tù. Thì ra, trong lòng Stalin nghi ngờ có thể kẻ đã bán rẻ Yacốp và ông đã nghi ngờ chính Yuria có liên quan đến vụ việc này.
Svétlanna nói, mùa Đông năm 1943-1944, Mặt trận Stalingrat đã kết thúc, trong một cuộc gặp mặt hiếm hoi với Stalin, Stalin đột nhiên nói với cô rằng, "người Đức đề nghị đổi Yasa (tên của Ycacôp) lấy người của họ... ta nên mua bán với họ thế nào đây? Không thể được đã là chiến trường thì cứ để nó là chiến trường”. Svétlanna tiếp: "Như vậy, nếu có thả Yasa, thì hãy để anh tự xếp đặt vận mệnh của mình... cách làm này rất phù hợp với tính tình của cha, ông đã cự tuyệt mọi lời thỉnh cầu. Ông đã dễ dàng quên chúng coi như không có chúng ở trên đời này vậy".
Cuộc đời của Vaxili cũng chẳng hơn gì. Trong nhật ký của vận động viên bóng đá nổi tiếng Starôkhin có viết, khi Vaxili Stalin 18 tuổi, cậu đã được mang quân hàm cấp tướng. Điều này thật không đúng. Trong hồ sơ cá nhân của Trung tướng Vaxili Stalin chứng thực rằng, khi nổ ra chiến tranh, anh ta lúc đó 20 tuổi mới là đại uý sau đó anh ta được đề bạt là thượng tá, bốn năm sau anh trở thành thiếu tướng và chỉ 1 năm sau lại được thăng lên trung tướng.
Điều này cũng dễ hiểu, Vaxili cứ liên tục được người ta kéo lên, còn năng lực của anh như thế nào, tài năng ra sao, có tồn tại khuyết điểm gì không, thì chẳng thấy ai hỏi han gì đến. Đó chẳng qua là họ ra sức nịnh cha của anh mà thôi. Vận động viên này chỉ rõ, vị tướng quân trẻ tuổi nhất thế giới này là một người bị trúng độc rượu mãn tính. Trong khoảng thời gian từ 7 giờ sáng đến 8 giờ sáng đầu óc anh ta luôn tỉnh táo lúc đó còn có thể làm việc với anh ta được. Sau đó anh ta dặn dò người giúp việc: "Mang ra đây nhanh lên". Mọi người đều biết anh ta nói mang ra cái gì. Người ta đưa đến chai Vốtka và 3 miếng dưa hấu, đó là những thứ mà anh ta thích. Ngoài cái đó ra, anh ta không ăn gì khác. Một bọn người luôn vây quanh anh chỉ vì trục lợi cho mình: được chia nhà, được đề bạt... Xung quanh những giai thoại về Vaxili, người ta viết, chỉ cần anh ta đồng ý tiếp anh, thì nhất định anh ta sẽ giúp. Bọn người này chuyên dùng mánh khoé thông thường là lợi dụng anh ta, để có những yêu cầu mà anh ta đáp ứng một cách rất ngây thơ. Người phó của Vaxili nhấc điện thoại rồi ra lệnh bằng miệng rằng "hiện nay tướng quân Stalin cần nói chuyện với anh đấy" Nghe thấy cái tên đó trong điện thoại người nghe điện phải ngẩn người ra sau khi trấn tĩnh lại thì họ biết rằng vấn đề thực tế đã được giải quyết, Vaxili rất thích được đóng vai chúa tể, về điểm này thì anh ta giống như cha mình. Do không chịu rèn luyện thói quen cần phải động não trong công việc, nên anh ta luôn cảm thấy không hứng thú đối với các việc quốc gia đại sự.
