Chương 1 Bối cảnh: Đất nước bình yên
Sự nghiệp Gorbachev gắn liền với những biến động chính trị của Liên bang Xô viết. Chương này đem đến cho độc giả một cái nhìn tổng quan về hệ thống chính trị Xô viết từ khi thành lập năm 1917. Lenin thay đổi tư duy nhiều lần để chèo lái con thuyền đất nước phát triển, nhưng khi việc cải tổ cơ cấu hệ thống Xô viết còn dang dở thì ông qua đời năm 1924. Những người kế nhiệm ông đã hoàn thành tốt chương trình cải cách giai đoạn đầu vào thập niên 1920 nhưng sự thắng thế của Stalin đã đánh dấu chấm hết cho nền kinh tế thị trường, mở đầu nền kinh tế kế hoạch tập trung. Với cơ chế này, quyền hành kinh tế, chính trị tập trung ở Moskva, nằm trong tay Stalin và những người cùng phe cánh. Cơ chế kinh tế mới ngày càng tỏ ra kém hiệu quả nhưng mãi đến khi Stalin mất năm 1953, ý tưởng cải cách cơ chế kinh tế cũ mới xuất hiện. Khrushchev cố gắng tiến hành các cải cách triệt để nhưng ông không bao giờ có thể vượt qua áp lực dồn ép từ nền kinh tế phân tán và quyền hành chính trị tập trung. Kosygin đã cố gắng mạnh dạn trao cho các xí nghiệp quốc doanh quyền quyết định nhiều hơn nữa, nhưng các sự kiện diễn ra ở Tiệp Khắc năm 1968 làm cho những ý niệm của ông bị tê liệt hoàn toàn.
Liên bang Xô viết là một quốc gia chịu sự lãnh đạo của Đảng, còn về hành pháp thì các Hội đồng Xô viết lãnh đạo và giám sát Ủy ban nhân dân địa phương cùng cấp. Việc giải quyết các mối quan hệ đan xen phức tạp này đánh dấu từng bước tiến của Gorbachev.
DI SẢN CỦA CHỦ NGHĨA LENIN
Trong bài viết về các nền kinh tế giai cấp 1 , Karl Marx không bao giờ đề cập yếu tố dự đoán. Ông là người thuộc về thời kỳ trước năm 1914, khi con người chỉ dám mơ một ngày nào đó họ có thể biết được mọi điều họ cần và hòa bình sẽ thế chỗ chiến tranh. Niềm tin con người có thể khám phá mọi quy luật sinh tồn đã đưa Marx đến nhận thức về cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, giữa giới chủ và giới làm thuê, nó tựa như một vở kịch mà các nghệ sĩ trên sân khấu nhập vai đã định trước và họ không có quyền thay đổi vai diễn. Đoạn kết của vở kịch là cuộc cách mạng, kết quả tất yếu và không thể tránh khỏi. Weltanschauung, hay thế giới quan này đã được Lenin và những người Bolshevik khai thác và vận dụng một cách háo hức với lòng tin như tin vào Chúa. Họ tin là có thể kiến tạo được tương lai và tương lai là sự vươn lên của quá khứ và hiện tại, chỉ ngày càng tốt đẹp hơn. Quan trọng hơn nữa, họ cho là họ có thể định hướng một tương lai theo ý thích của riêng mình. Nhân tố nổi bật là Lenin đã xây dựng được một ý chí, ông tin mình và Đảng Bolshevik có thể dệt nên một bức tranh nước Nga theo ý muốn. Ông đã nghĩ như thế nào về tương lai của nước Nga phát triển qua các giai đoạn? Người ta cho rằng Nikolai Bukharin và Lev Trotsky có tác động đến quan điểm của Lenin, vì vậy nước Nga thời đó có thể được coi là tác phẩm của ba nhân vật cầm quyền này.
