← Quay lại trang sách

- II -

Trong lúc đụng vào chiếc khăn trải giường, viên thanh tra cảm thấy khó chịu với bầu không khí ở đây, với sự có mặt của hai người phụ nữ mới quen biết nay đã là những kẻ thù hung ác của anh.

- Bà có thể mở cửa sổ ra được không?

Và bà gác cổng trả lời với vẻ coi thường bà Marsh.

- Tôi thấy cái đó là không tế nhị với người chết lắm.

Anh ta mở một công tắc điện nhưng trong phòng cũng không sáng sủa hơn trong khi đó ngọn lửa của những cây nến vẫn nhảy múa. Viên thanh tra đã ba chục tuổi, có một con gái ba tuổi và người vợ sắp sinh đứa tiếp theo; có thể là anh phải gọi điện thoại về đồn báo cáo về công việc ở đây.

Chính bà gác cổng là người nóng nảy nhất trong hai bà. Bà ta đi qua mặt bà khách tới bên người cảnh sát.

Có phải vì người chết đang mặc một áo sơmi trong nhà màu trắng hoặc một áo smoking không? Khi vén ống quần người chết lên, viên cảnh sát nhận ra tuy vóc người nhỏ bé nhưng ông Bouvet có những bắp thịt nổi rõ.

- Ông ấy có một vết sẹo phía dưới đầu gối - Anh tuyên bố.

- Ông nói gì? Vết sẹo hình ngôi sao ư?

Đây chỉ là danh từ. Đây là vết sẹo có nhiều nhánh. Bà gác cổng không nói gì, bà đắp điếm lại cho người qua đời và tắt ngọn đèn điện.

- Cần phải có giấy tờ nữa - Bà Marsh nói trong khi đi vào phòng khách lờ mờ sáng.

Bà Jeanne vội vàng đi theo.

- Không được động chạm vào các đồ vật đã được niêm phong.

- Ai niêm phong? Tại sao lại niêm phong? Đây là chồng tôi. Chúng tôi không ly hôn. Ngược lại...

Người phụ nữ gầy gò kia bực mình, tắt nến rồi quét dọn căn phòng trước mặt viên cảnh sát và bà khách. Khi ra ngoài hành lang, thấy cửa phòng của bà Sardot khép hờ, bà gác cổng nói to:

- Dù sao lúc này trên giấy tờ chỉ có ông Bouvet thôi.

Vài phút sau, bà Jeanne lại quay lên lầu ba một lần nữa, lần này bà gặp một người thuê nhà ở trên lầu bốn làm việc trong ngành bưu điện.

- Tôi làm bổn phận của mình. Tôi hy vọng không ai quấy rầy chúng ta nữa.

Thật là ngạc nhiên khi đi ra ngoài thấy ánh mặt trời ấm áp.

- Ông cho rằng tôi có thể gặp ông cảnh sát trưởng vào lúc nào?

- Lúc này thì chắc chắn là không thể được, thưa bà.

- Tôi sẽ đến gặp người luật sư của tôi.

- Tuỳ bà thôi.

Chiếc xe taxi lăn bánh và viên thanh tra đi về phố Poissy.

Trong các quán rượu trên Đại lộ Saint Michel, và có thể là ở khắp Paris, tràn ngập những kẻ lười biếng và mùi bia chua loét đầu độc bầu không khí. Trên nhiều đường phố, nhựa trải đường bắt đầu bị nóng chảy còn in hằn những vết bánh xe.

Bản danh sách trong phòng bà Jeanne dày đặc tên người và những con số. Bà đã gặp những người bán sách cũ, những người bán đĩa nhạc ở gần nhất.

- Tôi thu xếp tốt nhất trong mức độ có thể. Họ đang muốn mang ông Bouvet đến nhà xác. Ngày mai họ sẽ tới.

