- III -
Trước khi hai người bước vào trong nhà, bà Jeanne đã ra mở cửa đứng đợi, mắt nhìn họ chằm chằm, môi mím lại.
Chắc chắn đây là một cặp vợ chồng giàu có, chưa hề bước chân vào ngôi nhà loại này. Cả hai có vẻ vừa đi xem phim hoặc từ một khách sạn trở về. Tóc nâu, người phụ nữ mặc một chiếc áo màu kem, phía trước là chiếc ví xách tay như một chấm đỏ giống như đôi môi trên bộ mặt trắng bợt. Người chồng tiến lên phía trước. Người phụ nữ ngập ngừng chớp đôi hàng mi giả. Như mọi người, cô ta có tờ báo trên tay.
- Có đúng ở đây không?
- Ở đây.
- Bà là người gác cổng ư?
- Tôi là người gác cổng.
Cô ta liếc nhìn làm nản chí người cùng đi như ngầm bảo khó khăn nhiều hơn là họ nghĩ hoặc là bà gác cổng này rất khó tính.
- Tôi có thể nói với bà trong vài phút được không?
Có thể là cô ta đã chuẩn bị trước ư? Hay là cô không nghĩ đến cách đón tiếp như thế này? Cô ta mở ví như là để đánh phấn lại, nhưng thực ra là lấy một mẩu giấy nhàu nát ra.
- Tôi nghe các vị đây.
Người đàn bà trẻ nhìn thang gác mà thằng bé Vincent, con trai bà Sardot, đang ngồi vắt vẻo bên trên.
- Bà cho phép chúng tôi vào trong nhà chứ?
- Với điều kiện là các vị nói khẽ thôi. Chồng tôi đang ngủ.
- Mẹ tôi đã đến gặp bà nhưng tôi không quan hệ với bà ấy. Xin giới thiệu với bà đây là chồng tôi.
- Rất hân hạnh.
- Bà hiểu chứ... rằng tôi là con gái ông... ông...
- Ông Bouvet, trông cô không giống ông ấy là mấy. Có thể là cô giống mẹ.
- Bà cho phép tôi ngồi chứ?
Người chồng cao lớn, người lông lá, vai sâu hõm, mặc bộ đồ xám không giống những người trong khu phố.
- Đã hai chục năm nay vợ tôi không có tin của ông ấy - Anh ta nói - Bà có thể hình dung là cô ấy xúc động như thế nào khi thấy ảnh của người cha trên báo.
- Hôm qua cô không đọc báo ư?
- Chúng tôi về thăm mấy người bạn ở nông thôn. Trưa hôm nay, khi về...
Bà Jeanne vẫn đứng nhìn từng người để xem họ muốn gì.
- Tôi cho rằng chúng tôi không được phép lên thăm ông cụ, đúng không?
- Ai cấm điều đó? Tôi có chìa khoá. Chính tôi và những người hàng xóm phụ trách tất cả.
- Tôi không biết. Tôi nghĩ rằng vì hoàn cảnh đặc biệt...
Cô ta nhìn chồng như muốn hỏi ý kiến.
- Vợ tôi muốn bà cho phép cô ấy được hỏi vài câu. Vợ tôi bối rối không biết mở đầu ra sao cả.
Cô ta mở bàn tay ra, những tờ giấy bạc nhàu nát được đặt lên bàn.
- Theo báo chí thì chính bà là người giúp cha tôi trong việc nội trợ. Tôi tin chắc ông ấy tin tưởng và đã trò chuyện cùng bà. Cha tôi có nói gì về tôi không?
- Không bao giờ.
- Còn về mẹ tôi?
- Cũng vậy, kể cả những người khác.
- Bà muốn nói cha tôi không nói gì ư?
- Ông cụ nói như mọi người về thời tiết, khí hậu, về Paris và tất cả những gì xảy ra trên thế giới với những người thuê nhà, với thằng Vincent mà cô đã nhìn thấy nó trên đầu cầu thang.
- Cha tôi là người buồn rầu và kín đáo ư?
- Không, thưa cô, ông già tỏ ra rất sung sướng.
- Cha tôi có nhận được thư từ gì không?
- Không bao giờ.
- Và... nói thế nào nhỉ... cha tôi có túng thiếu không?
Vừa nói cô ta vừa nhìn xung quanh. Ông Ferdinand vừa thức giấc và đi vào nhà tắm.
