← Quay lại trang sách

- VII -

Sau khi đã thảo luận với người đại diện pháp luật về những khía cạnh kỹ thuật của vụ án và khi ông này đã ra về, ông Giám đốc cho gọi Lucas tới.

- Tôi cho rằng chúng ta đã biết căn cước của ông Bouvet - Ông Giám đốc nói - Có một bà xưng là em gái ông ta vừa gặp tôi tại văn phòng này.

Và ông nói tóm tắt cuộc gặp gỡ với viên thanh tra.

- Cần phải liên hệ với Roubais. Không thể chỉ tin vào lời một bà già: “Người này là anh trai tôi, người mà lâu nay tôi không gặp mặt; anh tôi cũng có vết sẹo như vậy bên chân phải”.

- Bảy mươi sáu tuổi! - Lucas thở dài.

- Anh nói gì?

- Không ạ. Tôi sẽ gọi điện thoại cho đội cảnh sát lưu động ở Roubais, ở Lille, yêu cầu đi hỏi những người ngày xưa từng đánh bi với anh chàng Lamblot. Cũng có thể trường trung học còn lưu giữ hồ sơ của học sinh cũ, cái đó sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều, về phần mình, tôi sẽ đến trường Luật lục tìm hồ sơ, sổ sách xem hiện còn những luật sư, quan toà nào đã học ở đó cùng với người của chúng ta không. Dù sao tuổi tác của ông ta cũng làm công việc đơn giản đi nhiều: không cần thiết tìm những người từ bảy mươi nhăm tuổi trở xuống...

- Cái đó cũng chưa cho chúng ta rõ ông ta đã làm những gì trong thời kỳ từ khi rời Paris năm hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi cho đến năm bốn mươi nhăm tuổi, trở thành ông Samuel Marsh và đã có một số tài sản lớn sau đó kết hôn ở Panama.

- Sếp có cho rằng bà già ấy là người thật thà không?

- Tôi tin chắc nhưng bà ta thì có thể nhầm lẫn.

- Tôi sẽ ngạc nhiên nếu thời gian tới có những người khác tới nhận ông ta là người thân. Nhất là báo chí lại đăng ông ta có những đồng tiền vàng! Sếp có nhớ vụ có người mắc chứng hay quên quên một trăm ngàn francs trong ví không? Chính vì số tiền ấy mà năm người đàn bà tranh giành nhau.

- Tôi không cho đây là trường hợp của bà Lair. Có thể vụ đột nhập vào căn hộ ấy sẽ cung cấp cho chúng ta những dấu vết mới.

- Tôi nghi ngờ điều này. Tôi ở đấy cả buổi sáng và kết quả lại trở lại lúc ban đầu. Sếp có muốn biết cảm giác của tôi không? Tôi cho rằng việc này cũng giống như việc mà những người ở phố Saussaies đã làm.

Ông Guillaume mỉm cười. Đã có những cuộc tranh chấp giữa Sở cảnh sát với Sở An ninh, đóng ở phố Saussaies, phụ trách những vấn đề chính trị. Có khi nhà một quan chức cao cấp, một dân biểu mất trộm vặt là việc của Sở Cảnh sát nhưng họ cũng xông vào.

- Xin sếp hiểu cho. Đây là công việc của một tên chuyên nghiệp, hắn không để lại một dấu vết nào. Một tên kẻ trộm tầm cỡ cũng có thể làm được như vậy nhưng hắn không coi thường những đồng tiền vàng. Hơn nữa hắn thừa biết việc đột nhập này nhất định sẽ bị phát hiện ra. Xin chú ý đây chỉ là một cảm giác của tôi thôi.

- Như vậy thật là kỳ cục, đúng không?

- Chắc chắn không phải ông già lang thang đã làm việc này. Ông ta không có tiền để mua găng tay bằng cao su rồi lại vứt đi. Một thằng bé đã nhặt được đôi găng tay ấy cách ngôi nhà chừng năm trăm mét. Cũng không phải là bà Marsh vì bà ta không đủ can đảm. Tôi nghi cho người con gái và con rể bà ta.

- Người con rể làm nghề gì?