Trước khi bà Marsh tới đây, bà gác cổng còn gặp một phụ nữ khác. Không phải là một cuộc thăm viếng thực sự. Đây là một bà to béo đi lượn lờ trước cửa, vẻ ngập ngừng với tờ báo và bó hoa tím trên tay.

Ông Ferdinand đã uống rượu như vợ ông đã cảnh cáo trước, lúc này đang ngủ với đầy đủ quần áo trên một gác xép nồng nặc mùi rượu vang loại tồi.

Qua ô cửa kính nhỏ, bà Jeanne lại nhìn thấy người phụ nữ to béo quay trở lại. Lần này bà ta đến trước cửa, không nói năng gì, dáng vẻ như một kẻ hành khất.

- Bà hỏi ai?

- Tôi xin lỗi. Tôi được tin...

Bà ta cười gượng. Vì tự ti nên bà ta muốn thân hình mình nhỏ bớt lại. Bà Jeanne mở cửa phòng mình đi ra.

- Bà biết ông Bouvet ư?

Bà nhìn người khách với cặp mắt có thiện cảm hơn trong khi người này nhìn lên cầu thang.

- Tôi cho rằng tôi biết ông ấy.

- Trước kia bà đã gặp ông Bouvet ư?

- Vâng. Ông ấy có đau đớn trước khi ra đi không?

- Không. Ông ấy không biết mình sẽ ra đi nữa.

- Tôi mang đến một bó hoa.

- Bà có muốn lên nhìn ông ấy lần cuối không?

- Cái đó rất khó khăn với tôi vì chân tôi bị đau.

Bà ta đi đôi giày nhung màu đen, qua đôi bít tất người ta thấy những đường gân nổi rõ và các mắt cá chân sưng tấy.

- Tôi sẽ mang hoa lên. Tôi có thể nói với bà là hình như trước khi qua đời, ông ấy đang mỉm cười nữa. Lần cuối cùng bà gặp ông ấy cách đây đã lâu chưa?

Bà khách có trả lời không? Không mấy chắc chắn. Môi và tay bà ta như đang cầu kinh và lần tràng hạt ấy. Bà ta thấy một chiếc taxi đi tới.

- Bây giờ tôi phải đi đây.

- Hãy quay lại gặp tôi. Không ngại ngùng gì cả.

Đây cũng là người mà bà Marsh gặp khi xuống xe.

Lúc này thì bà Marsh đã tới căn hộ của người luật sư của mình tên là Rigal trên Đại lộ Haussmann. Từ ngoài trời nắng bà đi vào bóng râm của một cái cổng, rồi vào thang máy, bấm chuông một cảnh cửa để ngỏ, bên trong đã có những chiếc vali chất đống.

- Ông Rigal còn ở nhà chứ?

Cô người hầu có vẻ ngần ngại. Thấy lưng của một người đàn ông trong một phòng kế bên, bà Marsh bước vào.

- Tôi rất sung sướng khi thấy ông chưa đi.

- Một tiếng đồng hồ nữa tôi phải có mặt trên chuyến xe lửa đi Arcachon.

- Trước hết tôi phải nói với ông đã. Tôi đã tìm thấy chồng tôi.

Người vợ của ông luật sư đứng sau cánh cửa nghe thấy câu chuyện biết rằng người chồng không đi nghỉ hè nữa bèn quay vào với đàn con.

Mặt trời lặn sau khi hắt ra những tia lửa đỏ chiếu sáng mặt của những người qua đường. Bóng cây ngày càng đậm đặc hơn. Người ta nghe thấy nước trên sông Seine đang chảy. Tiếng động vang đi rất xa, và những người đã đi nằm, như mọi đêm khác, cảm thấy đất rung lên mỗi khi có một chiếc xe tải chạy qua.

Đã bốn lần bà Jeanne lên căn hộ khép kín, yên lặng của ông Bouvet. Mỗi lần bà đều cảm thấy cùng một sự hài lòng ấy, vì bà tin chắc rằng ông già muốn như vậy. Sáng mai bà sẽ quét dọn nhà cửa và lau các ô cửa kính sơn đỏ. Ngay lúc ấy bà mở một cánh cửa sổ.