Lenin chịu nhiều ảnh hưởng của mô hình phát triển kinh tế Đức thời chiến và ông nhận ra các điểm mạnh của chủ nghĩa tư bản, coi đó là tiền đề quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa tư bản lập ra công cụ quản lý kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng, tập đoàn tư bản và các dịch vụ viễn thông… Không có giới ngân hàng, chủ nghĩa xã hội không tồn tại… Các ngân hàng lớn chính là công cụ của nhà nước, cái mà chúng ta cần áp dụng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, và chúng ta cần tiếp thu cái có sẵn của chủ nghĩa tư bản… Một ngân hàng nhà nước riêng, ngân hàng lớn nhất trong hệ thống ngân hàng, theo đó là hệ thống chi nhánh ngân hàng địa phương được thành lập ở mỗi vùng nông thôn, trong mỗi nhà máy sản xuất đã tạo ra chín phần mười bộ máy hoạt động của chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm về một nhà nước gắn với giới công chức đã dần mờ nhạt và Lenin chủ trương phá bỏ mô hình nhà nước đó. Theo ông, phải xây dựng một mô hình hoàn toàn mới. Một nhà nước công xã sẽ thay thế nhà nước cũ, nhà nước công xã này sẽ lập ra các Xô viết, hợp tác xã, công đoàn, ban lãnh đạo nhà máy và các tổ chức đại diện cho nhân dân để điều hành. Các nhà chức trách do dân bầu ra đại diện cho quyền lợi của nhân dân sẽ điều hành công việc của nhà nước, chịu trách nhiệm trước cử tri bất kỳ lúc nào và được trả mức lương như người lao động bình thường. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội này gắn xã hội với nhà nước. Năm 1918, tên Đảng Bolshevik được đổi thành Đảng Cộng sản toàn Nga nhằm khẳng định quyết tâm của giới lãnh đạo trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không có nhiều người quan tâm đến quá trình tiến hành bầu cử, tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng, quyền miễn trừ của người đại diện ứng cử và các quyền dân sự. Sở dĩ như vậy là vì Lenin không xem nhà nước hay chính trị (Lenin hiểu nó cũng như các mối quan hệ giữa giới tư bản và người lao động) là bất biến, tồn tại mãi mãi vì cả nhà nước và chính trị đều biến mất cùng với sự biến mất của việc người bóc lột người. Mục tiêu hàng đầu trong chính sách của Lenin là xóa bỏ sự bóc lột, nghĩa là xóa bỏ sự tồn tại của các giai cấp trong xã hội. Khi loài người đạt được mục tiêu này sẽ không cần đến nhà nước và chính trị. Xã hội sẽ trở thành một xã hội tự trị và tự quản.
Năm 1920-1921, Lenin, Bukharin và Trotsky xây dựng lại quan điểm của họ về nhà nước. Họ cùng đi đến kết luận rằng chủ nghĩa xã hội không đồng nhất với sự tham gia của đông đảo quần chúng vào việc quản lý các vấn đề chính trị, kinh tế và xã hội. Việc quản lý công nhân, các ủy ban điều hành nhà máy, các tổ chức công đoàn, Xô viết, lực lượng dân quân và các hợp tác xã được đưa lên hàng đầu, đây là giai đoạn phá bỏ cơ chế cũ của cách mạng. Quần chúng đã không tạo ra nhân tố tích cực, mà trên thực tế họ còn góp phần đưa nước Nga Xô viết đến chỗ tan rã. Lenin kết luận chủ nghĩa xã hội không còn được gắn kết với các mối quan hệ quyền lực mà nó được chuyển hóa thành khả năng sản xuất, do vậy tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến sự giàu có. Lần đầu tiên, những người lãnh đạo Bolshevik xác định rõ sự khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, mặc dù cho đến nay, những thuật ngữ này vẫn được sử dụng hoán đổi cho nhau. Nền chuyên chính của giai cấp vô sản được tái xác lập và không phải toàn thể tầng lớp lao động đều có thể thực hiện quyền chuyên chính đó. Chỉ có đội tiên phong trong tầng lớp công nhân mới có khả năng lãnh đạo và điều hành nhà nước. Đội tiên phong đó ở chính ngay trong Đảng.
Giai cấp vô sản vẫn còn bị chia rẽ, bị thoái hóa, một bộ phận thậm chí bị mua chuộc… một tổ chức đại diện cho toàn bộ giai cấp vô sản không thể thực hiện được chuyên chính vô sản. Nền chuyên chính vô sản đó chỉ có thể được thực hiện bởi một đội ngũ tiên phong hội đủ phẩm chất cách mạng, đại diện cho giai cấp đó.
Những người cộng sản chiếm thiểu số và điều này làm sáng tỏ thêm định nghĩa của Lenin về nền chuyên chính: “Không một thứ luật pháp nào hay một quy định nào có thể ngăn cản được nền chuyên chính nếu không trực tiếp dựa vào quyền lực”.
Chỉ nhận được ít sự ủng hộ công khai, quan điểm này dẫn đến tâm lý lo ngại. Lenin bộc trực thừa nhận ông và những người Bolshevik đang lặp lại đúng mô hình nhà nước đế quốc mà họ muốn phá hủy. Chừng nào cuộc xung đột giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội còn tiếp diễn, những người Bolshevik sẽ không thể hứa hẹn bất kỳ “sự tự do hay dân chủ nào”. Công nhân cần phải được củng cố thành một giai cấp và để đạt được điều này, họ phải được tập hợp lại thành một chính đảng duy nhất. Lenin phát biểu ngắn gọn: “Từ nay trở đi, ít chính trị là chính trị nhất”.
Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 2, lần đầu tiên Lenin đưa ra cơ cấu tổ chức của đảng cộng sản. Cốt lõi là cơ chế tập trung dân chủ, có nghĩa là không một thành viên nào hoặc một tổ chức nào có quyền chống lại đường lối chỉ đạo của một cơ quan quyền lực tối cao. Những ai chống đối có thể bị khai trừ. Năm 1921, tại Đại hội Đảng lần thứ 10, khi bị phê phán, Lenin bực tức đã nổi đóa: “Chúng ta không phải là câu lạc bộ tranh luận”. Một nghị quyết đã được thông qua và cấm chủ nghĩa bè phái (chống đối).
Như vậy, theo quan điểm Lenin, cần loại bỏ dần chính trị khỏi đời sống xã hội. Nhiệm vụ hàng đầu của đảng và chính quyền là soạn thảo kế hoạch quốc gia nhằm khai thác tối đa nguồn vốn và lao động sẵn có trong nước. Dưới thời Cộng sản thời chiến (1918-1920), một cơ quan quốc gia chịu trách nhiệm điều hành nền kinh tế là Ủy ban Kinh tế Quốc gia Tối cao (VSNKh) được thành lập nhưng cơ quan này đã không thực hiện tốt vai trò và chức năng của mình vì nội chiến. Chính sách kinh tế mới (NEP) áp dụng từ tháng 3/1921, được coi là bước thụt lùi của chủ nghĩa xã hội và mô hình một nhà nước duy ý chí cấp tiến.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua chủ trương cấm tư tưởng bè phái nhằm khai trừ những thành viên có tư tưởng chống đối các nghị quyết của Đảng. Stalin áp dụng nhuần nhuyễn tư tưởng Lenin nhằm loại bỏ những nhân vật có tư tưởng chống đối ông khỏi hàng ngũ lãnh đạo. Với sự khôn ngoan sắc sảo trong cách nhìn nhận vấn đề, Lenin áp dụng chủ trương này và coi đó là một trong những nghị quyết quan trọng vì nó dập tắt được cuộc tranh cãi trong giới lãnh đạo chóp bu và ở tất cả các cấp cơ sở Đảng. Thật ra, Lenin áp dụng chủ trương cấm tư tưởng bè phái như một giải pháp tạm thời cho đến khi Đảng tạo dựng được uy tín của mình thông qua những thành công của Chính sách kinh tế mới, chính sách này bị coi là một bước dừng tạm thời trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thật không may, Lenin từ trần năm 1924 và ông không có cơ hội đưa nghị quyết này vào thực tế.
Nhiều người bị thuyết phục bởi khả năng dự đoán của Lenin và chủ trương cấm bè phái là một chủ trương quan trọng trong những suy tính chính trị của ông. Ông sinh ra trong thời kỳ thế giới tương đối ổn định − thời kỳ trước năm 1914. Phần còn lại của châu Âu, Thế chiến thứ nhất làm tan vỡ giấc mơ về việc con người có thể biết được mọi điều và mở ra một kỷ nguyên mới chứa đựng nhiều bất ổn. Thời kỳ sau năm 1918, tình hình chán chường nặng nề ở châu Âu gợi lên những tư tưởng cấp tiến, mới mẻ và các giải pháp mới. Nó đánh dấu bằng sự bùng nổ tri thức thời kỳ đó làm cho cuộc sống vốn đã bất ổn lại trở nên bất ổn hơn và kết quả là thế giới ngày càng khó đoán định. Năm 1917, những người Bolshevik chủ động tách nước Nga khỏi châu Âu để tiếp tục duy trì sự ổn định của mình. Quyết định định mệnh này đẩy nước Nga đến chế độ chính trị cực quyền, khi Đảng của những người Bolshevik ít được ủng hộ, buộc họ phải có cách nhìn nhận về tương lai của tầng lớp lao động và các tầng lớp khác trong xã hội.
Tin chắc vào nhận thức của mình, Lenin và những người Bolshevik bị lôi cuốn vào cuộc đấu tranh mà cốt yếu là với những người Nga có quyền hành động tự do. Song đó không phải là khái niệm Marxist chính thống khi Engels cho rằng chỉ khi con người bị áp bức, họ mới có khát vọng tự do mãnh liệt 2 . Tư tưởng này củng cố thêm niềm tin của những người Bolshevik, và Stalin hé lộ sự hiểu biết của mình về điều mà công chúng phản ứng bằng cách đưa ra khẩu hiệu “chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia”. Nga là một nước đặc biệt và có khả năng lãnh đạo thế giới. Ông nhấn mạnh trong bài điếu văn tại lễ tang Lenin rằng đảng viên là những người ưu tú: “Chúng ta − những người cộng sản, phải là những con người đặc biệt mẫu mực. Chúng ta cũng chính là những người làm nên sự mẫu mực đó”.