- Ông già không thiếu một thứ gì. Ông ấy rất sung sướng. Buổi sáng, sau khi dùng những món mà tôi chuẩn bị cho ông, ông nằm trên giường và đọc báo. Sau đó, vận quần áo, ông cụ xuống nhà chào tôi rồi đi dạo. Trong khi đó, tôi thu dọn và quét tước căn hộ. Công việc không nhiều nhặn gì. Qua cửa sổ, tôi thấy ông cụ để hầu hết thời gian trong các quầy sách cũ. Ông cụ quen với mọi người bán hàng và nói chuyện với họ.
- Ông ấy có mua những sách quí, hiếm không?
- Không mua sách, chỉ thấy mua tranh ảnh. Có lúc ông cụ đến Đại lộ Saint Michel để mua xúc xích và trở về với những gói nhỏ trên tay. Ông cụ đứng trước cửa sổ để ăn.
- Ông ấy có dùng rượu vang không?
- Không bao giờ dùng rượu vang cũng như mọi loại rượu khác. Chỉ uống nước lọc. Và cà phê nữa, hai tách mỗi ngày.
- Ông ấy có hay ốm đau không?
- Ông cụ uống thuốc viên đựng trong một chiếc hộp để trong túi, nhưng tôi không thấy ông ấy ốm bao giờ, trừ chứng thấp khớp. Trong hai năm vừa rồi ông cụ phải nằm bẹp trên giường ba lần. Còn thường ngày thì trưa đến, sau khi ăn, ông cụ ngủ một giấc, tiếp đó ông cụ đi dạo vào mùa hè và trở về nhà trước chín giờ tối.
- Ông ấy có tiếp khách không?
- Không bao giờ.
- Bà tin chắc rằng cha tôi không bao giờ nói về tôi chứ? Tên tôi là Nadine.
- Không, thưa cô.
- Trong đồ đạc của ông ấy bà có thấy tấm ảnh một bé gái không?
- Không, thưa cô,
- Có bao giờ bà để ý đến những giấy tờ của cha tôi không?
- Giấy tờ gì?
- Mọi người đều có những giấy tờ của mình, giấy tuỳ thân, thư từ...
- Ông cụ không có giấy tờ gì cả.
- Mẹ tôi đã lên căn hộ của cha tôi chứ?
- Đã lên. Với một thanh tra cảnh sát.
- Bà có cho phép chúng tôi lên trên đó không?
- Chắc chắn là được!
Bà Jeanne hài lòng chỉ cho họ căn hộ và người qua đời như một sự thách đố. Nhưng họ sẽ nhầm lẫn nếu muốn động chạm vào vật gì ở đây.
Bà dẫn họ lên cầu thang. Việc này coi như một thủ tục. Sau đó bà bắt họ đứng chờ ở ngoài hành lang để bà vào trong phòng thắp nến. Cuối cùng bà đưa họ vào trong phòng bắt đầu có mùi khó chịu và có những con ruồi không tài nào xua hết được.
Bà không bực mình vì họ tỏ ra ngạc nhiên khi thấy bà bình thản, không sợ người chết như giữa họ là đôi bạn thân vậy.
- Ông cụ nằm yên. Ông ấy mỉm cười.
Người phụ nữ nhìn những đồ đạc dán giấy niêm phong.
- Tôi tin chắc là cha tôi đã đi tìm tôi vì chúng tôi cùng sống trong một thành phố.
Bà Jeanne để ý thấy người đàn bà trẻ không làm dấu thánh, không biết nhánh hoàng dương dùng vào việc gì. Cô ta luôn luôn lấy khăn tay thấm vào hàng mi giả.
- Tôi cho rằng bà biết rõ ngày giờ đưa tang, đúng không?
- Chúng tôi đã thu xếp làm việc này vào ngày mai, một tang lễ đàng hoàng, có cha cố, nhưng cảnh sát đã đến bảo chúng tôi đợi đã.
Hai vợ chồng nhà ấy lại nhìn nhau. Họ vội vã đi ra, nhưng hình như họ đã thất vọng vì thực tế không như họ tưởng tượng.
- Tôi cho rằng tôi cần cho cảnh sát biết địa chỉ của mình, đúng không?
- Có thể như vậy là tốt. Đây là công việc của các vị.
- Bà tin chắc là cha tôi không khổ sở chứ?
- Vâng, thưa cô.