Bà là người hướng dẫn những người thuê nhà vào viếng người chết, nhưng ông già nhỏ bé kia không sang đường nên bà không thể hỏi được ông ta muốn gì.

Lúc chín giờ tối bà gặp ông ta lần đầu tiên. Ông ta ở bên kia đường, tựa lưng vào lan can bờ sông và nhìn ngôi nhà. Ông ta cũng nhỏ bé như ông Bouvet nhưng vai rộng hơn và bộ râu màu vàng nhạt, mắt đỏ hoe, đội một chiếc mũ đã cũ nát như là đã nhặt được trên hè phố. Trông ông ta giống một kẻ lang thang. Chắc hẳn là như vậy. Người ta thường thấy những người như ông ta ngủ trong những túp lều gần Quảng trường Maubert.

Nhưng không ngẫu nhiên mà ông ta tới đây. Trong túi ông ta có một tờ báo đã nhàu nát mà mắt không rời khung cửa sổ trên lầu ba.

Bà gác cổng đi ra trước cửa mong được hỏi chuyện ông già ấy. Bà nhìn thẳng vào mặt ông ta với vẻ chờ đợi, nhưng ông ta lại quay lại nhìn những chiếc xà lan đang lờ lững trên sông.

Việc thăm viếng của người đàn bà to béo làm bà gác cổng có đôi chút bận tâm. Không giống kiểu bận tâm như đối với bà Marsh. Bà Marsh đã như là một kẻ thù cần phải đề phòng. Còn bà to béo thì có vẻ biết rõ ông Bouvet, hơn nữa bà ấy rất khiêm tốn, luôn sợ người khác hiểu nhầm mình.

Ông già lang thang này cũng vậy. Ông ta đợi bà gác cổng đi vào thì quay lại và lại nhìn lên ô cửa sổ. Lúc này trời tối đen, trên bầu trời bắt đầu có những vì sao sáng lấp lánh.

Ông Ferdinand, chồng bà, đã đi làm. Bà nhìn ra bên ngoài thấy ông già bỏ đi một cách luyến tiếc, đôi lúc ngoái cổ lại nhìn về phía ngôi nhà.

Bà buông rèm, vặn nhỏ đèn, thay quần áo và chải lại đầu. Trước khi ngủ, bà lại vén rèm, nhìn ra bên ngoài một lần nữa. Mặt trăng chiếu sáng không gian như ban ngày, làm nổi bật quang cảnh nhà thờ Notre Dame. Ông già lại đang ngồi trên lan can, một chai rượu trên tay, bên cạnh là một tờ báo đựng thức ăn.

Bà không đủ can đảm để mặc thêm quần áo và ra hỏi xem ông ta muốn gì. Mọi người thuê nhà đều đã trở về, trừ Francis, người chơi đàn phong cầm. Đèn tắt dần từng bóng một. Trên đường phố đã ít xe cộ hơn, bà Jeanne tắt đèn và đi ngủ. Bà chỉ thức giấc vào lúc ba giờ sáng để mở cửa cho người nhạc công đang chào bà.

Hôm sau khi mặt trời vừa ló lên ở mạn Charenton thì ông Ferdinand đi làm về, mắt sưng húp, tay cầm một chiếc hộp sắt tây đựng suất ăn của mình.

Bà Jeanne kéo những thùng rác ra vỉa hè, báo tin cho người bán sữa, rồi lên trên lầu nhìn qua ông Bouvet trên môi còn phảng phất một nụ cười.

Mười giờ sáng, một chiếc tắc xi đưa bà Marsh đến Đại lộ Haussmann để đón luật sư Rigal.

- Đến Sở Cảnh sát!

Từ đây tới đó rất gần. Từ xa người ta đã nhìn thấy ngôi nhà trắng.

Luật sư Rigal là một nhân vật quan trọng.

