- VIII -
Viện Pháp y có đèn sáng choang, nhưng bà Blanche vẫn chưa biết mình đang ở đâu. Bà tưởng mình được đưa đến một cơ quan nào đó. Nhưng tại sao cơ quan lại có những chiếc ngăn kéo lớn bằng sắt có đánh số?
Vẫn là ông Beaupere đi theo bà. Người ta đã cử một nữ y tá đến chăm sóc bà gác cổng. Không chỉ nhà của người gác cổng tăm tối mà cả Paris cũng vậy. Mây dày đặc làm cho người ta có cảm giác lúc này đang là chiều mùa đông. Mưa vẫn rơi như trời đang trút nước xuống làm sạch các đường phố và những người qua lại.
Cả hai người đều ướt sũng tuy đã tới đây bằng taxi. Có vài điều lạ lùng: bà Blanche đội một chiếc mũ kiểu cũ, màu đen, chỉ đủ che một chỏm đầu, xung quanh mũ là mớ tóc bạc trắng làm thành một vầng hào quang bằng một chất liệu rất mịn như thường thấy trên những cây thông đêm Noel.
Khi được biết những ngăn kéo sắt chứa các xác chết, bà quá đỗi sững sờ, đứng lặng đi một lúc mà không có phản ứng gì. Rồi dần dần bà hiểu ra. Khi nhìn mặt ông Bouvet, những ngón tay bà làm động tác như đang lần tràng hạt. Bà không nói gì. Ở đây bộ mặt ông Bouvet không giống với mặt ông khi ở Toumelle, kể cả khi ở Sở Cảnh sát. Không phải là bộ mặt nữa mà là một hình thù có những đường nét và không ai có thể tưởng tượng trên đôi môi kia đã từng có những nụ cười.
Người phụ trách đứng chờ để đóng ngăn kéo lại trong khi đó bà vẫn nhìn, cặp mắt không màu sắc của bà bắt đầu loang loáng nước. Bà nhìn thấy lờ mờ như đang nhìn qua những giọt nước từ mớ tóc bạc đang nhỏ xuống. Đôi môi bà mấp máy. Những giọt nước mắt chảy theo những vết nhăn trên má, đi quanh co để rồi đọng lại dưới cằm.
- Bà nhận ra ông ta chứ?
Bà gật đầu, mắt vẫn đẫm lệ. Ông Beaupere nhẹ nhàng và vụng về nắm lấy cánh tay bà đi lùi lại trong khi người phụ trách đẩy chiếc ngăn kéo vào.
Xe taxi đợi ở ngoài cửa, nhưng trước khi đi bà Blanche còn ngoái cổ lại nhìn những ngăn kéo khác đựng xác người đang đợi người phụ trách mở ra tất cả.
Bước chân của họ để lại trên nền nhà lát gạch men. Họ phải vượt qua một tấm màn mưa để chui vào ôtô để trở về Sở Cảnh sát.
Người ta có coi ông Beaupere thiếu tế nhị trước khi tiến hành cuộc thẩm vấn không? Quyết định của ông có phải do vụ việc này đã vượt ra khỏi giới hạn của công tác “điều tra quyền lợi của các gia đình” không?
- Tôi sẽ thay thế ông. Ông về nhà để thay quần áo đi.
Thanh tra Lucas bảo ông Beaupere khi gặp hai người.
Ông Beaupere không muốn như vậy. Ông không muốn về nhà. Ông không mệt chút nào. Bà Blanche nhìn ông bằng cặp mắt thất vọng như ông đã phản bội bà, để lại bà một mình với một người không quen biết.
Nhưng Lucas không dữ tợn chút nào. Sở Cảnh sát vắng lặng khi mọi người đều trở về hết. Buổi tối, hầu hết các văn phòng đều đóng cửa. Trên bàn có những cốc bia đã cạn, có một cốc đầy, Lucas uống một ngụm.
Anh ta nói vài lời ngắn gọn sau khi mời bà già ngồi xuống một chiếc ghế bành bọc nhung màu đỏ.
- Bà hiểu là chúng tôi không làm điều gì xấu với bà, đúng không? Xong việc chúng tôi sẽ đưa bà về nhà, ở đấy đang có một nữ y tá giỏi tay nghề và tận tâm săn sóc bà gác cổng.