- Xin cảm ơn bà.
Họ đi xuống trong khi bà gác cổng khoá trái căn hộ và cho chìa khoá vào trong túi. Bà đi xuống thang gác trong khi thằng bé vẫn ngồi đấy với cái nhìn nghi ngờ hơn cả bà Jeanne.
Tới phòng đợi, họ ngập ngừng.
- Nếu ngẫu nhiên bà nhớ được một chi tiết nào đó... - Người chồng cầm trên tay một tấm danh thiếp rồi nói tiếp, -... chi tiết mà vợ tôi quan tâm. Mẹ con cô ấy bất hoà... Chính vì bà ta mà vợ tôi không biết đến cha đẻ của mình. Tôi không thể đến gặp bà mẹ vợ được.
Anh ta đưa cho bà Jeanne tấm danh thiếp.
- Tôi rất biết ơn khi bà gọi điện thoại đến văn phòng của tôi. Bên phải tấm danh thiếp có địa chỉ nhà riêng.
Và họ ra đi, người vợ với đôi giày cao gót, người chồng với đôi vai gầy gò, và cảnh cửa chiếc xe taxi đóng sập lại.
Xe không nổ máy ngay vì hình như hai người đang cãi nhau, chê trách nhau về một sự vụng về nào đó.
Bà gác cổng đọc tấm danh thiếp.
Frank Gervais và Will Goldstein
Bán tranh cổ
135 bis, phố Saint Honore
Bên phải tấm danh thiếp ghi địa chỉ nhà riêng: 62, Bến cảng Passy. Và chữ WILLY GOLDSTEIN đã bị gạch xoá.
Paris vẫn nắng rực rỡ như hôm trước, vẫn có những tiếng xào xạc trên các vòm cây và những làn bụi mỏng trên đường phố.
Một người đàn ông tẻ nhạt trông giống như một nhân viên bảo hiểm hoặc một người lắp đặt máy hút bụi gõ nhẹ lên ô cửa kính nhà bà gác cổng trong khi ông Ferdinand đang ăn uống trong bếp để chuẩn bị đi làm.
Người gõ cửa là ông Beaupere.
- Tôi không quấy rầy bà chứ, bà Jeanne?
Bà gác cổng quay ra.
- Xin mời vào. Mời ông ngồi. Ông có tin tức gì mới không?
- Không nhiều lắm. Tôi đang đi tìm hiểu.
Người cảnh sát nhìn bà xem bà muốn nói gì.
- Con gái ông ấy và chồng vừa tới đây. Họ có để lại danh thiếp. Cũng có cả một trăm francs đặt trên bàn.
- Cô ấy không nói gì ư?
- Cô ta hỏi về giấy tờ, về những tấm ảnh. Họ có lên trên lầu.
- Còn có ai nữa không?
Ông Beaupere cẩn thận ghi địa chỉ trên danh thiếp vào một cuốn sổ tay lớn có dây cao su để buộc.
- Không. Chỉ có hàng xóm thôi.
- Bà biết không, bà Jeanne, người ta nói có lý.
- Có lý là thế nào?
- Ông Bouvet thật đã chết ở Đông Dương cách đây hai năm.
- Có hai ông Bouvet ư?
- Nhưng không cùng căn cước. Tôi muốn biết rõ những người lượn lờ quanh đây vì chắc chắn họ là người biết rõ sự thật.
- Có một bà già...
- Bà già nào?
- Người mà tôi gọi là “bà” thì bà ta đính chính lại là “cô”. Bà ta trên bảy chục tuổi.
- Đúng rồi.
- Tại sao lại đúng rồi?
- Vì những người quen biết ông Bouvet ngày trước tất phải là những người già.
- Tôi không nghĩ đến điều đó.
- Bà ta tới đây hồi nào?
- Chiều hôm qua. Đây là người đầu tiên. Tôi tưởng là bà ấy đi tìm một phòng nhỏ để thuê.
- Bà ta ăn vận xoàng xĩnh, đúng không?