- Chúng ta đã có cuộc hẹn với ông Giám đốc Sở Cảnh sát.

Người ta yêu cầu họ đợi một lát. Bà Marsh vận đồ đen từ đầu đến chân nhưng bà vẫn mang đồ nữ trang và xức rất nhiều nước hoa.

- Xin mời luật sư. Xin mời bà. Xin mời các vị ngồi.

Các cửa sổ quay về phía sông Seine đều được mở to. Trên cầu Saint Michel có những hình bóng rất nhỏ của khách bộ hành đi lại như trong những cuốn phim sản xuất năm 1910.

- Thân chủ của tôi, bà Marsh, vừa tìm thấy người chồng đã mất tích hai chục năm nay.

- Xin có lời chúc mừng, thưa bà.

- Nhưng ông ấy đã qua đời.

Ông Giám đốc ra một cử chỉ lấy làm tiếc.

- Ông ấy chết dưới một cái tên khác, do đó chúng tôi đến gặp ông, ông Giám đốc thân mến, chúng tôi cần sự giúp đỡ của ông.

- Câu chuyện xảy ra ở Paris ư?

Vì nếu việc này xảy ra ngoài Paris thì đó là việc của Bộ Nội vụ.

- Tang lễ sẽ diễn ra gần đây thôi, bến cảng Toumelle, nơi người chồng của thân chủ tôi qua đời, nơi ông ấy mang cái tên René Bouvet suốt mười bốn năm nay.

- Khó mà nói rằng ông ta mắc chứng quên lãng.

- Tại sao ông ấy biến mất mà không để lại dấu vết gì và tại sao ông ấy lại mang tên René Bouvet. Cái cấp thiết là đám tang phải mang tên thật của ông ấy và thân chủ của tôi được hưởng các quyền của mình.

- Ông ta là người giàu có ư?

- Ông ấy là như vậy.

- Ông ta khai mình làm nghề gì khi sống ở Toumelle?

- Theo tôi biết ông ấy chỉ tỏ ra mình là một người hưu trí khiêm tốn thôi. Hình của ông ấy đã được đăng lên báo chiều hôm qua, do đó người thân chủ của tôi...

- Bà Marsh có thể nhầm lẫn không?

- Bà ấy đã cùng một thanh tra cảnh sát ở Quận năm tới đó. Theo lời khai trước đó của bà Marsh, viên thanh tra đã nhìn rõ một vết sẹo ở chân phải như bà đã mô tả.

Trời nắng nóng. Ông luật sư phải thấm mồ hôi, Ông Giám đốc thở dốc.

- Việc lập lại căn cước phải làm trong một thời hạn ngắn nhất, và rõ ràng chúng tôi có quyền đòi hỏi như vậy...

- Thưa bà, bà có thể cho chúng tôi những tin tức chi tiết về ông nhà không? Ông ta là người Pháp ư?

- Một người Mỹ. Tôi gặp ông ấy ở Panama vào năm 1918. Lúc ấy tôi còn rất trẻ.

- Lúc ấy ông ta làm nghề gì?

- Ông ấy rất giàu. Tôi cũng vậy. Cha mẹ tôi có nhiều trang trại trồng ca cao ở Colombie.

- Rồi sao nữa?

- Rồi chúng tôi kết hôn. Chúng tôi đi xuống Nam Mỹ một năm và tôi sinh được một cháu gái.

- Cô gái vẫn còn sống chứ?

- Lúc này nó đang ở Pháp.

- Bà có gặp cô ta không?

- Rất ít.

Ông Giám đốc ghi chép hoặc làm ra vẻ đang ghi chép.

- Thời ấy chồng bà là người thế nào?

- Đó là một con người đặc biệt. Rất nhiều phụ nữ phải lòng ông ấy.

- Lúc ấy ông ta bao nhiêu tuổi?

- Bốn mươi nhăm. Ông ấy đã đi nhiều nơi và nói được ba hoặc bốn thứ tiếng.