Bà Blanche nói lí nhí, như không biết mình đang nói gì và không nghĩ đến điều mình nói, rất ngắn:
- Cảm ơn ông.
- Tôi muốn gặp bà vào sáng mai nhưng có nhiều người đòi hỏi vụ này phải được sớm làm sáng tỏ, tốt hơn cả là chúng ta làm việc ngay. Bà không đói chứ?
- Không, thưa ông.
- Bà có khát không? Không ư? Tốt. Bà có muốn tôi khép bớt cửa sổ lại không?
Các cửa sổ đang được mở. Bên ngoài là mưa bão như đang giết chết dòng sông Seine, những tiếng sét làm sáng lên một thoáng chiếc cầu trên đó có những chiếc xe buýt, xe taxi, nhưng không có lấy một bóng người.
- Bà có sợ gió bão không?
Bà Blanche không dám nói là mình sợ, nhưng Lucas đã hiểu rõ. Anh ra gài cửa sổ, kéo rèm che rồi ngồi xuống trước mặt bà, châm một điếu thuốc.
- Bà là bà Blanche, nhưng bà mang họ gì?
Phải đợi một lúc để bà nhớ lại để có một ý kiến.
- Tên thật của tôi ư?
- Tên mà cha mẹ bà đã đặt cho? Bà sinh ra ở đâu?
- Ở Concameau. Cha tôi là Berbelin.
- Bà mang họ gì?
- Charlotte. Ông ấy đặt cho khi chúng tôi tới Bruxelles...
- Ông bà không làm lễ thành hôn ư?
Bà ta lắc đầu.
- Bà đang làm nghề gì khi gặp ông già vừa qua đời. Nếu tôi không nhầm thì thời ấy ông ta tên là Gaston Lamblot, đúng không?
Bà không trả lời ngay và Lucas đã giúp đỡ bà. Anh kiên tâm, thấy trước những điều có thể xảy ra.
- Bà đã sống trong khu phố nào của Paris?
- Gần Quảng trường Blanche.
- Một mình ư?
Thật là khác thường khi người ta khơi lên một dĩ vãng quá xa xôi. Có thể là bà ta không nhớ ra ư? Có thể là đầu óc bà ta đã mụ mẫm ư?
- Bà đã sống với một người có tên là Pierre Mancelli, đúng không?
Bà thở dài rồi gật đầu.
- Bà là gái điếm ư? Bà có thẻ hành nghề không?
Bà không khóc, không chối cãi, cũng không xấu hổ. Bà tiếp tục nhìn anh với vẻ hoảng hốt.
- Nếu tôi nói có điều gì sai thì bà cứ nói lại.
- Không, thưa ông.
- Điều tôi nói là không đúng ư?
- Không, thưa ông.
- Rồi bà trở thành tình nhân của ông Lamblot ư?
- Vâng.
- Thời ấy ông ta làm nghề gì?
- Tôi không biết.
- Ông ta là sinh viên ư?
- Tôi không biết.
- Ông ta sống ở đâu?
- Sống với tôi.
- Ở khu phố Blanche ư?
- Trong một khách sạn nhỏ, còn ở phố nào thì tôi quên mất rồi. Phố ở gần Đại lộ Batignolles và Quảng trường Clichy.
- Ông ta sống ở phố nào khi gặp bà?
- Ở phố Đức Ông.
- Vì ông ta mà bà bỏ Mancelli ư?
Bà Blanche cựa quậy. Lucas cho rằng điều ấy là không đúng, bà muốn đính chính lại nhưng không tìm ra câu chữ và cả ý kiến hỗn độn trong đầu của bà.
- Bà có nhiều thời gian để nhớ lại. Bà có muốn tôi gọi cà phê lên không?
Danh từ cà phê làm cặp mắt bà ta có thêm sức sống và anh nhấc máy điện thoại gọi một khách sạn ở Quảng trường Dauphine.
- Nói xem, ông Fermin, ông có đủ can đảm vượt qua mưa gió để mang bia và cà phê tới đây không? Cho nhiều cà phê. Loại tốt nếu có thể.
Lucas để bà Blanche nghỉ ngơi. Anh sang văn phòng kề bên tra cứu sổ sách của Đội cảnh sát phòng chống tệ nạn xã hội.