Vaxili có tất cả: ô tô, ngựa tốt, chó săn, biệt thự sang trọng. Trong ngôi biệt thự, anh có đủ thứ đồ uống quý hiếm trên thế giới. Anh có quyền chi rất nhiều tiền. Nhưng anh lại không biết được giá trị của đồng tiền. Cuộc sống của anh cực kỳ phóng đãng hà khắc nhưng lại luôn xử sự không công bằng với đồng nghiệp và thủ trưởng. Thường bức hại họ, thậm chí còn giam họ vào trong ngục. Tất cả những điều đó đã làm hại anh ta rất nhiều. Sau khi người cha chết được 21 ngày, trung tướng Vaxili bị cách chức. Năm đó anh 32 tuổi, anh không còn được mặc quân phục nữa. Sau này Vaxili bị bắt, giam tại Kêsăn và đã chết ở đó, để lại 4 bà vợ và 7 người con.
Không thể không đồng ý với quan điểm của Voncôgơnôp. Việc này ông nhấn mạnh rằng, thông qua cuộc sống phóng đãng cũng là bất hạnh của Vaxili đã làm cho mọi người tin rằng: việc cố ý lạm dụng chức quyền thì cũng có nghĩa là hủy hoại tất cả những người xung quanh mình, trong đó kể cả với con cái mình, điều này có nhiều ví dụ trong lịch sử. Các hoàng đế La Mã, sau khi ở ngôi cao nhất của quyền lực, thì đằng sau họ là những đứa con tinh thần uể uải, thể lực giảm sút. Stalin - Người được ca ngợi là "Lãnh tụ của mọi dân tộc trong mọi thời đại" đã khôn khéo dùng tinh thần của chủ nghĩa yêu nước để giáo dục cô con gái được ông yêu quý nhất là Svétlanna. Cô con gái bất hạnh này đã kết hôn tới 4 lần, lần kết hôn nào của cô cũng thất bại, trong đó có 2 lần kết hôn với người ngoại quốc. Stalin rất khó lý giải một sở thích có thể gọi là bệnh hoạn, là cứ muốn tống giam những người thân của mình vào trong ngục tù. Cha của người chồng thứ nhất của Svétlanna đã phải chịu số phận như vậy. Trước đó, vận hạn này cũng không bỏ qua Aya Kapuren nhà đạo diễn điện ảnh kiêm nhà báo rất nổi tiếng này. Ông đã được cô con gái của Stalin đang học trung học theo đuổi. Trong khi nói chuyện điện thoại cô đã bị người khác nghe trộm và báo cáo lại với cha cô. Ông gọi điện liền bị bắt và bị xử tù 5 năm, sau đó ông lại bị gia hạn giam thêm 5 năm nữa trong một trại tập trung, đáng sợ ở gần Antai.
Đối với người chồng thứ nhất của Svétlanna, Stalin không thèm nhìn mặt. Ông nói chắc như đinh đóng cột rằng, con người này sẽ không tồn tại được. Stalin đã không nuốt lời.
Ông luôn cho rằng ở đâu cũng có kẻ thù. Điều này chính là do tâm tư trống rỗng, cuộc sống cô độc đã tạo nên như vậy. Cô con gái đã từng chất vấn ông về việc năm 1948 bác và dì đã mắc tội gì, mà phải chịu giam trong ngục. Đối mặt với vấn đề này của con gái, Stalin đã trả lời: "Họ đã nghe thấy quá nhiều, biết được quá nhiều và họ cũng nói quá nhiều. Tất cả những điều đó chỉ có lợi cho kẻ thù...".
Vậy nguyên nhân nào đã tạo ra cục diện như vậy. Phó tiến sỹ y khoa F.Đ.Tôbôriăngxki đã đăng một bài báo trên tờ "Tia lửa" thuật lại những việc có liên quan đến cái chết "bí mật" của nhà thần kinh học Biêkhơchiêliôp. Sau Đại hội Đại biểu các nhà thần kinh học toàn Liên Xô lần thứ nhất kết thúc năm 1927, ông đã bị chết tại Mátxcơva. Trong giới y học Liên Xô khi đó, nói đến một người cơ thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, họ thường có một hình dung như sau: "ông lao động không biết mệt mỏi, nhưng rồi cũng giống như Biêkhơchiêliôp thôi". Ông đã được thế giới công nhận là một học giả lớn không ham mê vui nhộn tiêu khiển, không chịu nghỉ ngơi, hoạt động không mệt mỏi, mỗi ngày ông làm việc ước chừng 18 tiếng đồng hồ. Một con người như thế mà đột nhiên bị chết "một cách bất ngờ” về bệnh dạ dày không phải là chết trong bệnh viện, mà chết ở trong nhà của người khác. Việc mắc bệnh của ông hình như có liên quan đến việc ông xem triển lãm ở một rạp hát nhỏ. Sau khi đi tham quan xong, dường như ông có dự buổi chiêu đãi đã định trước, ông đã ăn điểm tâm, uống trà ở đó.