- Đối với tiếng Pháp thì sao?

- Nói tốt. Tôi cũng vậy; mẹ tôi là người Pháp, cha tôi là người Colombie.

- Bà không biết mọi hoạt động của ông nhà trước khi kết hôn ư?

- Tôi đã nói với ông: chồng tôi đi rất nhiều nơi. Ông ấy đã sống nhiều thời gian ở San Francisco. Ông ấy biết rất rõ vùng Trung Đông. Chúng tôi đã đi Louisiane và chính tôi sinh cháu ở đấy.

- Và rồi ông ta mất tích ư?

- Không phải ngay lúc ấy. Sau đó chồng tôi gặp một người Bỉ mà tôi quên mất tên rồi. Hai người nói chuyện với nhau về Congo và tài nguyên của nó. Ông ấy quyết định tới đó để tiến hành công cuộc kinh doanh.

- Ông ta đi một mình ư?

- Vâng. Chồng tôi viết thư đều đặn cho tôi. Ông ấy ở vùng biên giới giữa Kenya và Soudan thuộc Ai Cập. Ông ấy khai thác một mỏ vàng trong một vùng có tên là Oucle.

- Từ bấy đến nay bà không gặp lại ông ta nữa chứ?

- Xin lỗi. Tôi đã tới đó thăm chồng tôi hai hoặc ba lần.

- Hai hay ba?

- Khoan. Hai lần. Lần thứ hai vào năm 1932. Tôi tới bằng máy bay.

- Chồng bà đón tiếp bà ra sao?

- Ông ấy sống trong một khách sạn duy nhất ở đấy, một nơi kinh khủng, nơi muỗi tấn công người, nơi mà người ta phải đội mũ suốt ngày. Ban đêm hổ báo rình mò bên cửa sổ, con chó nhỏ của tôi bị hổ ăn thịt.

- Cho phép tôi được đặt ra một câu hỏi, thưa bà. Thời gian ấy chồng bà có gửi tiền cho bà không?

- Tôi muốn bao nhiêu thì ông ấy gửi bấy nhiêu.

- Có nghĩa là rất nhiều ư?

- Theo thói quen chi tiêu của tôi.

- Thời ấy bà sống ở đâu?

- Ở Riviera, ở Paris, ở Londres, ở Capri.

- Cùng với con gái chứ?

- Con gái tôi sống trong một nhà tu kín gần Paris. Nhà thờ Sacre Cocur; hẳn ông biết rõ nhà thờ này.

- Chồng bà không quan tâm đến con cái ư?

- Ông ấy đã thay đổi.

- Bà muốn nói gì?

- Khác với người tôi đến thăm lần đầu ở Congo thuộc Bỉ. Tôi đến mà không báo trước.

- Bà đến bất chợt ư?

- Vâng. Vì đã một năm chồng tôi không viết thư cho tôi.

- Ông ta có đề nghị ly hôn không?

- Không. Vì ông ấy biết tôi không bao giờ chấp nhận.

- Bà nói rằng chồng bà đã thay đổi; vậy thay đổi như thế nào?

- Ông ấy có đến năm chục bộ complet trong tủ áo. Ngoài bản thân ông thì không ai được đánh giày cho ông ấy.

- Ông ta có mang người hầu sang Congo không?

- Không, ở đấy tôi gặp một ông Marsh vận pyjama, đội mũ trắng, lái một chiếc xe bị tháo tung chạy trong rừng rậm. Hầu hết thời gian ông ấy không nghỉ ở khách sạn mà sống trong những túp lều của người bản xứ và...

- Xin bà nói tiếp.

- Trong lều nào cũng có một hoặc nhiều phụ nữ da đen, một vài người đang cho con bú.

- Bà có đánh ghen không?

- Không. Chúng tôi vẫn là bạn tốt của nhau. Tôi chỉ buồn khi thấy ông ấy sa đọa đến như vậy.

- Ông ta có kiếm được nhiều tiền không?

