Chương 2 Ngôi sao đang lên
Khả năng thay thế một lãnh đạo có tư tưởng cải cách cấp tiến trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô giai đoạn này rất mong manh khi giới lãnh đạo nước này còn đang tự mãn với những thành quả cách mạng của mình. Khả năng này có chiều hướng rõ rệt hơn khi ê-kíp lãnh đạo mới được lựa chọn cho rằng đang xuất hiện một cuộc khủng hoảng trong chính cơ chế hiện hành. Cơ hội của Gorbachev kế nhiệm Leonid Brezhnev trong năm 1982 là khoảng một trong bốn, kế nhiệm Yury Andropov trong năm 1983 là một trong hai và có thể là sáu chia cho bốn kế nhiệm Konstantin Chernenko tháng 3/1985. Lợi thế giảm dần theo thời gian không vì người ta cho rằng nước Nga đang rơi vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng mà vì Gorbachev chính là một cán bộ cự phách nhất có khả năng tiếp tục điều khiển cơ chế hiện hành. Mọi người đều cho rằng cải cách là cần thiết nhưng chỉ nên tiến hành cải cách bên trong phạm vi hệ thống hay là cải cách trong nội bộ hệ thống cũ mà thôi. Cải cách này chẳng khác gì sắp xếp lại đồ đạc trong nhà, không vứt chúng đi để thay mới. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu người lãnh đạo mới của Nhà nước Xô viết nhận ra rằng nước Nga đang trong thời kỳ khủng hoảng về cơ cấu, và liệu cuộc khủng hoảng này có đe dọa đến sự sống còn của trật tự hiện tại hay không? Những người bầu cho Gorbachev năm 1985 không nhấn mạnh vấn đề này vì theo tính toán của họ, khả năng xảy ra khủng hoảng là rất nhỏ. Các nhà lãnh đạo Xô viết khác đều cảm nhận được cuộc khủng hoảng cơ cấu này và họ cho rằng cả Lenin và Stalin là những người phản ứng nhanh với kiểu khủng hoảng này. Người ta cho rằng Lenin và Stalin đều rất triệt để trong các giải pháp của họ. Người ta có thể đoán trước được Lenin và Stalin sẽ trở thành những nhà cải cách hệ thống nội bộ do hoàn cảnh chính trị và trí tuệ mà hai ông đang sống sản sinh ra, đó là thế giới ổn định ở châu Âu trước năm 1914. Còn Gorbachev thì khác. Gorbachev bị ảnh hưởng tới mức nào bởi trật tự thế giới bất ổn sau 1914? Một khi ấp ủ sự bất ổn, giới lãnh đạo không thể xử lý hết các vấn đề. Các vai diễn khác của tấn kịch này là nhân dân phải được tham khảo ý kiến, và trong khi tiến hành cải cách họ sẽ tác động tới kết quả cuối cùng. Không ai dự đoán được màn kịch này sẽ kết thúc ra sao. Tại Liên bang Xô viết và kể cả các nhà phân tích phương Tây đều dự đoán khả năng khi trở thành một nhà cải cách cấp tiến, Gorbachev sẽ tiến hành cải cách mạnh mẽ; những cải cách này sẽ vượt ra khỏi những giới hạn cho phép của thể chế hiện hành. Khả năng ấy là chưa đầy 10%. Ở phương Tây, duy nhất có Archie Brown, một học giả Anh có dự đoán khả năng này cao hơn 1 .
GORBACHEV VÀ GIA ĐÌNH
Mikhail Sergeevich Gorbachev sinh ngày 2/3/1931 trong một gia đình nông dân tại làng Privolnoe, Stavropol, Bắc Capca. Ông được làm lễ rửa tội tại làng Letnitsk, tên khai sinh là Viktor được ông nội đổi lại thành Mikhail. Mẹ ông là một con chiên đạo Chính thống. Bà chưa bao giờ học đọc, học viết. Bà mất năm 1995. Họ nội của Mikhail Sergeevich xuất thân từ vùng Voronezh ở Nga, còn mẹ ông sinh ra ở Chernigov thuộc Ukraine. Ông ngoại của Mikhail Sergeevich − ông Pantelei − gia nhập Đảng Cộng sản năm 1928, có vai trò trong việc tổ chức nông trang tập thể và trở thành chủ tịch đầu tiên của một nông trang tập thể. Nhưng do vợ ông là một tín đồ trung thành của đạo Chính thống nên Pantelei bị bắt vào tháng 7/1937 và bị kết tội là “thành viên cánh hữu Trotskist phản cách mạng”. Những người hàng xóm bắt đầu tránh xa ngôi nhà của họ như thể tránh một căn bệnh truyền nhiễm khủng khiếp. Những cậu bạn trong làng cũng xa lánh Gorbachev. Bất kỳ ai liên hệ với gia đình này đều bị coi là “kẻ thù của nhân dân” và bị bắt bớ giam cầm.