Xung quanh cách nhìn nhận đã lưu truyền cho đến gần những năm 70 thì ông bị người ta hạ độc khi ông điểm tâm ở đó. Cách nhận định này vẫn cứ đeo đẳng mãi trong tâm trí của các bác sỹ tâm lý học từ đời nọ sang đời kia. F.Đ.Toboriăngski cho rằng, cách nhìn nhận này có thể là chính xác, ông dựa vào báo chí xuất bản từ năm 1927. Vào năm đó thì đây là một việc gây chấn động trong giới báo chí. Có một chứng cứ rất thuyết phục là thi thể của viện sĩ đã không được phẫu thuật để nghiên cứu bệnh lý. Điều này là mâu thuẫn với quy định của thời đó. Bởi vì quy định lúc đó là, đối với thi hài của những người đột tử thì cần phải tiến hành mổ pháp y. Thế mà việc nhanh chóng quyết định xử lý thi hài bằng cách hỏa thiêu thật nằm ngoài dự liệu của mọi người. Hơn nữa, không biết xuất phát từ ý nghĩ nào mà thi hài của ông không được hỏa thiêu ở Lêningrát, tại nơi cư trú của ông trước khi chết, mà lại đem hỏa thiêu ở Mátxcơva nơi ông chết. Ngoài ra người ta mổ thi hài ngay tại nhà ông và lấy óc của ông để giao cho việc nghiên cứu phẫu thuật xử lý tạm thời bảo quản, cách làm này từ trước đến nay thật chưa hề có.
Vì sao lại phải làm gấp gáp như vậy? Năm 1927, cơ bắp ở cánh tay trái của Stalin tiếp tục bị đau, các nghiên cứu viên thuộc phòng nghiên cứu thần kinh học Đại học Mátxcơva, chủ nhiệm khoa Khơlamen đã tiến hành kiểm tra cho ông. Công việc chuẩn đoán thật phức tạp, việc điều trị cũng tốn nhiều công phu. Chủ nhiệm khoa đã mời Viện sĩ Biêkhơchiêliôp tới hội chẩn. Stalin do dự không quyết. Nhưng ông đã nhớ lại, chính Viện sĩ này là người đã từng chữa bệnh cho Lênin. Trung tuần tháng 12, Stalin đã đồng ý với đề nghị của Khơlamen. Ông đã gọi điện thoại cho Viện sĩ Biêkhơchiêhôp nói rằng, khi nào đến Mátxcơva hãy gọi điện cho ông ta.
Trong mấy ngày liền, hai người rất bận rộn với mọi công việc. Họ dự định thời gian để hội chẩn tất nhất là vào buổi chiều ngày 22 hoặc ngày 23 tháng 12. Không loại trừ khả năng viện sĩ sẽ tiến hành kiểm tra cho Stalin 2 lần. Cuộc nói chuyện giữa một bác sĩ Viện sĩ danh tiếng và một bệnh nhân cực kỳ đài các đã được tiến hành thế nào, thì không thể biết được. Nhưng có thể khẳng định được rằng, người được coi là một bác sỹ tâm lý kiệt xuất, khi đứng trước bệnh nhân chỉ có thể nói những lời tán dương. Nhưng ông đã đưa ra một lời chẩn đoán khiến mọi người kinh hoàng, đó là bệnh điên. Ông đã cho thông báo mời các bác sĩ tới hội chẩn cùng mình, rồi ông đi vào xem hát.