Nước Nga Xô viết trở thành một nhà nước Liên bang và Lenin hiểu sâu sắc quyền tự quyết của các dân tộc. Họ có quyền rút khỏi Liên bang khi họ muốn. Tuy nhiên, đây là dấu tích của giai đoạn dân chủ công xã trong thời kỳ phát triển của nước Nga. Trong diễn văn của mình, Lenin thẳng thắn chỉ ra:
Có nhiều trường hợp khi quyền tự quyết xung đột với những quyền khác, quyền lợi cao hơn − quyền lợi của giai cấp lao động − giai cấp lao động cần đoàn kết để khẳng định sức mạnh của mình. Trong những trường hợp như vậy − người ta phải xác định rõ − quyền tự quyết không thể và cũng không bao giờ là vật cản đối với giai cấp lao động trên con đường đấu tranh thực hiện chuyên chính.
Dựa vào đó, giới lãnh đạo Đảng Cộng sản xác định rõ quyền lợi tối cao của giai cấp lao động, và trên hết họ xác định rõ những người cộng sản Nga sẽ giữ vai trò quyết định xem điều gì là tốt nhất cho các dân tộc không phải dân tộc Nga. Trên văn bản, Đảng Cộng sản là Đảng Cộng sản Liên bang nhưng thực tế, nó do Moskva định đoạt. Tháng 3/1918, tại Đại hội Đảng lần thứ 8, tư tưởng này được cụ thể hóa như sau:
Mọi nghị quyết của Đảng Cộng sản toàn Nga và các cơ quan lãnh đạo bất luận thuộc tổ chức Đảng của nước cộng hòa nào đều phải được thực hiện vô điều kiện. Những người cộng sản Latvia, Lithuania và Ukraine trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng đều có quyền tham gia Đảng bộ địa phương và đều phải tuyệt đối tuân thủ Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản toàn Nga.
Do vậy, cách tổ chức Đảng không thông qua hai giai đoạn mà chính quyền vẫn làm: tập trung dân chủ và chuyên chính vô sản. Đảng vận hành theo cơ chế tập trung dân chủ, thể hiện ở việc nắm quyền của cơ quan trung ương.
TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ NỀN KINH TẾ
Nền kinh tế hỗn hợp tỏ ra hưng thịnh trong suốt thập niên 1920 và nhân tố này khiến chủ nghĩa xã hội quay trở lại với chương trình nghị sự. Nước Nga là một quốc gia đang phát triển, chiếm 80% dân số sinh sống trên toàn Liên Xô. Để bảo vệ quyền lợi của mình trước các áp lực chính trị, những người cộng sản đã cấm thành lập các đảng phái chính trị khác. Cuộc đấu tranh quyết liệt giành quyền kế nhiệm Lenin đã chấm dứt năm 1929 với chiến thắng của Stalin. Ông rất khôn khéo khi lập liên minh chống lại những đối thủ chính của mình, đầu tiên là những người theo tư tưởng Trotsky, đồng thời ông cũng vô cùng khôn ngoan che đậy tham vọng đích thực của mình: trở thành nhà lãnh đạo đầy quyền lực ở Nga. Với Lenin, việc cơ cấu lại chính phủ đã thu phục được lòng dân. Trên cương vị Chủ tịch Hội đồng nhân dân (Sovnarkom), ông tìm cách dồn mọi nguồn lực vào việc thành lập chính phủ. Năm 1922, nắm vị trí Tổng Bí thư Đảng, Stalin dồn hết mọi nguồn lực xây dựng một bộ máy Đảng phục vụ việc củng cố địa vị cũng như phe cánh chính trị của mình. Từ năm 1921, Bộ Chính trị trở thành cơ quan quyền lực tối cao có chức năng ban hành các quyết sách và vào những năm 1920, trong Bộ Chính trị đã diễn ra mạnh mẽ nhiều cuộc luận chiến. Stalin được coi là một nhà lãnh đạo chuyên chế từ năm 1934. Ông điều hành bộ máy Đảng và chính quyền một cách độc đoán như một Nga hoàng (thực tế ông là người có tư tưởng Đại Nga, sinh ra ở vùng Gruzia) và thâu tóm vào tay mình mọi quyền lực ở Moskva. Chủ nghĩa Stalin là sự pha trộn giữa tư tưởng Đại Nga với các nét văn hóa chính trị, kinh tế thời Xô viết.
Nền kinh tế kế hoạch (còn gọi là nền kinh tế chỉ huy) phát triển sau năm 1928 và được nhân cách hóa lên cho phù hợp. Nó dựa trên sự giả định logic là nếu tất cả mọi nguồn lực quốc gia được huy động tập trung và được phát huy một cách tối ưu thì kết quả sẽ ưu việt hơn bất cứ thành tựu nào của nền kinh tế thị trường. Marx viết về sự phát triển của thị trường: Nền kinh tế kế hoạch tập trung ưu việt hơn chăng? Hàm chứa trong mô hình kinh tế của Stalin còn có một niềm tin vững chắc rằng không một nhân tố nào (như các nhà quản lý, công nhân) dung dưỡng những lợi ích khác với lợi ích của Đảng, của chính quyền. Vì vậy, lợi ích riêng và lợi ích chung sẽ luôn song hành, cùng tồn tại. Điều này chứng tỏ sai lầm cơ bản về nhận thức lặp lại trong thời kỳ Gorbachev.