- Nghèo nàn nữa. Trước hết môi bà ấy run lên vì không biết nói thế nào. Bà ấy to béo, mặt tròn trĩnh nhưng xanh lợt, mắt còn trẻ. Bà ấy chỉ vào tờ báo rồi lẩm bẩm: “Có đúng là ở đây không?” Tôi thấy bà ấy cầm một bó hoa tím trên tay. Tôi cảm động và hỏi: “Bà biết ông ấy chứ?“ Tôi cho rằng bà ấy cũng sống trong khu phố này, bà ấy đã nói chuyện với ông Bouvet lúc ông ấy đi dạo. “Bà có muốn nhìn mặt ông ấy lần cuối không?” Bà ấy lắc đầu rồi như muốn khóc. “Ông ấy có đau đớn lắm không?” Rồi lại đặt thêm một câu hỏi nữa: “Có gì để làm tang lễ không?” Tôi trả lời rằng có, ông ấy có tiền trong túi và tôi thấy bà ấy lục tìm như tìm tiền trong túi xách tay. Bà ấy không có thời gian vì ngay lúc ấy thì con quỷ kia đến.
- Con gì?
- Con quỷ. Có phải người ta gọi mụ như vậy không? Người đàn bà đi cùng ông thanh tra và chắc chắn mụ ta sẽ lục lọi đồ đạc nếu người ta để một mình mụ trong phòng.
- Bà cho rằng mình chưa bao giờ nhìn thấy bà già đã nói ư?
- Tôi biết mọi người trong khu phố này. Tôi đã sống ở đây bốn chục năm nay. Tôi chưa hề gặp bà ấy.
- Bà ta đi bộ ư?
- Bà ấy đi giày vải. Tôi đã nhìn kỹ. Cũng giống như đôi giày tôi đang đi.
- Sau đó bà ta đi về Đại lộ Saint Michel ư?
- Không. Về phía cầu Toumelle.
- Đấy là người duy nhất tới đây ư?
- Ngoài ra còn một ông già, nhưng ông ấy không nói một lời.
Ông Beaupere tin bà gác cổng. Ông có một đàn cháu nội ngoại đông đúc. Ông kiếm sống rất chật vật. Ông không hề nghi ngại gì bà Jeanne.
- Ông già nào?
- Trông giống một kẻ lang thang ở vùng này. Vào lúc chiều tối, khi chồng tôi đi làm, thì tôi thấy ông ấy ở bên kia đường, tựa lưng vào lan can, nhìn lên cửa sổ căn hộ ông Bouvet.
- Ông ta không làm gì khác ư?
- Không. Sau đó ông ấy đi. Rồi tôi lại thấy ông ấy xuất hiện và ăn bữa tối của mình với một chai rượu vang bên cạnh. Ông có cho rằng người ta sẽ để tôi yên không?
- Ai kia?
- Người con rể của ông Bouvet. Tôi đã thu xếp xong mọi việc với bà con trong khu nhà. Mọi người đều nhiệt tình. Thế rồi vợ chồng anh ta lại đến.
- Tôi không biết.
- Dù sao họ cũng đi rồi, đúng không? Chắc chắn là họ có lý do của họ. Không nên làm phiền người đã chết rồi. Ông ấy đang yên ổn nằm trên kia. Ông có muốn lên trên đó không?
Ông Beaupere không có thời gian. Ông phải gọi điện thoại đến toà Thị chính Langeac, lúc nãy không có ai trả lời. Ông còn phải kiểm tra một số tin tức một cách thận trọng như thường làm trong khi ông lắc cái đầu buồn bã và nhai kẹo cao su.
- Nếu bà gặp bà già hay ông lang thang ấy thì bà cố hỏi cho được tên và địa chỉ của họ. Cái đó có thể giúp chúng ta rất nhiều.
- Ông có muốn dùng một tách cà phê không?
- Không. Tôi không uống gì giữa hai bữa ăn cả.
Một buổi chiểu yên ả đối với bà Jeanne. Một vài câu chuyện gẫu với những người thuê nhà. Đến chín giờ tối thì một mình bà lên với ông Bouvet như là để chào ông. Bà không sợ hãi khi đối diện với người chết. Bà làm dấu thánh, miệng lắp bắp như nói chuyện với ông. Tất cả đều gọn gàng, trật tự. Bà đập những con ruồi, sửa lại tấm rèm cửa sổ.
Bà khoá trái cửa sau đó vào căn hộ của nhà Sardot. Thằng bé đã ngủ, ông chồng đang đọc báo còn bà vợ đang giặt giũ. Cửa sổ nhà họ mở toang. Tất cả mọi cửa sổ của Paris đều mở. Trong một vài khu phố, người ta ngủ ngoài hành lang và thường nghe thấy tiếng còi tàu hoả trong các nhà ga.