- Rất nhiều. Việc khai thác vàng ở mỏ Ouagi đạt hiệu suất rất cao khiến ông ấy có một thị trấn nhỏ ở vùng trung tâm với một bệnh viện và một trường học...

- Và ông bà đã chia tay nhau một cách vui vẻ ư?

- Vâng.

- Chồng bà không quan tâm đến con gái mà bà mang theo ư?

- Ông ấy khen nó kháu khỉnh nhưng nói khí hậu ở đấy không tốt, nên mang nó về Sacre Cocur.

- Ông ta mất tích trong những điều kiện nào?

- Chỉ một điều kiện: đơn giản là ông ấy mất tích thôi. Tôi viết thư cho ông ấy nhưng không nhận được thư trả lời. Tôi đã viết rất nhiều thư. Cả ngân hàng của tôi nữa vì họ không nhận được tiền gửi. Chúng tôi gửi thư cho chính quyền ở Ouelé và người ta trả lời là Samuel Marsh đi mà không báo tin cho ai cả.

- Thế còn việc khai thác mỏ thì sao?

Ông luật sư trả lời:

- Chúng tôi đã tới đó. Đã mười tám năm nay thân chủ của tôi và tôi cố gắng giành quyền sở hữu cái mỏ đó. Đây là một vấn đề phức tạp, cái đó phải mất hàng giờ mới có thể trình bày đầy đủ được. Việc kinh doanh ở đây là do một công ty vô danh và ông Marsh chiếm quá nửa cổ phần trong đó. Chúng tôi đã cố gắng đề ra việc ông ấy gặp tai nạn trong rừng rậm nhưng người ta đã cho chúng tôi biết vài tuần lễ sau khi mất tích, ông ấy đã rút một khoản tiền lớn trong ngân hàng ở Caire.

- Cảnh sát Bỉ không tiến hành điều tra ư?

- Tôi hiểu rõ câu hỏi. Ở đấy việc đi lại rất khó khăn, người ta phải đi cáng, trong khi làng nọ cách làng kia một trăm năm mươi kilômét.

- Nói tóm lại...

- Nói tóm lại, lúc này bà Marsh chưa được hưởng cái tài sản mà bà ấy có quyền hưởng.

- Bà Marsh đã nói, về phần mình, bà ta cũng rất giàu kia mà?

- Đó là của cha mẹ bà ấy. Họ đã qua đời và trước khi chết người cha đã tiêu đại bộ phận gia tài vào cờ bạc rồi. Vài năm gần đây, cây cacao ở Colombie bị sâu phá hoại, và bà đã phá sản ba phần tư vốn liếng rồi.

- Bà ta không còn nguồn vốn nào khác ư?

- Bà ấy đang gặp khó khăn.

- Thưa bà, hiện giờ bà cư trú ở đâu?

- Khách sạn Napoléon trên Đại lộ Friedland. Điều đó rẻ hơn nhiều so với việc mua và gìn giữ một ngôi nhà.

Một công việc như loại này, xảy ra vào tháng tám, tháng mà già nửa số nhân viên đi nghỉ, có nhiều khó khăn đối với một vụ án hình sự. Các vị khách nhìn ông Giám đốc bằng những con mắt nghiêm khắc làm ông không có lối nào thoát ra cả.

- Tôi sẽ tiến hành một cuộc điều tra, tất nhiên.

Cái đó theo ngôn ngữ nghề nghiệp được gọi là “điều tra những quyền lợi của gia đình”.

- Bà có địa chỉ của con gái mình không?

- Tôi không biết hiện nay nó ở đâu.

- Cô ta năm nay bao nhiêu tuổi?

- Ba mươi mốt hoặc ba mươi hai tuổi. Nó đã lấy chồng.

- Là ai vậy?

- Một kẻ khờ khạo tên là Frank Gervais làm không đủ ăn. Chúng tìm mọi cách để moi tiền tôi.