Stalin vận dụng chủ nghĩa Marx để hợp thức hóa việc tập trung quyền lực ở Trung ương. Chỉ giới lãnh đạo của Đảng Cộng sản mới có kiến thức để thực thi các quy luật phát triển con người và chỉ khi nó có đầy đủ thông tin để tác động tới quá trình này. Các cơ quan và tổ chức khác chỉ được tiếp cận một phần thông tin; tất cả đều tập trung ở cấp Trung ương. Các Kế hoạch năm năm là sự kéo dài hiển nhiên những cố gắng của Ủy ban Kinh tế Quốc gia Tối cao (VSNKh) điều chỉnh nước Nga trở thành một đầu tàu kinh tế duy nhất. Những người Bolshevik cấp tiến thậm chí cho rằng họ không còn bị gò bó trước các quy tắc toán học nữa. Họ không chấp nhận những ý kiến mới của Francis Galton 3 , chẳng hạn như khái niệm giảm dần tới giá trị trung bình. Ông chứng minh rằng sự tịnh tiến từ giới hạn bên ngoài vào trung tâm là hiển nhiên, dễ nhận thấy và có thể dự đoán được. Động lực luôn hướng tới giá trị trung bình, hay hướng tới việc phục hồi chiều hướng phục hồi trạng thái bình thường. Tất nhiên, cách thức ở mỗi giai đoạn sẽ thay đổi. Không mấy ngạc nhiên khi những người Bolshevik thẳng thắn phản bác những kết luận của Galton. Trong suốt những năm 1930, họ không mấy quan tâm đến những số liệu thống kê, tâm lý học, xã hội học và các ngành kiến thức khác liên quan đến đánh giá xã hội. Stalin và ê-kíp của mình không coi trọng việc đánh giá các chuyển biến trong xã hội mà họ đang sống, họ tập trung vào việc xây dựng một thế giới mới.
Các kế hoạch năm năm là những cố gắng giải quyết bất ổn hiện tại bằng cách lập ra Luật Kế hoạch. Chính phủ ban hành các nghị định chi tiết nhằm thực hiện những kết luận của các nhà lập kế hoạch. Họ đang cố sức thận trọng loại bỏ rủi ro. Bằng cách làm này, các doanh nghiệp không cần quan tâm đến cách điều hành của họ dựa vào những định luật xác suất, họ chẳng cần tốn công tính toán các loại sản phẩm của đầu ra tối ưu. Kế hoạch quy định họ được sản xuất cái gì và cung cấp sản phẩm cho ai. Nhà nước cũng quyết định cả sản lượng đầu ra cho họ. Vì các nhà lập kế hoạch Bolshevik không tin (sau năm 1936 khi xã hội chủ nghĩa được xây dựng) là có thể sẽ nảy sinh những mâu thuẫn đối lập (tức là diễn ra quá trình xung đột về lợi ích giữa cơ chế quản lý và người lao động, điều có thể làm kế hoạch thất bại) nên họ không quan tâm đến động lực của người lao động hay các nhà quản lý cũng như tác động ảnh hưởng của động lực ấy đến năng suất lao động ra sao. Một vấn đề then chốt đối với các nhà hoạch định của Stalin là làm sao tăng năng suất lao động, đẩy lùi tình trạng thất nghiệp. Phong trào thi đua lao động, cạnh tranh xã hội và những phong trào khác đều được khơi mào với mục đích tăng thêm nhiều của cải cho xã hội dựa vào những nguồn lực sẵn có trong nước. Stalin nói về các tổ chức công đoàn giống như các tổ chức trung chuyển giữa Trung ương và người lao động nhằm đạt năng suất lao động cao hơn. Phong trào thi đua tăng năng suất ngày càng mở rộng dẫn đến tình trạng ưu tiên số lượng hơn chất lượng.
Chất lượng sản phẩm giảm sút không khuyến khích người lao động quan tâm đến việc tìm kiếm sáng kiến cải tiến sản xuất. Họ e ngại nếu một sáng kiến áp dụng không đạt hiệu quả, xí nghiệp có thể bị phạt. Do vậy, chiều hướng tránh nguy cơ trên dẫn đến việc ngại áp dụng sáng kiến. Cho đến cuối những năm 1930, các vấn đề kinh tế nghiêm trọng đã bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế, người ta mới đề cập vấn đề giao thêm quyền tự quản cho các xí nghiệp. Thực tế cho thấy các nhà lập kế hoạch lại không phải là những người trực tiếp sản xuất để hiểu tường tận tình hình. Tuy nhiên, chiến tranh đã chấm dứt các cuộc tranh cãi và chính sách kinh tế thời chiến cho phép các xí nghiệp có quyền vạch ra những quyết sách của mình nhằm đẩy mạnh sản xuất sản phẩm tối đa dựa trên nguồn lực sẵn có.