- Buôn tranh. Có thể đây là đối tượng tình nghi duy nhất. Vợ chồng họ đã ăn tiêu quá mức nên sinh ra túng quẫn. Họ sống trong một ngôi nhà hiện đại ở phố Passy nhưng đồ đạc trong nhà đều mua trả góp cả. Hai năm nay còn nợ tiền thuế. Túng tiền nhưng họ vẫn thường tới những khách sạn ở Champs Elysée, và các hộp đêm. Sếp biết rõ những cái đó.

- Phải.

- Phòng tranh của anh ta không có gì là hấp dẫn cả. Anh ta chỉ có những bức tranh cùng một loại, không có bức nào có thể gọi là tuyệt phẩm cả. Ba năm trước đây anh ta hy vọng kiếm được nhiều tiền từ một bức tranh của Rembrandt mua được. Anh ta phải mất nhiều tháng để các chuyên gia xác minh. Cuối cùng có hai chuyên gia công nhận đây là của thật nhưng đấy lại là những chuyên gia hạng xoàng. Bấy giờ anh ta đang tìm người mua. Nhưng những nhà triệu phú như những triệu phú người Mỹ trong vùng này thì hầu như không có. Anh ta gửi tờ quảng cáo tranh đi New York, Boston và Chicago. Hình như có một viện bảo tàng nào đó muốn mua bức tranh ấy với giá hai trăm ngàn đôla nếu ba chuyên gia người Mỹ công nhận tính xác thực của nó.

Như đã nói, câu chuyện xảy ra cách đây ba năm. Một chuyên gia đã tới Paris nhưng không nói đúng hay sai. Một chuyên gia khác sẽ tới Bruxelles trong thời gian tới. Phải nói trước, việc này không dễ dàng gì vì Nhà nước không cho phép bán những công trình nghệ thuật ra nước ngoài. Cái đó dẫn tôi nghĩ đến việc Frank Gervais đã đột nhập vào căn hộ với đôi găng tay cao su. Chỉ có điều, trong hoàn cảnh tài chính của vợ chồng họ hiện nay thì tại sao anh ta lại không bị những đồng tiền vàng lôi kéo.

- Hay là hắn tin chắc rằng vợ hắn sẽ được thừa kế số tài sản đó?

- Tôi biết. Tôi đã nghĩ đến điều đó. Nhưng dù sao cũng không phải là anh ta. Cảnh sát viên Mariette đã kiểm tra lại thời gian biểu của anh ta. Anh ta không tới Toumelle vào cái đêm hôm ấy. Bà già của sếp cũng như vậy. Chỉ còn lại bà già của ông Beaupere thôi.

- Ông ấy đã tìm ra bà ta chưa?

- Chưa. Nhưng ông ấy sẽ tìm ra. Có thể còn những người khác sẽ tới căn hộ ấy nữa. Tôi sẽ đi nghỉ trong ba ngày! Nếu cái thằng sinh viên người Mỹ đáng nguyền rủa ấy không chụp ảnh... Sếp có thấy ông Lamblot hoặc Marsh hoặc Bouvet ấy, gọi thế nào thì tuỳ, có vẻ giễu đời không?

Lucas vừa đi ra, thở không khí trong lành, với vẻ không bực bội lắm thì chuông điện thoại reo vang.

- Alô. Tôi đây...

Anh đứng lại lắng nghe.

- Anh tin chắc chứ?... Vào năm nào?... 1897 ư?... Trời!... Hãy lục tìm trong kho hồ sơ xem sao... Sau đó đưa tài liệu cho tôi...

Khi gác máy, ông Guillaume nhìn người thanh tra bằng cặp mắt ranh mãnh:

- Trên kia họ đang làm công việc thường ngày của họ vì họ không hiểu đây là chuyện gì. Vì người ta đã đưa đến cho Phòng Căn cước một xác người, họ phải làm những thủ tục cần thiết. Việc lấy dấu vân tay đang phát huy tác dụng của nó.

- Tờ phiếu của ông ta có trong hồ sơ của chúng ta từ năm 1897. Đây là loại hồ sơ lâu đời nhất và rất có thể trong đó có dấu vân tay của ông ta.

Họ không phải chờ đợi lâu, một nhân viên đã mang tới tấm thẻ có ba dấu vân tay. Ông Giám đốc úp tấm thẻ xuống để đọc mặt sau.