Khi anh trở lại thì bà ta vẫn ngồi yên. Bà có thể bất động hàng giờ liền ở nguyên một chỗ, trong lúc đó một đám mây mù ý nghĩ lảng vảng trong đầu. Anh ra ngoài hành lang đón người phục vụ của khách sạn Dauphine tới nơi với một chiếc khay. Fermin mang theo một chiếc ô lớn màu đỏ thường dùng để đưa hàng cho khách trên các vỉa hè và tỏ ra vui vẻ như mưa gió đã kích thích ông ta.
- Một vụ giết người ư?
Ông ta chỉ tay vào cánh cửa văn phòng.
- Một người to lớn ư?
- Một bà già.
Lucas cho đường vào tách cà phê của mình và giúp bà già cho sữa vào tách của bà một cách đáng mến.
- Trước hết tôi cần nói với bà rằng những chuyện quá khứ đã hết thời hiệu. Bà hiểu không? Không ư? Cái đó có nghĩa là pháp luật sẽ không xét xử bà và cả tình nhân của bà là ông Lamblot, nếu ông ta còn sống. Không phải vì cái chết của Mancelli mà tôi hỏi bà mà vì nhiều lý do khác nhau, chúng tôi muốn biết lai lịch của ông Lamblot.
Anh nói chậm, nhưng dù sao thì cũng còn nhanh, còn khó hiểu đối với bà già trong lúc bà ta vẫn giật mình mỗi khi có tiếng sấm sét. Có thể trong lúc anh đang nói thì bà ta đang canh chừng tiếng sét tiếp theo ư?
Bà Blanche nhẹ nhàng cầm chiếc tách và uống từng ngụm nhỏ như là một phu nhân trong một bữa tiệc.
- Khi ông Lamblot là tình nhân của bà thì bà bỏ Mancelli ư?
Anh nhắc lại hai lần câu hỏi đồng thời thay đổi một vài danh từ.
- Tôi không biết. Không phải là ngay lúc ấy. - Ông vẫn như là một khách hàng của bà ư?
- Không. Tôi không tin là như vậy.
- Ông ta có trả tiền bà không?
- Chắc chắn là không rồi.
- Chính ông ta đề nghị bà chung sống với ông phải không? Ông ta không cho bà ra đứng ở vỉa hè nữa, đúng không?
Cũng không phải là như vậy. Anh quan sát phản ứng trên mặt bà, đọc ở đó ý chí, sự ngập ngừng, nỗi hổ thẹn của bà. Vì chính bà cũng muốn nói lên sự thật nữa.
- Ông Lamblot có tiền không?
- Không nhiều lắm.
- Hàng ngày ông ta làm gì? Ông ta có vẻ như người làm ở bàn giấy hoặc trong xưởng thợ?
- Không.
- Ông ta dậy muộn và ngồi một nơi suốt ngày ư?
- Vâng,
- Có nhiều lúc ông ta cần tiền chứ?
- Tôi cho là như vậy.
Lucas biết rõ cái thời ấy. Người ra đã dạy anh khi anh vào ngành cảnh sát. Quảng trường Clichy, Đại lộ Batignolles là một vành đai đỏ, có nhiều tên vô lại. Con gái mặc váy có nếp gấp, tóc búi trên đầu; con trai đâm chém nhau bằng dao.
- Ông Lamblot có giống như những người khác không?
- Không.
- Ông ta muốn làm cho bà thay đổi cách sống?
- Không phải ngay lúc ấy.
- Và Mancelli muốn gặp lại bà ư?
- Chắc chắn là như thế.
- Ông Lamblot có dẫn bà đi nhảy không?
- Một đôi lần. Thường thì đến các quán rượu ở gần Đại lộ Rochechouart để nghe hát, nghe kể chuyện.
- Với bạn bè ư?
- Vâng.
Bà không nhớ tên các quán rượu ấy. Hầu hết đấy là nơi vui nhộn của tầng lớp tư sản, nhưng có những nơi người ta nói về công bằng xã hội, thời ấy đã bắt đầu hình thành một bọn người vô chính phủ.
- Bà có nghe người ta nói chuyện nổ bom không?
- Có.
- Ông Lamblot nói ư?
- Ông ấy và những người khác nữa.