- Tôi cho rằng cô gái ấy cũng được thừa kế gia tài của người cha, đúng không?

- Cái đó để luật sư Rigal trả lời.

- Cái mà chúng tôi đề nghị, ông Giám đốc thân mến, là không nên đi vào chi tiết mà đi vào việc chính là ông Samuel Marsh phải được chôn cất theo tên thật của ông ấy.

- Ông có đầy đủ giấy tờ không?

Người luật sư có chiếc cặp bằng da mang theo.

- Đây là giấy đăng ký kết hôn. Tôi đính theo đấy bức thư gửi cho vợ của ông ấy sau ngày thành hôn.

- Thế còn những bức thư gửi từ Congo về thì sao?

- Thân chủ của tôi đã cho rằng không cần giữ lại. Hầu hết là được viết vào mẩu giấy bằng bút chì.

- Tôi sẽ cho ông biết tin tức, ông luật sư. Tôi cho rằng tôi sẽ liên hệ với ông, đúng không?

- Cái đó rất đơn giản. Đáng lẽ tôi đã đi nghỉ, nhưng tôi đã cho vợ con tôi đi trước, tôi sẽ gặp họ sau đó. Điều quan trọng là...

- Tôi biết.

Hai người cùng ra về và viên luật sư tự nhủ là sẽ không để ông Giám đốc Sở Cảnh sát được yên.

Để tránh công việc bị kéo dài, ông Rigal dặn bà Marsh đến toà báo đã công bố bức ảnh của ông Bouvet nằm giữa những bức ảnh của Epinal.

- Tôi muốn gặp ông tổng biên tập. Nói với ông ấy là tôi mang lại cho ông ấy những tin tức giật gân.

Ông ta rút ví lấy một tấm danh thiếp và nhìn thân chủ của mình.

- Bà hãy nói về thời kỳ chồng bà ở Congo và nói kỹ về cuộc sống của bà ở Nam Mỹ. Không nên quên nói về năm chục bộ complet và tất cả những gì đập mạnh vào trí tưởng tượng của độc giả.

- Mời ông ngồi, ông Beaupere.

Đó là người cảnh sát duy nhất của Sở mà khi gọi người ta không thể thêm danh từ “ông” vào. Đây có thể là do tuổi tác, tính trầm mặc của người cảnh sát già, cũng có thể do bộ thường phục như đưa tang của ông.

Ông Beaupere thường được giao những công việc thuộc loại “quyền lợi các gia đình” mà cấp trên không muốn giao cho người nào khác.

- Có một ông tên là René Bouvet vừa qua đời sáng hôm qua ở bến cảng Toumelle.

- Tôi đã nhìn thấy hình ông ta trên báo.

- Hình như ông ấy không phải là Bouvet mà là Marsh, sinh ra ở Mỹ và đã sống một phần đời mình ở một mỏ vàng tại Congo.

Ông Beaupere không động đậy, tiếp tục nhai kẹo cao su.

- Ông hãy đến Quận năm. Chính cảnh sát ở đấy phải có ý kiến về việc này.

- Tôi hiểu, thưa ông Giám đốc.

- Ông ấy có một người vợ hiện ở Paris, đang trọ tại khách sạn Napoléon. Họ cũng có một người con gái đã kết hôn với một người là Frank Gervais mà tôi không có địa chỉ.

- Rõ, thưa ông Giám đốc.

Và ông Beaupere về văn phòng của các thanh tra để lấy chiếc mũ bằng rơm rồi ra đi với vẻ một con quạ lớn trong nắng mặt trời gay gắt đổ xuống bến cảng.

Trong Sở Cảnh sát, ông Beaupere là người đi bộ nhiều nhất vì không bao giờ ông đi taxi vì giá tiền của nó, tránh đi xe buýt càng nhiều càng tốt và chỉ xuống ga tàu điện ngầm trong những trường hợp cần thiết.

Ông không để ý đến những quán rượu trên Đại lộ Saint Michel, cả những bà hàng hoa, những phụ nữ mặc những chiếc áo dài nhẹ, màu sáng tha thẩn đi dạo.