Vụ Mancelli ngày hai mươi tám, tháng hai, năm 1897. Những dấu vân tay lấy từ con dao dùng vào việc giết người. Hung khí đã nộp cho Toà án.

Không một người nào trong cơ quan biết vụ Mancelli. Những người biết thì đã qua đời hoặc nghỉ hưu rồi.

Người ta đã không dùng tấm phiếu kiểu này từ lâu rồi, ngày xưa người ta đã làm và giao nộp nó cho Phòng Căn cước.

Chuông điện thoại lại reo vang.

- Alô. Phải... Anh tin chắc chứ?... Xin cảm ơn anh...

- Đáng tiếc - Ông Giám đốc nói với Lucas. - Còn một tập hồ sơ về Mancelli, nhưng ở đấy người ta không tìm thấy nó.

- Tôi sẽ cử một người nào đó đến Toà án.

- Họ sẽ phải mất tám ngày để lục lọi trong kho hồ sơ! Tôi thấy anh có thể làm nhanh hơn bằng cách tìm trong các tập báo hàng ngày cũ.

Và bất chợt ông mỉm cười.

- Tôi đang tự hỏi không hiểu các bà già đang đón tiếp nhau như thế nào. Chắc hẳn bà Lair đang ở phố Toumelle, vui mừng vì sắp được nhìn thấy mặt người anh trai, không biết ông ta đã để lại dấu vân tay trên con dao giết người.

Đúng là bà Lair đi theo viên thanh tra đang ở trong ngôi nhà này. Bà hài lòng khi gõ cửa nhà bà Jeanne và đã cười với bà ta một nụ cười đáng mến có đôi chút buồn bã.

- Tôi xin lỗi vì đã làm phiền bà.

Câu nói không quá đáng chút nào vì bà Jeanne đang cãi nhau với ông chồng. Ông Ferdinand đang càu nhàu hai hôm nay không được một giọt rượu nào.

- Tôi là em gái của người thuê nhà của bà và, biết rằng bà đã giúp đỡ anh tôi rất nhiều, tôi muốn được nói chuyện với bà. Tôi cho rằng bà sẽ nhận lời đưa chúng tôi lên lầu. Ông thanh tra đây sẽ bóc giấy niêm phong.

Bà gác cổng kéo rèm che, buộc ông Ferdinand phải đi ngủ lại, sau đó bà mặc một chiếc tạp dề sạch, khoá cửa nhà mình, mang theo chìa khoá và đi ra.

Bà vẫn còn nghi ngờ, nhưng bà này xem ra còn có vẻ dễ chịu hơn bà người Mỹ kênh kiệu nhiều.

- Bà chỉ đường giúp chúng tôi được chứ?

Câu nói ấy không làm cho bà khó chịu vì đây là em gái của ông Bouvet mà ngược lại nó làm cho bà hài lòng nữa là khác.

- Bà sẽ thấy sự bừa bộn ở trên đó vì các ông ấy cấm không cho tôi dọn dẹp. Nếu bà biết nỗi thất vọng của tôi khi nhìn thấy họ mang ông ấy đi như thế nào! Có thể lúc này người ta đã biết rõ ông ấy là ai và họ sẽ trả ông ấy lại cho chúng tôi, đúng không? Bà sẽ làm một việc gì đó, phải không?

Viên thanh tra yên lặng đi theo hai người phụ nữ, biết đây là những chuyện giữa các bà, anh cho rằng tốt hơn cả là không nên góp chuyện. Anh cẩn thận xé những tờ giấy niêm phong trên cửa và đứng lại ở đấy mà không bước vào căn hộ đầy ánh nắng mặt trời ấy.

- Tuần trước ở đây rất gọn gàng, sạch sẽ! Nhưng, nói xem, bà nhận ra đây đúng là ông ấy chứ?

- Tôi đã được tận mắt nhìn thấy thi thể của anh trai tôi rồi. Diện mạo không thay đổi nhiều như tôi tưởng, và tôi đã quan sát kỹ vết sẹo.

- Tôi cũng đã nhìn thấy nó vì khi ông ấy ốm, tôi là người lau mình cho ông ấy mỗi buổi sáng.

- Chắc hẳn anh trai tôi rất quí mến bà.