Có tiếng gõ cửa. Một viên thanh tra mang đến cho Lucas một tấm thẻ màu hồng đã cũ nát và bà già hoảng hốt khi nhìn thấy nó.
Bà Blanche đã đi khám bệnh da liễu hai lần một tuần trong cùng ngôi nhà ấy theo phong tục. Một đôi lần người ta cũng bắt bà đi nằm ở nhà thương một hoặc hai tuần lễ nữa.
- Ông Lamblot có mắc bệnh gì không?
Nhìn tấm thẻ trên tay Lucas, bà biết câu hỏi đó có ý nghĩa gì rồi.
- Không.
- Còn bà?
- May cho tôi là không.
- Ông Lamblot có yêu bà không?
- Tôi không biết!
Câu hỏi không cần thiết. Có thể ông ta đã rời khu La tinh như đã rời Roubais, kết quả của một sự phản ứng do mệt mỏi hoặc chán nản. Việc chuyển tới Quảng trường Clichy cũng không có gì là khác thường. Thời ấy, rất nhiều con trai các gia đình tư sản tới Montmaitre để giao thiệp không chỉ với các nghệ sĩ, các ca sĩ mà cả với những tên ma cô có uy tín nữa. Một số người lập nên những nhóm bí mật bàn cách ném bom vào các quan chức trong chính phủ và của khách nước ngoài.
- Ông ta chỉ viết ư?- Chợt nảy ra một ý nghĩ, Lucass hỏi.
- Vâng.
- Viết sách ư?
- Tôi không biết. Ông ấy viết rất nhiều. Ông ấy đọc to cho bạn bè nghe những điều mình đã viết.
- Rồi những cái đó không bao giờ được in trên báo ư? Bà nhớ lại xem.
Mặc dù đã đi giày vải mỏng, nhưng cái nóng của lò sưởi đã làm cho chân bà ngứa ngáy và bà đang tự hỏi có thể tháo giày ra được không.
Lucas nhớ lại các lý thuyết và giúp bà Blanche khôi phục lại trí nhớ.
- Ông ta có tới khu Montmaitre không?
Bà ta đã tháo được giày và hỏi lại:
- Khu phố Montmaitre ư?
Rồi bất chợt bà nhớ ra.
- Có. Để vào một hiệu sách nhỏ.
Hiệu sách ấy đến nay có còn không? Thường có một điểm hẹn của những người vô chính phủ hoặc những kẻ không tín ngưỡng tới đây in sách báo.
- Bà cùng đi với ông ta chứ?
- Vâng.
- Họ làm gì ở đấy?
- Họ tranh cãi. Lamblot đọc cho họ nghe một cái gì đó.
Bà không hiểu gì. Thời ấy bà không hiểu gì. Tình nhân của bà cũng không hỏi là bà có hiểu không. Ông ta chọn bà vì bà là một gái làng chơi để tự mình đoạn tuyệt với các qui ước.
- Mancelli đã đe doạ ông ta ư?
Đúng thế. Bà thấy không cần trả lời.
- Và Lamblot đã thủ sẵn dao trong người ư?
Một con dao lớn có chốt hãm, thật vậy, vì thời ấy chưa có súng lục.
- Rồi hai người cùng đi đến phố Moulin de la Galette ư?
- Đây là lần đầu tiên chúng tôi tới đấy.
- Mancelli đang rình hai người. Lamblot đã đâm hắn và hai người cùng chạy trốn. Đêm hôm ấy hai người ở đâu?
- Chúng tôi cứ thế mà đi.
- Ở Paris ư?
- Ở Paris, rồi ra khỏi Paris ở ngoại ô Flandres. Chúng tôi về nông thôn. Sau đó chúng tôi lên xe lửa ở một ga nhỏ.
- Để đi sang Bỉ ư?
- Vâng.
- Hai người có tiền trong túi không?
- Gần như không có. Chỉ đủ chi dùng trong ba ngày.
Họ đi trốn, tuy nhiên người ta không tìm ra họ.
- Bà đã đổi tên ư?
- Vâng. Ông ấy bảo từ nay tôi tên là Blanche và để cho mọi người tưởng chúng tôi là vợ chồng.
- Bà yêu ông ấy chứ?
Bà ta nhìn viên thanh tra mà không trả lời. Và đây là lần đầu tiên từ khi tới văn phòng này, mắt bà rớm lệ.