Sự thụ động trong quản lý và lao động là mối quan tâm thường trực của Khrushchev (1953-1964). Ông nhanh chóng nhận biết xã hội Xô viết đang thiếu gì và phát động nhiều chính sách cải cách nhằm đạt được hiệu quả to lớn hơn. Ông xua đi sự e ngại và tâm lý rụt rè trong dân chúng, vì tin rằng tâm lý đó sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển. Tất cả những cải cách của ông đều tập trung vào việc nâng cao năng suất lao động. Tuy nhiên, kể từ khi thành lập, Liên Xô cho rằng môn tâm lý không có mấy tác dụng, Khrushchev phủ nhận cách tiếp cận từ các nghiên cứu động lực thúc đẩy xã hội. Chính điều này cứu ông tránh được những sai lầm nghiêm trọng hơn. Ông không cho phép bản thân quá phụ thuộc vào xác suất hay dự đoán. Ông cũng quyết định cần cái gì và hy vọng thực hiện được. Ông tin là có thể đạt được chủ nghĩa cộng sản (hưởng theo nhu cầu, làm theo năng lực), và năm 1961 ông đã tiên đoán chủ nghĩa cộng sản sẽ bắt đầu được xây dựng vào năm 1980. Ông quả là một con người có khả năng đoán định tương lai! Nếu nghe lời Francis Galton, ông sẽ biết tỷ lệ tăng trưởng đang có chiều hướng tăng − nhân tố tối quan trọng trong việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản − chỉ kéo dài trong một thời gian nhất định và sau đó nó sẽ suy giảm theo thuyết về giá trị trung bình. Thực tế, không thể tiên đoán gì về sự xuất hiện của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Khrushchev ngấm ngầm làm xói mòn nhận thức về cải cách và chủ nghĩa cộng sản. Sau đó, quan điểm này chỉ được sử dụng có chừng mực và đến thời Gorbachev, nó chỉ còn là một từ vựng được dùng trong giới lãnh đạo mà thôi.
Những cố gắng cải cách kinh tế cấp tiến thời hậu Stalin diễn ra trong năm 1965 do Thủ tướng 4 Aleksei Kosygin tiến hành. Cải cách này cho phép giao thêm quyền tự quyết cho các xí nghiệp quốc doanh, các xí nghiệp này được phép liên hệ với những người sử dụng sản phẩm cuối cùng và có thể cho công nhân dư thừa nghỉ việc. Việc đưa quân vào Tiệp Khắc tháng 8/1968 làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các cải cách này và nền kinh tế tập trung lại một lần nữa thắng thế. Liên tục có những tranh cãi trong suốt những năm 1970 về vấn đề điều chỉnh cơ chế kinh tế. Điều này liên quan đến việc tăng sản lượng trong cơ chế kinh tế cũ đang tồn tại. Một vấn đề then chốt − quyền sở hữu − lại không được đề cập. Những đề xuất về hình thức hợp tác xã hoạt động hiệu quả hơn xí nghiệp quốc doanh và các trang trại cá thể lại làm ăn tốt hơn các nông trang tập thể hay nông trường quốc doanh đều bị Đảng phủ nhận. Không tồn tại hình thức tư hữu phương tiện sản xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ Brezhnev được coi là giai đoạn ổn định. Vào đầu những năm 1970, nước Mỹ biết đến sức mạnh hạt nhân của Liên bang Xô viết và lúc này Liên Xô được coi là một cường quốc. Thật tuyệt vời vì điều đó làm thỏa mãn cái tôi của người Nga, nhưng niềm tự hào này không kéo dài. Tốc độ tăng trưởng nhờ nguồn lợi từ dầu mỏ che lấp một thực tế là nền kinh tế Liên Xô có chiều hướng phát triển chậm lại. Bệnh tự mãn là nguồn gốc phát sinh tham nhũng, và giới lãnh đạo Trung ương trở nên yếu thế sau năm 1976. Khi Brezhnev chìm trong nghiện ngập, bộ máy lãnh đạo của ông tự thỏa mãn với chính mình. Nền chính trị cũng như bộ máy chính trị Xô viết cần có một lực đẩy, còn nguy cơ thì đã quá rõ ràng. Nước Nga những năm 1970 là hình ảnh một chế độ xã hội thụ động trái với mong đợi. Sự suy nhược của giới lãnh đạo Xô viết từ năm 1979 phản ánh rất rõ sự suy yếu của đất nước này. Quay lại với Francis Galton, việc thay thế các nhà lãnh đạo lớn tuổi, ốm yếu chắc chắn sẽ diễn ra và thay thế phải là một người có tố chất, tạo nên một diện mạo mới.
ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN VÀ CÁC XÔ VIẾT
Tìm hiểu về cơ cấu mà Gorbachev vận hành, phải xét đến ba tổ chức: Đảng, chính quyền và Xô viết. Theo Điều lệ Đảng, cơ quan hoạch định chính sách cao nhất là Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô, nhóm họp bốn hoặc năm năm một lần, nhưng thời kỳ đầu sau cách mạng được tiến hành nhóm họp hàng năm. Các kỳ đại hội được sắp đặt tỉ mỉ và mỗi bài phát biểu đều được kiểm tra đi kiểm tra lại. Mọi việc như được định đoạt sẵn và không có gì được sửa đổi. Giữa các kỳ đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng là cơ quan hoạch định chính sách cao nhất có nhóm họp phiên toàn thể, các nhà lãnh đạo Đảng đứng sau Stalin đều tham dự nghiêm chỉnh. Trong khi đó dưới thời Khrushchev, họp khá thường xuyên; dưới thời Brezhnev, cuộc họp này được triệu tập hai hoặc ba lần mỗi năm và dưới thời Gorbachev cũng theo nếp như vậy. Nó cho thấy tổ chức này không điều hành đất nước dựa trên thiết chế thường ngày. Vai trò này do Ban Bí thư thuộc Ban Chấp hành Trung ương thực hiện. Bộ máy này gồm các ban, hầu hết các ban này tồn tại song song với các bộ thuộc chính quyền. Mỗi ban lại có một lãnh đạo và các bí thư của Ban Chấp hành Trung ương có nhiệm vụ giám sát. Một số bí thư Ban Chấp hành Trung ương cũng là ủy viên Bộ Chính trị và việc nắm giữ các vị trí có nhiệm vụ chức năng như vậy, họ trở thành những nhân vật có quyền lực (hiếm khi là phụ nữ) và là các nhà lãnh đạo Đảng tương lai. Mối quan hệ giữa bí thư trong Ban Chấp hành Trung ương và bộ trưởng thay đổi theo thời gian. Sau năm 1957, bí thư Ban Chấp hành Trung ương có quyền cao hơn bộ trưởng. Bí thư đứng đầu được gọi là Tổng Bí thư, chịu trách nhiệm về mọi việc của Ban Bí thư, thực tế là của Đảng.
Khi Stalin qua đời năm 1953, có sự không rõ ràng, rằng Đảng hay Chính quyền giành nắm quyền ưu tiên? Khi phải lựa chọn, Malenkov quyết định làm thủ tướng và mở đường cho Khrushchev thăng tiến và củng cố cơ sở chính trị của mình trong Đảng. Sau thất bại của Khrushchev năm 1957, nhóm chống đối Đảng − sở dĩ gọi như vậy vì họ chống lại việc tập trung quyền lực vào tay các nhà lãnh đạo Đảng trong nền kinh tế, người có vị trí tối cao trong Chính quyền cũng là người đứng đầu Đảng Cộng sản. Tình trạng này vẫn diễn ra cho đến khi Gorbachev được bầu làm tổng thống năm 1990. Năm 1988, trước khi Gorbachev tiến hành cắt giảm nhằm loại bỏ vai trò của Ban Bí thư khỏi hoạt động quản lý kinh tế, có khoảng 20 ban thuộc Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương. Ban Tổng hợp phối hợp chặt chẽ với Tổng Bí thư, dự thảo chương trình nghị sự cho các cuộc họp của Bộ Chính trị và chuẩn bị các văn bản cần thiết có liên quan. Ban Tổ chức Cán bộ chịu trách nhiệm về lực lượng cán bộ nòng cốt hay bố trí sắp xếp nhân sự. Ban Tổ chức Hành chính giữ vai trò giám sát Bộ Hàng không Dân sự, Bộ Quốc phòng, Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB), Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát, Tòa án Tối cao và bộ máy quốc phòng toàn dân.