Lucas đi taxi tới một toà báo trên phố Poissonniere. Khi anh nói mình muốn xem những tập báo lưu trữ, người ta đưa anh vào một căn phòng trải thảm có rất nhiều tập báo đóng bìa màu đen, nhưng ngay lập tức anh nhận ra đó là những tờ báo phát hành từ năm 1900 trở về sau này.

Người ta phải sử dụng một người thư ký khác đi tìm chìa khoá và dẫn anh lên một cầu thang hẹp vào một căn phòng màu xám và lạnh lẽo trên lầu cao nhất của ngôi nhà.

- Có thể là ở đây. Coi chừng bụi bẩn!

Trong phòng có mùi ẩm mốc của giấy cũ và có những tờ báo theo một khổ nhỏ lạ mắt mà thời thơ ấu Lucas đã được nghe kể lại.

- Toà báo yêu cầu ông đặc biệt cẩn thận vì giấy cũ rất dễ gãy nát. Tôi có thể giúp ông. Ông muốn xem số báo ra ngày tháng năm nào?

- Hai mươi tám, tháng hai, năm 1897.

Ngày hôm ấy trên báo không có tin gì đặc biệt. Những cột báo in chữ rất nhỏ, đầu đề không lớn, bài này tiếp bài khác.

- Ông cho tôi xem số ra hôm trước.

Họ đã tìm thấy. Có một bài đăng tin sau đây.

CÁI CHẾT CỦA MỘT TÊN VÔ LẠI

Một người có tên là Pierre Mancelli, vô nghề nghiệp, đã đi tù nhiều lần về tội gây rối, đã bị một nhát dao đâm giữa ngực, lúc nửa đêm hôm qua, cách phố Moulin de la Galette vài bước chân. Vụ giết người xảy ra rất nhanh chóng trong đêm tối. Những nhân chứng ít ỏi cho biết Mancelli đứng rình một đôi trai gái và tiến lại khi họ rời khỏi một ngôi nhà lớn. Một cuộc cãi vã nổ ra, tiếp đó là một cuộc ẩu đả và, khi những người qua đường tới nơi thì đã thấy Mancelli nằm trên vũng máu, một con dao cắm trên ngực. Hắn chết nửa tiếng đồng hồ sau khi mang tới nhà thương mà không nói được một lời.

Sau khi gây án, đôi trai gái đã chạy vào các ngõ nhỏ của khu Montmaitre, không tới trình báo với cảnh sát nên không biết họ là ai.

Cảnh sát cho đây là một vụ thanh toán lẫn nhau. Công cuộc điều tra đang tiếp tục.

Các số báo tiếp đó không đăng gì thêm. Vụ án ít gây chấn động trong công chúng.

Lucas rời toà báo và tới đồn cảnh sát quận mười tám bằng taxi, nhưng ở đây không ai biết gì về vụ Mancelli cả. Một nhân viên bảo anh:

- Có lẽ ông già Louette thì nhớ đấy!

- Ông ấy là ai?

- Ông ta đã làm việc ở đây năm chục năm. Ông nghỉ hưu cách đây bảy năm và vẫn sống ở khu phố Lamarck gần đây. Thỉnh thoảng bị chứng mất ngủ, ông tới đây chơi bài với đồng nghiệp cũ và kể chuyện mình. Những chuyện về các vụ án.

Anh tới phố Lamarck. Ông già Louette vẫn sống ở đây, gần bằng tuổi ông Bouvet, nhưng ông vừa về thăm con gái tám ngày ở Rambouillet.

Hai người đàn bà ở phố Toumelle đã bắt đầu quên sự có mặt của viên thanh tra và đang nói chuyện với nhau ngoài hành lang với thằng bé con nhà Sardot. Bà Lair là người khéo gợi chuyện.

- Tôi cho rằng ông ấy đã rất sung sướng - Bà Jeanne nói - Không phải là người vui vẻ nhưng ông ấy thích kể những chuyện vui. Nhưng ông ấy không ưu phiền, kể cả việc lo lắng về bệnh tật. Nhiều lần tôi hỏi ông ấy sao không đi khám bác sĩ và tôi giới thiệu cho ông ấy một thầy thuốc giỏi, không lấy nhiều tiền. Ông ấy đã trả lời, ông ấy biết rõ bệnh của mình hơn bất cứ bác sĩ nào và ông không lo lắng gì cả.