- Bà đã vào làm việc trong một quán cà phê ư?
- Trong một quán rượu lớn ở Quảng trường Brouckere. Tôi phục vụ bàn, ông ấy làm việc dưới hầm rượu.
- Ông ta có đau khổ lắm không?
Câu hỏi ấy như đã làm cho bà ta sợ, trong thâm tâm bà buộc phải nhớ lại.
- Tôi không tin là như vậy. Ngày nghỉ chúng tôi về nông thôn hoặc vào rừng Cambre. Như thế gọi là gì?
Bà thấy thích thú khi trả lời như vậy. Cái đó làm bà nhớ lại những hình ảnh sáng sủa.
- Ông ấy đã rời bỏ bà để đi với một phụ nữ khác ư?
- Tôi không biết. Tôi không tin là như vậy. Ông ấy bỏ đi, thế thôi.
- Không báo trước cho bà ư?
- Ông ấy nói mình sẽ sang nước Anh.
- Ông ta có yêu cầu bà cùng đi không?
- Không!
- Ông ta có hứa là sẽ quay lại không?
Câu hỏi ấy làm bà ngạc nhiên, như nó không phù hợp với thực tế và bà nói theo cách của mình.
- Không phải như vậy.
Có thể là bà không muốn để người ta hỏi đến một người có một ảnh hưởng nào đó đến cuộc sống của mình chăng? Ông ta đã nhặt bà trên vỉa hè, đã sống gần một năm trời với bà. Có thể là bà tưởng vì mình mà ông ta giết người ư? Bây giờ thì ông đã đi xa, bà không hy vọng được sống cùng ông nữa.
- Ông ta có viết thư cho bà không?
- Ông ấy chỉ gửi cho tôi một tấm bưu thiếp chụp phong cảnh ở Londres, chỉ có một cái cột.
- Trafalgar Square ư?
- Tôi cho rằng như vậy ông ấy đã viết rồi. Tôi còn giữ tấm bưu thiếp đó.
- Đấy là tất cả những gì của ông ta ư?
- Và một đôi tất ngắn nữa.
- Sau đó bà trở về Paris?
- Không về ngay. Thoạt tiên tôi về Anvers.
- Làm việc trong một quán rượu khác?
- Một quán rượu của phụ nữ.
Lucas biết, ở miền bắc nước Bỉ, có những phụ nữ phục vụ trong quán bia. Khách hàng ngồi lên đùi họ để uống bia trước khi vào trong các phòng.
- Bà ở đấy có lâu không?
- Khá lâu.
- Là bao nhiêu năm?
Bà ta nhắm mắt lại để tính nhẩm, đôi môi lắp bắp.
- Mười sáu năm.
- Cũng trong quán bia ấy ư?
Cũng trong quán ấy. Không như Lamblot thích thay đổi. Có thể vì quá béo nên khách hàng không chuộng.
- Bà vẫn giữ cái tên mà ông ta đặt cho ư?
- Vâng. Tôi trở về Pháp. Thoạt tiên là ở Lille.
Sợ bà xấu hổ khiến Lucas không muốn hỏi bà làm gì ở đây.
- Ở Paris tôi phụ trách phòng rửa mặt cho một quán cà phê ở Bastille. Khi thấy tôi già yếu, người ta cho tôi làm chân quét dọn.
Bà ta vẫn làm những việc lặt vặt như vậy. Đối với những người nghèo, đối với những bà già khác như bà ta, những người đau ốm không nơi nương tựa.
- Bà nhận ra ông ta trong ảnh trên tờ báo ấy ư?
- Vâng. Tôi rất muốn nhìn mặt ông ấy nhưng không dám. Một bà đã đến khi tôi đang nói chuyện với bà gác cổng, tôi đành để lại bó hoa tím rồi ra về.
Còn một chút cà phê trong bình và Lucas rót cho bà già. Trong khi chờ đợi bà ta uống xong, anh uống nốt cốc bia của mình.
- Thôi! Bây giờ thì tôi đưa bà về.
- Người ta không cần đến tôi nữa ư?
- Tôi không nghĩ là như vậy. Sáng mai người ta lấy chữ ký của bà vào bản khai báo.
- Khi nào thì người ta chôn cất ông ấy?