Stalin đã bằng cách nào để nghe được kết luận của Viện sĩ vậy, điều này cũng chẳng thể ai biết được. Nhưng qua việc này thì cái chết của Viện sĩ đã được định sẵn, và việc đưa ra kết luận trong chẩn đoán của ông ta là bí mật của quốc gia. Stalin đã biết rất rõ rằng, nếu như kết luận này mà lọt vào tay của phái đối lập, thì chắc chắn sẽ cực kỳ nguy hiểm. Chúng ta cần biết rằng, Viện sĩ là thành viên của đại biểu Xô Viết tối cao Thành phố Lêningrát, ông hoàn toàn có thể đem tin tức này báo cáo với Zinôviép. Điều này chắc chắn sẽ làm cho Stalin rất giận dữ. Khái niệm bệnh "điên" mà Viện sĩ nói tới có hàm ý gì? Cần biết nguyên bản của từ này theo nghĩa gốc tiếng Hy Lạp có nghĩa là biểu thị sự nghiêm trọng, bệnh thần kinh, nói năng lung tung. Từ này cũng có thể dùng để chỉ một loại trạng thái tâm lý đặc biệt, tức là muốn tạo ra một tư tưởng được gọi là cực kỳ quý giá, mà điều đầu tiên là tư tưởng về tác dụng đặc biệt của cá nhân. F.Đ.Toboriăngski cho rằng, rất có khả năng là, khi nói đến căn bệnh này, viện sĩ muốn chỉ một trạng thái tâm lý có thể duy trì được năng lực hành vi logích.
Đồng thời, mọi người không thể không đồng ý với cách nhìn nhận của F.Đ.Toboriăngski không có bệnh án, cũng chẳng có tài liệu lưu trữ để xác định sự thật, do vậy rất khó xác định kết luận của viện sĩ có đúng hay không. Cho dù...
Bây giờ chúng ta cùng quay lại xem một chút trong hồi ký của Svetlanna. Trong khi miêu tả quang cảnh buổi lễ an táng của mẹ cô, Svétlanna đã nói rằng, cái chết của mẹ cô đã làm cho cha cô vô cùng tức giận. Khi tham dự vào lễ truy điệu, đến để từ biệt bà, ông đã đến đứng trước quan tài, dùng 2 tay đẩy quan tài ra, rồi quay ngoặt người đi. Ông không đi tới mộ. Ông cho rằng cái chết của vợ là sự phản bội lại ông, ông không có lỗi trong cái chết của vợ.
Bây giờ chúng ta cùng trực tiếp xem xét cái chết của Nađêzđa.Về không khí trong gia đình Stalin, thì rất nhiều cảnh ngộ bi thảm của những người thân đã được nói đến, mà cảm giác chính xuyên suốt là câu chuyện ngoài lề. Nhưng những tình tiết này đã biểu hiện đặc điểm cử chỉ, hành vi của Stalin, người được coi là chồng, là cha, và không làm rõ các tình tiết này là không được. Bởi vì, chính những tình tiết này là căn nguyên bi kịch của gia đình Stalin vào đêm ngày 8 tháng 11 năm 1932.
Trước khi xảy ra bi kịch này đã xảy ra việc gì? Nhìn từ bên ngoài dường như chẳng thấy có việc gì xảy ra cả. Nhưng theo lời của Nađêzđa thì bà là người hiểu rất rõ mọi vấn đề. Bà có lòng tự tin cực kỳ mãnh liệt. Bà không thích thừa nhận là mình không tốt. Do vậy, mẹ của bà và Anna chị của bà rất ghét bà. Họ là những người phụ nữ rất thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy.