Năm ngoái khi ông ấy ngã bệnh, tôi hỏi có cần báo tin cho ai không, Ông ấy trả lời: “Không cần báo tin cho ai cả. Ích gì kia chứ?” Bà hãy nhìn ba chiếc ghế bành kia. Chúng vẫn được kê gần như cũ. Tuỳ theo ánh mặt trời rọi vào, lúc thì ông ngồi trên chiếc ghế này, lúc trên ghế khác. Ví dụ như buổi sáng thì ông ấy dùng chiếc ghế này.

Ông ấy rất hiền lành. Ông không thích dùng cà phê. Giây một giọt cà phê vào đĩa chén của mình là ông không bằng lòng. Ông ấy cũng rất sạch sẽ nữa. Tôi chưa hề thấy ai sạch sẽ như ông ấy. Ông ấy thích tự chuẩn bị bữa ăn trưa cho mình và khi tôi lên đây. Tôi không thấy một vụn bánh mì nào ở dưới sàn nhà. Còn về tranh ảnh...

- Anh tôi có nói về cuộc sống của anh ấy trước khi về cư trú ở đây không?

- Không. Nhưng tôi đã thấy ông ấy đã đau đớn như thế nào khi bọn Đức quốc xã tới gần Paris. Ông ấy không cho rằng chúng sẽ kéo tới đây. Thời gian ấy ông ấy thường ra ngoài từ sáng đến chiều tối. Tôi không biết ông ấy đi đâu, nhưng ông ấy tỏ ra biết nhiều tin tức hơn báo chí.

Một buổi sáng, vào lúc mười một giờ, vừa đi đâu về, ông ấy vội vàng bảo tôi lên trên phòng thu xếp vali cho ông. Lúc ấy có nhiều người thuê nhà khác cũng đi di tản. Nhà ga rất lộn xộn. Tôi không biết thời ấy bà có ở Paris không và bà còn nhớ những chuyện đó không.

Có thể tôi đã rất phiền muộn khi thấy ông ấy đi như vậy. Tôi cứ tưởng ông ấy ở lại với chúng tôi. Tôi hỏi ông: “Ông đi đâu, ông Bouvet. Chúng không thể làm điều gì xấu với một người tuổi tác như ông đâu”. Ông ấy không trả lời tôi và tôi ngậm ngùi nhìn ông ra đi với chiếc vali trên tay vì lúc ấy không tìm đâu ra một chiếc taxi.

Suốt thời gian chiến tranh, tôi không nhận được tin tức gì của ông ấy. Ông ấy cũng không gửi tiền về để trả tiền thuê nhà nhưng tôi vẫn yên tâm và thỉnh thoảng lên quét dọn căn hộ của ông vì khi đi ông ấy chỉ mang một vài bộ quần áo và vài chiếc khăn mặt.

Một buổi sáng, có một người cắt tóc kiểu bàn chải, mặc một chiếc áo khoác dày, vì lúc ấy là mùa đông, đã gõ cửa nhà tôi và hỏi ông Bouvet có nhà hay không. Không hiểu tại sao tôi nghi ngờ người này. Hắn nói lơ lớ tiếng Pháp. Chắc hẳn đây là một người nước ngoài. Hắn đặt ra cho tôi rất nhiều câu hỏi nhưng tôi chỉ trả lời một cách mơ hồ, bà biết tại sao tôi lại như vậy rồi...

Nghe thấy có tiếng động ở bên dưới, bà Jeanne chạy ra đầu cầu thang, cúi nhìn xuống.

- Có chuyện gì vậy?... Không!... Họ không có mặt ở nhà... Họ đi nghỉ rồi... Khi nào họ về ư?... Ngày hai mươi tám, tháng chín...

Bà ta mỉm cười khi đi qua người cảnh sát đang ngồi trên bậc cầu thang nói chuyện với thằng bé Sardot.