- Tôi sẽ báo tin cho bà sau.
- Đúng như vậy chứ?
Lucas dẫn bà già vào một chiếc ôtô nhỏ của Sở Cảnh sát và hai người sau đó đến nhà của người gác cổng, nơi người nữ y tá đã dọn dẹp được một phần. Anh cũng dẫn bà già về căn hộ của bà vì trời vẫn mưa. Trên hè phố có những mảnh báo sũng nước, trên một mảnh có ảnh ông Bouvet.
Từ cái đêm có người vào trong nhà khiến bà cho rằng mình đã kéo dây mở cửa hai lần, bà gác cổng ở phố Toumelle thường ngủ chập chờn. Khi người nhạc công đàn phong cầm trở về vào lúc hai giờ sáng, bà đã phải đứng lên nhìn qua ô cửa kính xem có đúng là anh ta không.
Gia đình nhà Sardot chuẩn bị đi nghỉ hè. Họ đã đăng ký một phòng ở Riva Bella và hành lý đã được chuẩn bị đầy đủ, vé xe lửa đã được đặt mua sau đấy hai ngày, dù cho có sự cự nự của đứa con trai; nó không muốn đi chừng nào chưa dự đám tang của “bạn” nó.
- Người ta không mai táng ông ấy trước kỳ nghỉ hè đâu.
- Ai bảo thế?
- Phải tiến hành cho xong cuộc điều tra và không còn ai khiếu nại gì nữa.
- Nhưng nếu người ta cứ chôn cất ông ấy thì sao?
Vào lúc tám giờ tối, luật sư Guichard gọi điện thoại cho thân chủ của mình ở Quảng trường Vosges.
- Xin lỗi vì đã làm phiền bà, bà bạn, nhưng có một sự kiện mà bà cần biết vừa xảy ra. Như đã nói với bà, tôi có mối quan hệ công tác với luật sư Rigal. Trước bữa ăn chiều, ông ấy đã gọi điện để hỏi tôi về một số tin tức. Ông ấy nói ông ấy đang ở Paris một mình, gia đình ông đã đi nghỉ bên bờ biển, ông ấy phải ở lại do nhu cầu công tác. Ông ấy vừa được biết công việc tôi đang đảm nhiệm. Tôi cứ để mặc cho ông ấy nói. Điều thú vị là trong ống nghe tôi nghe thấy tiếng nói của bà Marsh. Tôi không thể nói lại chuyện này cho bà qua dây nói được và tôi muốn bà cho phép tôi gặp bà vào sáng mai. Sự lo ngại đầu tiên của tôi là muốn biết rõ ý định của bà.
Ông Rigal nói đây là một công việc phức tạp, giải quyết cho xong cũng phải mất nhiều năm. Chưa thể biết trước còn bao nhiêu người nữa tới khiếu nại về việc thừa kế tài sản của Samuel Marsh tức Lamblot. Có nên vì lợi ích của cả hai bên mà có quan hệ với nhau không? Bà hiểu chứ? Ông ta không thừa nhận sự hợp thức của việc kết hôn này. Ông ta đã quan hệ với một người ở Panama và được biết pháp luật về hôn nhân của nước này.
Tôi không nhận lời với ông ta. Nhưng tin cuối cùng cho biết, cảnh sát đã tìm ra người sau này có tên là Samuel Marsh là kẻ đã gây ra một vụ giết người vào năm 1897 ở Paris. Chắc chắn là máy điện thoại có một ống nghe phụ vì tôi nghe thấy tiếng nói của phụ nữ trong đó. Đó là tất cả. Bà nghe rõ chứ?
- Phải. Tôi nghĩ đến người phụ nữ ấy và con gái của bà ta.
- Bà thấy thế nào?
- Sẽ có một cuộc chiến tranh giữa họ với nhau. Ông không tin ư?
- Cần biết trước thế thôi. Bây giờ xin chúc bà ngủ ngon. Ở khu phố của bà mưa có to không?
- Bà người hầu của tôi nói ở dưới nhà có một ống máng bị vỡ, sân bị ngập cả.
- Chúc ngủ ngon...
- Chúc ngủ ngon...