Mỗi một nước cộng hòa lại thành lập một đảng cộng sản riêng, ngoại trừ việc thành lập Đảng Cộng sản Liên bang Nga mãi đến năm 1990 mới có. Một tổ chức do Ban Chấp hành Trung ương bầu ra tại mỗi kỳ Đại hội lãnh đạo các nước cộng hòa (riêng ở Ukraine, tổ chức này được gọi là Bộ Chính trị). Cũng có Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương và các bí thư chuyên trách. Người đứng đầu trong Đảng nước cộng hòa là bí thư thứ nhất. Các cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương giữa kỳ Đại hội gọi là Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương, diễn ra ở các cấp của Liên bang. Các nước cộng hòa được chia thành những khu vực hành chính trực thuộc, gọi là tỉnh (oblast) hay khu (krai), trong mỗi khu thường có một vùng tự trị không phải là người Slavơ. Ví dụ, vùng Stavropol có một khu dành cho thiểu số không phải là người thuộc dân tộc Slavơ sinh sống. Các khu hành chính, tỉnh, thành phố được phân chia thành các huyện và quận. Trong cơ quan Đảng tại các cấp độ hành chính này, người lãnh đạo Đảng cũng được gọi là bí thư thứ nhất, nắm quyền phụ trách và chịu trách nhiệm. Bí thư thứ nhất của các khu vực hành chính, các tỉnh, thành phố, thị trấn thuộc Trung ương được gọi là kraikom, obkom, gorkom (khu ủy, tỉnh ủy, thành ủy). Cột trụ trong cơ chế hoạt động chính của Đảng chủ yếu dựa vào các bí thư thứ nhất khu ủy và tỉnh ủy. Đoàn Thanh niên Cộng sản (Komsomol) là phiên bản tổ chức của Đảng Cộng sản và thường các quan chức bắt đầu sự nghiệp của họ đều từ trong tổ chức Komsomol, họ chứng tỏ bản thân và sau đó được đề bạt làm công tác Đảng. Việc đỡ đầu là rất quan trọng trong tổ chức Komsomol và Đảng Cộng sản. Các quan chức có triển vọng đều tập hợp xung quanh mình những đảng viên đáng tin cậy và có hiệu quả (và một số phụ nữ), khi họ có cơ hội thăng tiến thì những người thân cận quanh họ cũng được quan tâm và có cơ hội thăng tiến theo. Kulakov và Andropov là hai người đỡ đầu cho Gorbachev. Khi Gorbachev trở thành Tổng Bí thư, ông kéo theo nhiều quan chức từ vùng Stavropol về Moskva để cùng làm việc.
Các tổ chức nhà nước gồm chính quyền và các Xô viết. Tổ chức này tuyên bố quyền lực tối cao của chính quyền tùy thuộc vào Xô viết Tối cao Liên bang − tổ chức này bầu ra chính phủ và ban hành mọi pháp luật quan trọng. Trên thực tế, Bộ Chính trị là cơ quan hoạch định chính sách tối cao, Tổng Bí thư có quyền cao hơn Thủ tướng. Cho đến khi tiến hành cải cách năm 1989, chỉ một ứng cử viên được đề cử cho mỗi vị trí để bầu vào Xô viết các cấp. Xô viết Tối cao Liên Xô tổ chức họp hai lần mỗi năm, trong vòng một tuần để xem xét và thông qua các quyết sách. Các Xô viết ở địa phương dưới cấp Xô viết Cộng hòa phải chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương, được Moskva cấp kinh phí và phụ thuộc vào lãnh đạo Đảng ủy địa phương. Nếu Bí thư Đảng biết các Xô viết không thực hiện nhiệm vụ được giao thì vị đó có quyền phán quyết và ra lệnh cách chức họ.
Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô chính là chính quyền Xô viết và ở mỗi nước cộng hòa và cộng hòa tự trị đều thành lập một Hội đồng Bộ trưởng riêng. Một số bộ là bộ Liên bang, nói cách khác, chịu trách nhiệm trước toàn thể Liên bang Xô viết. Tất cả các bộ chủ chốt đều là bộ Liên bang: Bộ Quốc phòng, Bộ Thiết kế máy công nghiệp nhẹ (chuyên chế tạo vũ khí hạt nhân cho quân đội), v.v... Các bộ khác là các bộ Cộng hòa Liên bang, các bộ thành lập và hoạt động độc lập trong từng nước cộng hòa nhưng vẫn trực thuộc vào một bộ thuộc Liên bang. Bộ Nông nghiệp là một minh chứng cho cơ cấu tổ chức này. Các Bộ Kinh tế và các xí nghiệp trực thuộc Bộ là những cơ quan quyền lực giống như các tổ chức độc quyền. Rất khó tiến hành cải cách các xí nghiệp này vì không có thị trường và tất cả các bộ công nghệ cao đều liên kết chặt chẽ với các tổ hợp công nghiệp quốc phòng. Họ đánh bại ý đồ của Khrushchev muốn họ phải chịu nhiều trách nhiệm hơn trước giới lãnh đạo Đảng, dưới thời Kosygin (1964-1980) không một cải cách nào có thể đe dọa quyền lợi của họ.
Giai cấp cầm quyền ra sức bảo vệ các đặc quyền của mình. Đầu những năm 1970, Viện sĩ hàn lâm Andrei Sakharov rầu rĩ đánh giá bản chất của xã hội Xô viết như sau:
Xã hội chúng ta đầy rẫy sự thờ ơ vô tình, thói đạo đức giả, tính ích kỷ nhỏ nhen và sự tàn bạo trắng trợn. Phần lớn những người đại diện cho tầng lớp trên − các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước, giới trí thức thành đạt − nắm giữ những bí mật riêng và nghiễm nhiên được hưởng các đặc quyền đặc lợi. Họ thật sự bàng quan với những xâm phạm quyền con người, tiến bộ xã hội, an ninh quốc phòng và tương lai thế giới.