- Tôi xin nói tiếp. Như là một chuyện ngẫu nhiên, ba ngày sau đó, một người khác lại đến, nhưng nghe giọng nói, tôi biết ngay đây là một tên Đức quốc xã. Và một tuần lễ sau thì một chiếc xe chỉ huy của quân đội phát xít Đức chạy đến và đậu ngay trước cửa ngôi nhà. Một sĩ quan Đức xuống xe cùng với ba người vận đồng phục khác. Bọn chúng không thèm nói với tôi một lời. Chúng biết chúng cần đi đâu. Chúng chạy lên căn hộ này ngay lập tức. Nhưng tôi cũng chạy lên theo chúng. Khi chúng muốn phá cửa, tôi nói tôi có chìa khoá và chúng chờ tôi đi lấy chìa khoá.

Nhưng chúng không cho tôi vào trong phòng. Chúng đóng sập cửa lại trước mặt tôi. Chúng ở trong ấy bốn tiếng đồng hồ liền, có trời mới biết được là chúng đã làm những gì. Cuối cùng thì tên sĩ quan đi xuống một mình, còn những tên kia thì vẫn tiếp tục lục soát. Tên sĩ quan không đợi được mời, đàng hoàng ngồi xuống ghế. Hắn biết đôi chút tiếng Pháp. Hắn hỏi tôi về ông Bouvet. Hắn hỏi tôi ông ấy đi đâu. Hắn luôn miệng nhắc lại: “Bà biết đấy, thưa bà”. Tôi nói: “Tôi không biết, nhưng nếu có biết thì tôi cũng không nói với ông”. Đó là một người cao lớn, tóc hung, đẹp trai. Hắn gọi một tên khác đang ngồi trong ôtô vào lục lọi trong nhà tôi. Chúng tôi nhận được nhiều bưu thiếp của những người thuê nhà ở vùng tự do gửi về. Chúng lấy và mang đi tất cả.

Bà biết không, sau đó chúng tới đây hai lần nữa cũng chỉ có một việc ấy. Tôi rất lo ngại nhưng cũng rất hài lòng vì việc này chứng tỏ ông Bouvet không yêu thích gì chúng. Ba tháng sau ngày giải phóng, tôi thấy một chiếc xe tải chở những người di tản từ Dordogne chạy đến, đỗ trước cửa nhà.

- Anh trai tôi đã nói với bà những gì?

- Không có gì. Ông ấy chỉ hỏi căn hộ của ông ấy vẫn còn nguyên chứ và ở nhà chúng tôi có bị đói không?

- Khi bà nói việc bọn Đức đến khám nhà thì thái độ anh tôi như thế nào?

- Ông ấy cười. Cái cười có vẻ giễu cợt. Sau đó ông ấy kể thời gian đi di tản ông ấy sống trong một trang trại ở Dordogne. Ông ấy nói mình đã giúp đỡ chủ trại trong việc trồng trọt. Tôi tin chuyện này vì tôi thấy hai bàn tay ông sần sùi và chân còn đi đôi giày lớn của nông dân. Ông ấy kể về cuộc sống ở trang trại vui vẻ như thế nào khiến tôi phát ghen lên... Bà nói xem! Tôi cho rằng hôm nay họ phải trả ông ấy cho chúng ta, đúng không? Vì đây là anh trai bà nên họ chẳng có lý do gì để giữ ông ấy ở đấy.

Cặp mắt của bà Jeanne trở nên nghi hoặc.

- Bà có cho rằng đây là nơi tốt nhất để...

Bà Lair đang tìm danh từ. Gọi là tang lễ thì to tát quá, nhưng gọi là đưa ma thì lại quá thường tình.

—... Chiều hôm nay người đại diện pháp luật của tôi sẽ cùng bà thu xếp việc này. Tôi không cho rằng họ không nhanh chóng đưa anh tôi về đây đâu. Có thể những bạn cũ của anh tôi cũng đến viếng đấy.

- Ai?

- Ông bác sĩ chạy chữa cho anh ấy khi bị ngã từ trên cây xuống không may đã qua đời. Nhưng nhiều bạn cũ của anh ấy thì hãy còn cả.

- Bà cho rằng ông ấy đã lấy người đàn bà ấy ư?

- Có thể. Có thể là như vậy.

- Nhưng ông ấy đã bỏ bà ta rồi phải không? Như vậy...