Bà ngoại của Svétlann nói với cô rằng, trước khi mẹ cô chết một thời gian, bà đã rất buồn khổ và rất dễ nổi cáu. Có một lần, một người bạn cũ từ thời trung học đến thăm bà, họ đã ở trong phòng của bọn trẻ để nói chuyện, nhưng bà đã nghe thấy mẹ cô nói rằng: "Mọi cái đều chán cả", “làm sao có thể vui vẻ được?". Bạn của bà hỏi rằng: "Nói như vậy là những đứa con của chị cũng không thể làm cho chị vui được sao?". "Con cũng chẳng thể làm được" Nađêzđa nhắc lại. Thế đấy! Cuộc sống quả thật là thế...
Trước đó phải chăng trong gia đình vợ chồng Stalin đã nảy sinh mâu thuẫn gì, nguồn tin duy nhất về vấn đề này hiện nay chỉ có ở trong thư của Svétlanna. Ví dụ như Svétlanna dẫn lời của bà bác khẳng định, trong mấy năm cuối cùng của đời mình, trong đầu óc của mẹ tôi, luôn có ý nghĩ sẽ dời bỏ cha tôi. Anna nói tiếp, em gái bà là một "tín đồ tôn giáo chịu nhiều đau khổ”. Stalin đối với vợ quá cứng nhắc, quá thô bạo, không coi vợ ra cái gì, làm cho bà tức giận vô cùng. Vì bà quá yêu ông. Năm 1926, giữa hai người đã xảy ra một cuộc cãi vã, bà đã tức giận dẫn con và bà vú nuôi về ở với ông ngoại ở thành phố Lêningrát, bà không muốn quay trở về nhà nữa. Bà có dự định sẽ chuyển công tác về thành phố Lêningrát, từng bước tự xây dựng cho mình một cuộc sống riêng. Lần cãi vã đó là do thái độ thô bạo của Stalin. Nguyên nhân sự việc thì chẳng thấy có gì là nghiêm trọng, nhưng tất cả là do sự phẫn nộ đã được tích luỹ từ lâu. Sau một thời gian, Stalin đã gọi điện thoại cho Nađêzđa nói rằng, ông muốn "hòa giải" cùng bà. Và Nađêzđa lại tự mình mang con trở về Mátxcơva.
Vẫn dẫn lời của bà bác, Svétlanna viết, mấy tuần cuối trước khi Nađêzđa tốt nghiệp đã có kế hoạch đi đến nhà bà chị ở Kháccốp, khi đó Retensư đang làm việc ở đó. Nađêzđa muốn làm việc và sống ở đó. Bà tỏ ra rất kiên quyết với cách nghĩ đó, bà muốn thoát khỏi “địa vị cao quý” của mình. Dùng lời của con gái bà, Svétlann nói cái địa vị này đối với mẹ tôi chẳng qua là một sức ép mà thôi. Nađêzđa không phải là loại phụ nữ thích thực dụng như vậy. Địa vị cao quý của bà có thể đem lại cho bà tất cả, nhưng đối với bà thì nó tuyệt nhiên chẳng có ý nghĩa gì. Người ta nói rằng, người phụ nữ ở tầng lớp cao nhất phải có đầu óc tỉnh táo, thấu hiểu đạo lý, còn Nađêzđa cảm thấy phiền muộn nhất, buồn khổ nhất là không có đạo lý ấy. Bất kỳ một người phụ nữ nào trong số họ muốn số phận mình có được một địa vị cao quý thì phải cam chịu chấp nhận hết.
"Toàn bộ vấn đề là ở chỗ mẹ tôi luôn có những lý giải về cuộc sống của mình, và luôn kiên trì những lý giải đó” , Svétlana viết, cô có ý thử phân tích xem nguyên nhân tâm lý dẫn tới bi kịch của mẹ cô đêm hôm đó. "Thoả hiệp, nhượng bộ, điều này không phù hợp với tính cách của bà. Bà thuộc lớp người trẻ của cách mạng, tức là những người lao động hăng hái của những kế hoạch 5 năm đầu. Họ là những con người xây dựng trung thực của cuộc sông mới, là con người của thời đại mới.