- Cô gái lấy một người bán tranh cổ. Theo tôi thì anh ta bị ho lao. Cô ta lấy khăn tay trong túi xách ra nhưng tôi không tin là cô ta đã khóc.
- Nếu đây là cha đẻ thì cô ấy cũng không thể biết được.
Người chơi đàn phong cầm đã đi làm. Bà Jeanne trở về thu dọn nhà cửa một lúc rồi thay quần áo để đi ngủ. Bà ngủ say cho đến khi người nhạc công trở về. Không nhìn đồng hồ nhưng bà cho rằng lúc này khoảng hai ba giờ sáng.
Bà đã có một giấc mơ phức tạp trong đó ông Beaupere đóng một vai trò quan trọng như là chồng bà. Bà khó chịu tự hỏi tại sao lại có chuyện này vì bà không phải là người goá bụa. Ông Ferdinand vẫn đi gác đêm trong xưởng sửa chữa xe hơi trên phố Saint Antoine. Và ông Beaupere đã trả lời bà: “Đúng rồi”.
Cái gì đúng rồi? Có phải người nhạc công đã về ư? Nhìn hai chiếc kim đồng hồ có chất lân tinh thì lúc này mới một giờ sáng.
Không khí trong nhà vẫn còn ngột ngạt. Thức giấc, bà thấy mọi việc không như ý muốn của mình, bà thấy mình có lỗi mà không hiểu tại sao.
Hôm sau trời u ám hơn mấy hôm trước, một lớp sương mù bay trên mặt sông Seine trên đó có những chiếc xà lan sửa soạn khởi hành. Bà Jeanne mang những thùng rác ra xếp trên vỉa hè rồi vào nhà để chuẩn bị cà phê, chải đầu chờ nước sôi.
Bà không bao giờ gặp may nhưng không kêu ca. Khi bà kết hôn với ông Léliard Ferdinand, thời ấy ông là một trung sĩ trong quân đội, bà không biết ông bị chứng động kinh và ông không dám uống rượu nữa. Đây không phải là một người đàn ông. Ba lần bà mang thai nhưng cả ba lần bị sẩy thai. Bà muốn thử một lần nữa, nhưng bác sĩ khuyên bà nên từ bỏ ý định ấy đi.
Đã ngoài năm chục tuổi nhưng bà không cảm thấy mình đã già. Nhỏ bé và gầy gò, phải gắng sức lắm bà mới mang được thùng rác từ trong nhà ra vỉa hè.
Bà thở dài khi nghĩ đến ngôi nhà sẽ có thêm một người thuê mới và bất chợt sợ hãi, bà thấy mình phải lên trên lầu ngay lập tức. Song bà phải trở xuống vì quên chìa khoá. Bà lại chạy lên, tra chìa vào ổ và thắc mắc không biết tối hôm qua bà có khoá cửa phòng hay không vì hôm nay vừa tra chìa vào ổ là cửa đã bật mở.
Bà vào phòng khách mà không nhìn xung quanh và cảm thấy căn hộ đã có một sự thay đổi nào đó. Xác của ông Bouvet vẫn nằm trên giường nhưng bà tin chắc là ông không nằm trong tư thế cũ nữa. Ông ấy không thể cử động được. Một người nào đó đã tới đây. Hắn đã động vào chiếc giường. Có những chiếc lông từ trong gối rơi ra. Bà quay lại thấy những tờ giấy niêm phong đã bị xé rách.
Người ta đã mở tủ, mở các ngăn kéo.
Và bà cảm thấy ở đây không an toàn nữa. Bà chạy ra hành lang và gọi:
- Bà Sardot!... Bà Sardot!...
Bà quên mất lúc này mới sáu giờ sáng và gia đình Sardot hãy còn ngủ.
- Bà Sardot!...Tôi đây!... Ra đây ngay!... Bà hay chồng bà cũng được...
Đó là người chồng ra mở cửa sau khi mặc thêm chiếc quần dài, nhưng đi chân đất.
- Có kẻ nào đó đã vào nhà ông Bouvet.
Người vợ ra theo sau đó là đứa con trai có vẻ là người lớn trong bộ pyjama.
- Kẻ nào đó đã xé giấy niêm phong và động vào chiếc giường.
Mọi người vào trong căn hộ vừa đáng kính vừa rùng rợn.