Sáng hôm sau khi Paris thức giấc thì mưa đã tạnh nhưng trời vẫn còn u ám như mấy hôm trước. Nước nhỏ giọt từ các mái nhà, vỉa hè đã khô ráo từng mảng. Nước sông Seine ngầu bùn, dòng nước chảy xiết làm thành những vệt trước mũi các xà lan.
Ông Sardot tay cầm chiếc hộp đựng bữa ăn sáng, nói khi đi qua nhà bà gác cổng:
- Chiều mai thì tôi đang bơi trên biển rồi.
Bà gác cổng đưa ông Ferdinand lên giường nằm và bắt đầu quét dọn. Sau trận mưa nhà cửa rất bẩn. Có thể bà đang nghĩ tới ông Bouvet chăng? Có thể là bà chẳng nghĩ gì cả chăng?
Tám giờ sáng, các cửa hàng đã mở, mọi người đã đi làm.
Khi ông chủ cửa hàng bán nhạc cụ vừa mở cửa thì đã thấy bà Jeanne đang đứng ở đó. Bà ngừng tay quét tước để nói chuyện với ông về trận bão đêm qua.
- Sét đã đánh xuống khu phố. Mong sao không thiệt hại gì!
Ông định trả lời thì bà đã nhìn thấy một người phía bên kia đường. Và bất chợt bà chạy đến giữ lấy cánh tay người ấy và kêu rất to:
- Hãy gọi một cảnh sát!
Ông chủ hiệu nhạc cụ đứng yên vì quá ngạc nhiên.
- Một cảnh sát! - Bà Jeanne kêu tiếp. - Nhanh lên!...
Người lạ mặt mặc một bộ complet màu xám, đội một chiếc mũ màu nâu tỏ vẻ ngạc nhiên. Người ấy tìm cách gỡ tay bà gác cổng ra nhưng không có vẻ gì là muốn dùng vũ lực.
- Xin bà, bà bỏ tay tôi ra... Tôi không tìm cách chạy trốn hoặc đánh bà đâu.
- Nhưng tôi thì tôi biết anh là ai. Anh là một tên Đức quốc xã.
Bà Jeanne nói thật to câu đó khiến hai ba người qua đường dừng lại. Người ta cho rằng bà giữ chặt như vậy, nếu người kia bỏ chạy thì bà Jeanne sẽ bị kéo lê trên đường.
- Đó là một tên boche! Một tên boche bẩn thỉu! - Bà ta nhắc lại - Chính hắn đã thẩm vấn tôi về ông Bouvet trong thời gian chiến tranh và hắn muốn bắt ông ấy.
Ông chủ cửa hàng nhạc cụ đã gọi được một cảnh sát đang đứng trên cầu. Cả hai đang chạy lại.
- Nhanh lên, ông cảnh sát. Không hiểu hắn đang làm gì. Đó là một tên boche! Chính hắn đã đến để bắt một trong những người thuê nhà của tôi trong thời kỳ chiến tranh...
Người lạ mặt tỏ vẻ bình tĩnh. Khi bà gác cổng buông tay ra thì anh ta sửa lại cà vạt và áo veston.
- Anh có mang theo giấy tờ không?
Người cảnh sát nghiêm khắc hỏi.
Nhiều người khác đứng xúm lại và lúc này nhóm nhỏ ấy đã có hơn một chục người.
- Tôi sẽ xuất trình giấy tờ ở đồn cảnh sát.
- Các ông, các bà có nghe thấy giọng nói của hắn không? Tôi tin chắc là mình không nhầm. Thời ấy hắn cũng cắt tóc kiểu bàn chải nhưng ngắn hơn kia.
Viên cảnh sát lật mũ người này ra: tóc cắt ngắn đến mức hầu như trên đầu không có tóc.
- Anh có thừa nhận là mình đã gặp bà này không?
- Tôi sẽ trả lời với sếp của ông, ông trung sĩ.
- Khoan đã! Để tôi đánh thức chồng tôi dậy trong nhà. Tôi cũng đến đồn cảnh sát. Tôi sẽ giải thích với ông cảnh sát trưởng...
Bà chạy về nhà, cởi chiếc tạp dề, xuất hiện trở lại với chiếc mũ trên đầu.
- Một tên boche - Bà nhắc lại như cho chính mình.
Nếu ông Bouvet còn sống thì chắc chắn hắn sẽ bị xử bắn.