Toà thị chính của Quận năm trên Đại lộ Panthéon. Các toà thị chính không có gì là bí mật đối với ông. Không làm phiền đến cách nhân viên, ông tự lôi những cuốn sổ màu đen nặng chịch ra: Bouvat Martin... Bouveau... Bouverat... Bouveret... Bouveric... Bouvet... Bouvet Albert... Bouvet Armand... Bouvet H... Bouvet M... Bouvet P...Bouvet René

Để có được thẻ chứng minh, Bouvet, René Hubert Emile, đã xuất trình bản trích lục giấy khai sinh có chữ ký của ông Thư ký Toà Thị chính Wimille, theo đó René Bouvet là con trai của ông Bouvet Jean, làm ruộng và bà Marie Emestine Meresse, không nghề nghiệp. Toà Thị chính của Quận năm không cấp các phiếu lương thực cho ông ta trong các năm từ 1940 đến 1943, nhưng đến 1944 thì có cấp sau khi René Bouvet đi nghỉ ở Langeac, Sarlat, Dordogne trở về.

Đã mười hai giờ trưa, sau khi uống một cốc nước lọc, ông Beaupere bước vào ngôi nhà trắng trên phố Toumelle. Ông không tò mò nhìn lên ô cửa sổ trên lầu ba, nơi ông Bouvet đang yên nghỉ giữa những tiếng vo ve của đàn ruồi là tiếng động duy nhất ở đây. Ông vào nhà của bà gác cổng sau khi được mời và lễ phép nhấc chiếc mũ trên đầu ra rồi mới ngồi trên chiếc ghế kiểu Henri II trong lúc bà Jeanne ngồi phía đối diện.

- Ông không nên nói to. Chồng tôi đang ngủ. Ông ấy làm ca đêm.

Ông ra hiệu rằng mình đã hiểu và cuộc trao đổi là những tiếng thì thào tới mức nếu đứng ngoài cửa kính nhìn vào, người ta có thể cho đấy là hai con cá đang đớp bọt.

Ông Beaupere dùng bữa theo giá “cố định” trong một quán ăn trên phố Châtelet, nơi ông có một chiếc khăn mặt riêng mắc trên giá. Sau đó, ông trở về văn phòng gọi điện thoại cho toà Thị chính của Quận năm.

Lúc ba giờ thì người nhân viên ở đây báo tin cho ông là René Bouvet đã chết hai năm trước đây ở Đông Dương, nơi ông ta đã sống hơn chục năm và chỉ về Pháp một đôi lần.

- Lần cuối cùng ông cấp cho René Bouvet bản trích lục giấy khai sinh là vào năm nào?

Lại phải chờ một lúc lâu.

- Vào năm 1039, Bouvet từ Paris có viết thư yêu cầu chúng tôi làm việc này và theo thủ tục chính tôi đã cho ông ta hai bản.

Đó là thời kỳ mà thẻ chứng minh trở nên cần thiết. Kể cả đối với những người ít khi dùng đến nó.

- Ông chắc chắn là ông ấy đã chết cách đây hai năm chứ?

- Chúng tôi có giấy khai tử từ Sài Gòn gửi về. Giấy tờ đi mất mười tám tháng. Ông ta không có ai là người thừa kế cả.

- Xin cảm ơn ông.

Báo chí đã tung ra thành phố, cùng với tấm ảnh cũ của ông Bouvet nhưng với đầu đề mới: Bí mật của một nhà triệu phú Mỹ.

Vào lúc năm giờ một chiếc taxi chạy đến đậu trước ngôi nhà trắng trên bến cảng Toumelle và một cặp vợ chồng dáng vẻ vội vã xuống xe bước vào. Bà Jeanne nhìn họ bằng cặp mắt lạnh lùng và cảnh giác.

Lại có người đến để lợi dụng cái chết của ông Bouvet.