Họ luôn tin rằng, mình là người mới được cách mạng giải phóng thoát khỏi những phong tục tập quán dung tục cũ. Họ tin tưởng một cách chắc chắn mình có thể xây dựng lý tưởng mới của con người mới trong thời đại mới. Hoài bão của bà là lý tưởng cách mạng, bà toàn tâm toàn ý tin tưởng vào lý tưởng đã lựa chọn. Lúc đó, bên cạnh mẹ tôi đã có rất nhiều người dùng hành động thực tế để ủng hộ niềm tin của mẹ tôi. Đối với mẹ tôi thì cha tôi đã từng là một con người mới lý tưởng nhất trong số những người mới đó. Lúc đó trong con mắt của cô nữ sinh trung học trẻ tuổi này, cha tôi là một "nhà cách mạng kiên cường bất khuất". Vừa mới từ nhà tù Sibêri về và là người bạn của ông bà tôi. Ấn tượng này đã đọng lại trong lòng mẹ tôi một thời gian dài, nhưng không phải là vĩnh viễn không thay đổi...
Tôi nghĩ, chính bởi vì mẹ tôi là người phụ nữ thông minh, rất thẳng thắn, nên cuối cùng bà đã ý thức được rằng, cha tôi chẳng phải là người giống như hồi trẻ mẹ tôi đã nhận định, bà cảm thấy có một cảm giác sợ hãi và tuyệt vọng vô cùng”.
Thật đáng tiếc là trong mùa Thu đó, những người thân thấu hiểu được tâm tính của Nađêzđa thì lại không có mặt bên cạnh ba. Gia đình Paven, anh trai của bà ở Beclin, còn chị Anna và anh rể ở Kháccốp, bố ở Sôchi.
Đêm ngày 8 sáng ngày 9 tháng 11 năm 1932, cuối cùng đã xảy ra việc gì? Đ.A.Voncôgơnôp cảm thấy vô cùng bi quan. Ông cho rằng, đây là một bí mật, một bí mật khó có thể hoàn toàn công khai. Những tuyên bố và những nhận định của chính giới mà người ta đã biết, nhưng bất kể có cách nói thế nào, thì cũng khó làm cho mọi người có thể tìm được. Trước đó không lâu, các nhân viên khi nghiên cứu tài liệu đã phát hiện ra một văn bản vô cùng thú vị. Đó là một bức thư đề nghị của Calinin. Nội dung bức thư đó đề nghị tha cho một nữ tù nhân bị giam trong tại trung Sôlốpca. Người tù nhân này tên là Alếchxăngđra Carinnốpna Cônsakmna. Bức thư đó được viết bằng bút chì màu, và viết trên mấy tờ giấy của học sinh, đề ngày 22 tháng 10 năm 1935.
Trong bức thư nói, Cônsakinna là đảng viên đã từng làm việc cho gia đình Stalin 5 năm. Một người tù tên là Sinhierôbúp trước đây đã từng công tác tại Điện Kremli khai rằng, Cônsakina nói, hình như Stalin đã dùng súng giết chết Nađêzđa. Thế là Cônsakinna bị bắt. Trong bức thư đó Cônsakinna không kiên quyết phủ nhận sự thực này, và dẫn lời của cơ quan nhà nước rằng, chủ nhân của tôi, đã chết vì "bị nhồi máu cơ tim". Trong bức thư cũng có nhắc đến Buncôva, Sênhéplôbốp, chồng của Cônsakinna, vệ sỹ Grômây. Ngoài ra còn có một bí thư chi bộ Đảng nữa đến có hỏi dò bà giúp việc, vì sao báo chí lại không nói tới, nguyên nhân cái chết của Nađêzđa? Từ nội dung trong bức thư đề nghị, ta có thể thấy rõ, những nhận định của các cơ quan nhà nước xung quanh cái chết của Nađêzđa làm cho nhiều người không thỏa mãn. Huống hồ Cônsakinna lại viết rằng, trong đêm Nađêzđa chết, thì Stalin có trở về ngôi nhà trong Điện Kremli. Như vậy là ông về theo vợ. Một nhà sử học nổi tiếng đã đưa ra kết luận, rất có thể những cách đánh giá này đã đến tai Stalin, ông cảm thấy lo sợ, nên đã quyết định không những phải trừ khử Cônsakinna, mà phải thông qua việc bắt Cônsakinna để bịt miệng tất cả những người nào biết về cái chết của vợ mình, việc mà Stalin cần làm bà phải bịt mồm những người đó lại.