Viên thanh tra đứng trước cửa húng hắng ho và bà Jeanne, nhân lúc thi hài ông Bouvet không có ở đây, đi ra khép và gài các cửa sổ lại. Sau đó bà vội vàng đi thay khăn trải giường và cảm động khi thấy bà Lair giúp mình làm việc này.

- Nếu không hay chuyện thì tôi đã quét dọn xong căn phòng này rồi. Ông dán lại giấy niêm phong chứ, ông thanh tra?

- Đó là nhiệm vụ của tôi.

- Tôi rất ấy náy khi nghĩ đến việc tôi đã kéo dây kéo cửa hai lần mà không biết.

Khi đi xuống cầu thang, bà nói với thằng bé Sardot:

- Cháu có biết bà này là ai không? Đó là em gái của ông Bouvet, bạn cháu đấy. Cháu chào bà ấy đi.

Cậu bé chìa tay ra và nói:

- Chào bà Bouvet!

Lúc năm giờ rưỡi chiều thì trời bắt đầu mưa nặng hạt. Cùng lúc ấy có tiếng sấm ở phía Charenton và một trận gió làm bay mũ khách qua đường đang vội chạy trú mưa dưới các cổng vòm và mái hiên.

Những người bán hàng rong ở ngoại ô Saint Antoine, đầu đội chiếc tạp dề hay chiếc túi xách tay, đang đẩy những chiếc xe đẩy tay chạy mưa. Nước hai bên đường bắt đầu chảy mạnh như những con suối, nước trong các ống máng chảy róc rách và trên các lầu cao người ta đã khép chặt các cánh cửa sổ lại

Ông Beaupere đã tìm được một nơi trú ẩn ở giữa một người bán rau quả và một người bán thịt và lẩm nhẩm đọc các biển số nhà gắn trên tường. Một thợ trồng răng trên lầu một làm ăn có vẻ dấm dúi, một thợ mát xa trên lầu hai và trong nhà này còn có một người làm hoa giả nữa.

Ông đã hỏi khoảng bốn chục bà già, nhưng những người này thì nhỏ bé và gầy gò, những người kia thì không bao giờ rời khỏi phòng ở khi ông hỏi gần đây họ có tới phố Toumelle không.

- Tôi đến phố Toumelle làm gì?

Một bà khác thì nói một thôi một hồi bằng một ngôn ngữ mà ông không biết; ông cho rằng đấy là người Ba Lan.

Ông gạch những địa chỉ đã tới thăm trong cuốn sổ tay lớn của mình. Ông đi dọc hành lang tới một căn phòng bên ngoài treo tấm bảng “Người gác cổng”. Vì mưa bão, nên người ta chỉ dùng một bóng điện tù mù.

Ông bước vào và thấy một phụ nữ đang nằm trên giường và trên một chiếc giường khác có một đống đen ngòm, bên đó là một xô khoai tây đang gọt dở.

- Cảnh sát hình sự đây!

Một mùi mồ hôi người và thuốc bốc lên làm ông nhớ lại thời mình đi mổ ruột thừa.

- Xem ông ấy muốn hỏi gì, bà Blanche.

Một tiếng người yếu ớt cất lên từ chiếc giường thứ hai. Và một tiếng người như tiếng con trẻ hỏi ông:

- Ông muốn gì?

Ông cần làm quen với ánh sáng ở đây.

- Tôi chỉ muốn hỏi bà rằng trong nhà này có một bà già cao tuổi, vận bộ đồ đen và chân bị đau không?

Trong khi nói như vậy, ông bất giác nhìn chân bà gác cổng đi tất len và bên ngoài là đôi giày vải.

Bà già chưa kịp trả lời thì người người đàn bà nằm trên giường bên kia mệt mỏi nói:

- Bà ấy ở đây, phải. Đã hơn ba chục năm nay. Bà ấy thường giúp đỡ chúng tôi. Ông muốn hỏi gì?

Có những tiếng sấm chen vào cuộc nói chuyện, ánh đèn nhập nhoè. Có thể sắp mất điện. Người đàn bà tên là Blanche tay cầm con dao gọt khoai tây sợ hãi nhìn ông.

Bà ấy có khuôn mặt rộng, da tái xanh, mắt lờ đờ, môi nhợt nhạt, cứ như các bộ phận trên mặt đều được nhào nặn bằng cùng một chất liệu.