- Cần phải báo cho cảnh sát.
Trong nhà không ai có máy điện thoại.
- Ông có thể chạy đi gọi nhờ được không, ông Sardot?
Người chồng vội vàng mặc thêm quần áo, đội chiếc mũ cát-két lên đầu và ra đi trong khi đó người vợ cố dỗ dành đứa con đi ngủ lại.
- Bà có gài các thanh gài không?
- Tôi cho rằng tốt nhất là không được động vào vật gì cả.
Bà Jeanne cảm thấy mình có lỗi. Nhớ lại cái đêm xấu vừa trải qua, bà cho rằng mình đã hai lần giật giây để mở cửa cho người nhạc công.
- Bà ở lại đây một lúc chứ?
Bà lên lầu năm đánh thức người chơi phong cầm rồi nói qua cánh cửa.
- Xin lỗi vì đã làm phiền ông. Tôi muốn biết đêm hôm qua ông về nhà vào lúc mấy giờ?
- Bà Jeanne, khoảng từ hai giờ đến hai giờ rưỡi.
Ông ta cùng xuống lầu ba với mọi người. Một người cảnh sát đi theo ông Sardot đi lên.
- Không ai được vào căn hộ. Tôi đã nhận được lệnh. Bà là người gác cổng đấy ư? Bà hãy trở về vị trí của mình và không cho ai vào khu nhà, trừ những người cư trú ở đây. - Một viên thanh tra cảnh sát vừa tới nơi nói.
Đây không phải là viên thanh tra chiều hôm qua mà là một người to béo đang ngồi trong nhà người gác cổng. Qua những câu hỏi mà ông ta đặt ra, người ta biết ông ta không hiểu đã có những chuyện gì xảy ra ở đây.
- Sở Cảnh sát đã được báo tin. Họ sẽ tới đây ngay bây giờ.
Một chiếc ôtô chạy tới và có bốn người xuống xe với những chiếc máy lớn, chắc chắn là máy ảnh. Mười lăm phút sau họ đi lại và nói năng ồn ào trên lầu ba. Sau đó có hai chiếc taxi cùng chạy đến.
- Bà là người gác cổng ư? Mời bà lên đây với chúng tôi.
Bà Jeanne sốt ruột vì có quá nhiều người trong căn hộ của ông Bouvet. Máu bốc lên mặt khi bà chứng kiến những việc họ đang làm.
Ba cửa sổ được mở rộng. Một chiếc máy ảnh rất lớn, rất nặng hơn bất cứ mấy ảnh nào khác được đặt lên một cái giá ba chân. Họ lôi trong tủ ra những quần áo và đồ dùng khác ném bừa bãi trên sàn nhà.
- Khi tắt thở ông ta ăn vận như thế nào?
Bà chỉ tay vào chiếc veston màu sáng, chiếc quần màu xám. Khi bà nhìn lại thì một tiếng kêu tắc nghẹn trong cổ họng bà vì người ta đã lật tung chăn và để xác người nằm tơ hơ, không chăn, không có gì che thân cả.
Ngồi trên một chiếc ghế trong góc phòng, một người đang đếm những đồng tiền vàng.
- Bao nhiêu?
- Tôi đã đếm đến chín trăm. Còn một vài đồng nữa.
Và ông ta lại tiếp tục lẩm nhẩm đếm.
Những thứ này ở trong chiếc nệm bị rạch tung. Trước khi cảnh sát tới, chúng vẫn nằm trong đó vì bà gác cổng thấy những chiếc lông trong nệm rơi vương vãi.
Hai người mặc quần áo cho người chết như ở cửa hiệu thợ may người ta mặc cho những chiếc Mannequin. Xong việc người ta vác ông Bouvet ra phòng khách và đặt lên một chiếc ghế.
- Bà đã kéo dây mở cửa mấy lần trong đêm qua?
- Một người thuê nhà trở về sau khi tôi đã đi ngủ.
- Tôi hỏi bà đã kéo dây mở cửa mấy lần kia.
- Một lần.
- Bà có tin chắc không?
Bà nhìn ông Bouvet đang ngồi trên ghế để chờ chụp ảnh và không đủ can đảm để nói dối.
- Tôi không tin chắc lắm. Đêm hôm qua tôi rất mệt. Trời quá nóng nực. Tôi nằm mơ. Tôi đã kéo dây mở cửa rồi đi ngủ lại, một lát sau thức giấc, tôi mới thấy giờ...