Cuối năm 1935, đầu năm 1936, toà án đã xét xử Cônsakinna theo ý của Stalin. Trong bức thư đề nghị gửi cho Kalinin, Cônsakinna viết, trinh sát viên Khacăng đã dọa bà, ép bà phải nhận tội. Sau đó, chẳng cần qua xét xử, bà đã bị đi đầy ở trại tập trung Sôlôpca. Đằng sau bức thư đề nghị của bà, Bộ trưởng dân ủy Bộ Nội vụ đã kết luận; Tên của Cônsakinna "có liên quan với vụ án tập đoàn khủng bố phản cách mạng trong Bộ tư lệnh cảnh vệ Điện Kremli và thư viện của Chính phủ”. Kalinin đã phê vào bức thư mấy lời rất ngắn "không thụ lý”. Đó là vào ngày 8 tháng 3 năm 1936.
Đã từng có một cách nhìn nhận là, do Stalin không thể chịu đựng nổi tính cách kiên cường cố chấp của vợ và trong lúc nóng giận ông đã giết chết Nađêzđa. Kiểu nhận định này đã được nhiều người chấp nhận. Voncôgơnôp không tin vào nhận định này. Ông có cảm giác rằng cũng không loại trừ khả năng này, có thể do Nađêzđa cảm thấy mệt mỏi chán nản với chồng, nên đã chọn cách phản kháng đau buồn đó để biểu thị suy nghĩ của mình.
Một sử gia nổi tiếng khác, ông Métvâychép thì cho rằng, việc đưa ra nhận định chính Stalin đã giết chết vợ mình, về cơ bản là không hợp lý. Trước khi Svétlanna 16 tuổi, mọi người luôn tin rằng, mẹ cô bị bệnh viêm ruột thừa mà chết, những người lớn xung quanh cô luôn nói với cô như thế. Sau này, theo lời của hai người phụ nữ đã được nhìn quang cảnh cái chết của mẹ cô đầu tiên, miêu tả lại đã chứng minh rằng mẹ cô chết là do tự sát. Một trong hai người phụ nữ đó là bà vú nuôi. Bà sống trong nhà của Stalin từ năm 1926 đến năm 1956 (bà mất), không lâu trước khi chết, khi biết cái chết sắp đến gần bà đã đem mọi chuyện mình được chứng kiến trong một phần tư thế kỷ tại đây kể lại cho Svetlanna đã khôn lớn, bà không muốn đem tất cả những điều bí mật đó đi theo bà vĩnh viễn. Bà muốn rũ bỏ tất cả, bà muốn lòng mình được thanh thản.
Chúng ta cùng trích ra nguyên xi một đoạn miêu tả "Karôlina Vasiliepna Kili là quản gia của gia đình chúng tôi. Sáng nào bà quản gia cũng gọi mẹ tôi dậy"
Svétlanna viết: "Cha tôi ở trong phòng sách của mình hoặc ngủ trong phòng ngủ có điện thoại gần phòng ăn, đêm hôm đó ông đã trở về nhà rất muộn sau buổi yến tiệc, sau khi trở về ông đã ngủ trong thư phòng, còn mẹ cũng từ buổi tiệc về sớm hơn một chút.
Căn phòng này cách nơi làm việc rất xa, nếu muốn đi tới đó thì phải đi qua lối nhỏ bên cạnh là phòng của các con. Phòng ngủ của cha tôi nằm ở bên trái phòng ăn. Từ phòng ăn của nhà muốn sang phòng ngủ của mẹ thì phải quẹo phải và cũng phải đi qua lối đi nhỏ này. Cửa sổ phòng mẹ nhìn ra vườn hoa Aếchxăngđơrôt đối diện với cổng của nhà Trôtxki (nếu đ?