- Bà biết ông Bouvet chứ? - Ông Beaupere hỏi một cách đường đột.

Bà ta ngẩng đầu, ngạc nhiên nhìn ông rồi nói:

- Ông ấy chết rồi.

- Bà biết ông ta ư?

Bà ta còn nói:

- Tôi đã mang hoa tím đến viếng ông ấy.

- Tôi biết.

- Nhìn thấy ảnh trên báo, tôi nhận ra ông ấy ngay.

Ông chưa bao giờ nghe thấy một giọng nói như vậy. Nó cũng nhợt nhạt như bộ mặt. Bà ta quay sang giường bên kia như để hỏi ý kiến bà bạn.

- Trước đó bà có thường gặp ông ta không.

- Đã lâu lắm rồi. Vâng.

- Hai chục năm ư?

- Nhiều hơn.

- Ba chục năm ư?

- Nhiều hơn.

- Gặp ở Paris ư?

- Vâng, ở Paris.

- Bà gặp ông ta trên phố nào ở Paris?

- Tôi đã cùng đi Bruxelles với ông ấy và chúng tôi đã sống ở đấy một năm. Có thể là ít hơn, tôi không nhớ nữa.

- Lúc ấy ông ta đã mang tên Bouvet rồi ư?

- Không. Tôi chưa bao giờ nghe thấy cái tên ấy. Lần đầu tiên tôi thấy nó trên báo. Cũng là ông ấy thôi.

- Khi bà biết ông ấy thì ông ấy tên là gì?

Bà ta lại lo ngại nhìn người nằm giường bên.

- Tôi cho rằng bà cứ nói hết với ông ấy, bà Blanche. - Bà gác cổng nói.

- Ông ấy đã đổi tên.

- Khi nào?

- Trước khi chúng tôi rời Paris.

- Tên đầu tiên của ông ta mà bà biết là gì?

- Là Gaston... Gaston Lamblot...

- Tên sau đó...

- Ông ấy tên là Pierron.

- Tại sao ông ta lại đổi tên?

- Tôi không biết.

- Còn bà?

- Ở Bruxelles người ta gọi tôi là bà Pierron.

- Hai người đã kết hôn ư?

Bà ta ngập ngừng. Bà vẫn lơ đãng gọt khoai và ông Beaupere sợ rằng bà sẽ bị đứt tay.

- Không. Mọi người cứ tưởng như vậy thôi.

- Là những người nào?

- Những người trong quán cà phê.

Bà ta không giấu giếm, trả lời thật thà các câu hỏi, nhưng sự suy nghĩ của bà rất chậm, đó là những ý kiến rất đơn giản mà bà không thể nào nói khác đi được.

- Bà đã làm việc trong một quán cà phê ư?

- Tôi phục vụ trong hầm rượu.

- Bà nói thật đấy chứ? Bà tin chắc hai người chưa từng kết hôn chứ?

- Vâng. Chúng tôi làm cho mọi người tưởng như vậy.

- Hai người không có con ư?

Bà Blanche lắc đầu, ngạc nhiên rồi buồn rầu.

- Sau đó đã có chuyện gì xảy ra?

- Ông ấy bỏ đi.

- Tại sao?

- Tôi không biết.

- Ông ta đi đâu?

- Tôi không biết. Chỉ biết ông ấy đi thôi.

Không kiếm đâu ra được mấy điện thoại trong gian phòng này và ông Beaupere tới một quán rượu gần nhất.

- Mang bà ấy về đây! - Ông Guillaume ra lệnh.

- Không hiểu tôi có thể làm được việc này không?

- Bà ấy đang ốm ư?

- Không. Bà gác cổng ốm. Bà ta đang chăm sóc bà gác cổng.

- Trở lại bên bà ấy và đợi tôi cử người đến chăm sóc bà gác cổng.

Ông Beaupere không uống gì cả. Ông bỏ một thỏi kẹo cao su vào miệng, kéo cao cổ áo khoác lên và trở lại ngôi nhà. Giày của ông đã thủng nên nước làm ướt tất bên trong.

- Người ta sẽ cử một người tới đây - Ông báo tin.

Và người phụ nữ đang gọt khoai tây hỏi một cách đơn giản:

- Để làm gì?