- Giờ gì?
- Tôi muốn nói là trước đó ông Francis chưa về.
- Và bà lại kéo dây mở cửa lần nữa, đúng không?
- Tôi không nhớ. Tôi cố gắng nhớ lại. Tôi đã làm việc một cách máy móc. Cái đó đã trở thành một thói quen.
- Ông ta ở đâu?
- Ông Francis ư? Trên lầu năm, căn hộ bên trái.
Người ta cử một người lên gặp người nhạc công.
- Bà có thấy đồ đạc trong phòng này có xê dịch so với hôm qua không?
- Có xê dịch.
Bà nhìn xung quanh với vẻ lo ngại, tránh không nhìn ông Bouvet như ông đang còn sống. Cái đó tạo nên một hình ảnh ma quái khiến bà muốn bỏ đi.
- Bà nhìn kỹ đồ gỗ xem.
- Tôi cho rằng người ta đã lục soát những tranh ảnh.
Cả bà cũng không tin chắc lắm. Bà không biết gì cả. Ánh nắng tràn qua các ô cửa sổ soi vào mặt bà như trước đây bà dọn dẹp trong phòng, và bất chợt bà ôm mặt khóc nức nở. Người cảnh sát vỗ vai bà.
- Nào! Nào! Bà bình tĩnh vì dù sao cũng không phải lỗi tại bà. Nhưng cái đó là cần thiết để chúng tôi biết rõ. Bà xuống nhà uống cái gì đó. Tôi sẽ xuống ngay.
Đây như là một sự phản bội, nhưng dù sao bà Jeanne cũng không thể ở lâu trong căn phòng ấy được.
Đứng trước cửa, một cảnh sát ngăn không cho mọi người đi lại trong hành lang. Cánh cửa nhà Sardot động đậy. Ông Sardot đang ăn sáng và chuẩn bị đi làm.
Từ trong nhà, bà Ohrel ngồi trên chiếc xe đẩy, gọi bà Jeanne.
- Đã có chuyện gì xảy ra?
- Tôi không biết. Xin đừng hỏi tôi. Nếu mà bà biết được họ đang làm gì.
Ông Ferdinand tệ hại chắc đã đi uống rượu và đang ba hoa trong quán rượu bên cạnh. Có vài người đứng trên hè với một cảnh sát vẻ mặt trịnh trọng.
Đến chín giờ thì các phóng viên nhà báo tới làm khu nhà trở nên ồn ào. Bà Jeanne như không còn ở trong nhà mình nữa. Những người lạ mặt đi ra, đi vào, đi lên, đi xuống như đang trong một công trình công cộng. Trong năm phút, ba lần họ chĩa ống kính vào mặt bà, bật đèn sáng để chụp ảnh bà. Lúc này bà không thể nghĩ đến việc ông Ferdinand lợi dụng cơ hội để đi uống rượu nữa.
Đây mới chỉ là sự mở đầu.
Ông Giám đốc Sở Cảnh sát vừa nhận được báo cáo đầu tiên bằng điện thoại, ông cho gọi ông Beaupere tới.
Khi viên thanh tra gõ cửa thì người ta mang đến một bức điện tín.
Cần thiết phải hoãn tang lễ của Bouvet tức Samuel Marsh cho đến khi tôi tới đấy (stop) Mang theo những chứng cứ căn cước giả của Marsh cũng như của Bouvet (stop) Sẽ có mặt ở Paris lúc mười hai giờ bốn mươi phút. Joris Costerman
Bức điện từ Anvers gửi đến.
- Xin mời ông vào, ông Beaupere. Ông có tin gì mới không?
- Tôi đã tìm thấy kẻ lang thang.
- Kẻ lang thang nào?
- Người mà bà gác cổng thấy lượn lờ trước cửa ngôi nhà tối hôm ấy. Ở khu Maubert người ta biết ông ta dưới cái tên là Giáo sư.
- Ông ta đã khai những gì?
- Chưa. Tôi gặp ông ta lúc mười một giờ đêm qua trong khi ông ta say mèm. Tôi đã mang ông ta về Sở, định bụng khi sếp cần, tôi sẽ đưa ông ta tới.
Ông không nói thêm, cả đêm qua ông không chợp mắt được lúc nào, mặt ông tái nhợt hơn lúc nào hết, mắt sưng húp.