Gorbachev ghi lại rằng “sự việc đó thật sự là một cú sốc ghê gớm, hằn sâu vào ký ức tôi từ lúc đó”. Thậm chí khi ông trở thành Bí thư thứ nhất của Stavropol và ngay cả sau khi trở thành Bí thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ông cũng không đòi bản sao của vụ việc đó. “Chỉ sau vụ đảo chính tháng 8/1991, tôi mới yêu cầu Vadim Bakatin lục lại những ghi chép ấy cho tôi”. Bị tra tấn, vị chủ tịch ban chấp hành Xô viết khu đã không chịu nổi, khai tên 58 người đồng mưu, có cả ông của Gorbachev. Ông của Gorbachev bị buộc tội gây cản trở các vụ thu hoạch gây thất thu ngũ cốc, giết hại đàn gia súc vì đã cày lật đồng cỏ làm giảm nguồn thức ăn gia súc, và đàn áp phong trào nông dân tiên tiến trong nông trang tập thể. Ông còn bị kết tội là kẻ thù của Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ Xô viết về tội tiến hành các hoạt động lật đổ theo chỉ thị của tổ chức Trotskist phái hữu chống lại chính quyền Xô viết. Thủ tục điều tra xét xử kéo dài 14 tháng và ông bị kết tội vào tháng 9/1938. Thẩm phán quyết định không đủ bằng chứng kết tội ông theo điều 58 Bộ luật Hình sự. Nếu theo điều khoản này chắc chắn ông bị khép vào tội chết, ông chỉ bị kết tội theo điều 109 của bộ luật này về hành vi sai trái, chịu án tù chung thân. Sau cuộc thanh lọc trong lực lượng công an mật, ông được trả tự do tháng 12/1938 và được bầu lại làm chủ tịch nông trại năm 1939. Sau khi được tự do, ông đã kể lại những bất hạnh phải gánh chịu trong nhà tù. Đôi mắt ông bị mù vì ánh đèn thẩm vấn chói lóa, bị đánh đập tàn nhẫn, gãy tay vì bị kẹp vào cửa và ông đã bị quấn vào một cái áo khoác lông cừu ướt rồi cho lên lò nướng quay tròn. Nhưng ông không hề oán trách chế độ vì những bất hạnh của mình, ông tin Stalin hoàn toàn không biết sự việc sai trái của lực lượng công an mật này. Gorbachev nhớ là ông ngoại mình qua đời ngay sau khi ra tù, lúc 59 tuổi.
Ông nội của Gorbachev ông Andrei cũng có va chạm với chính quyền. Ông không gia nhập nông trang tập thể trong thời kỳ tập thể hóa nông nghiệp và vẫn là một nông dân cá thể. Trong nạn đói khủng khiếp năm 1933, hậu quả trực tiếp của việc tập thể hóa nóng vội là ba trong sáu đứa con của ông đã chết đói (đến một nửa số dân trong vùng Privolnoe đã chết đói). Năm 1934, ông bị bắt vì không hoàn thành kế hoạch gieo hạt như đã giao cho các gia đình nông dân cá thể, đơn giản chỉ vì ông không có hạt giống để gieo. Ông bị gán là phần tử phá hoại và bị bắt đi chặt cây tại vùng Irkutsk, Siberia. Cha của Gorbachev là ông Sergei phải làm chủ hộ trong gia đình chẳng còn một ai. Tuy nhiên, năm 1935, ông nội được thả trước thời hạn vì ông đã chứng tỏ mình là một lao động mẫu mực. Sau đó, ông gia nhập nông trang tập thể. Ông của bà Raisa Maksimovna Titorenko, vợ tương lai của Gorbachev, cũng gặp cảnh không may như vậy. Ông là một nông dân vùng Altai ở Tây Siberia, bị kết tội công khai ủng hộ phe phản cách mạng trong nông trang tập thể chống lại chế độ Xô viết và chống phong trào công nhân tiên tiến (Stakhanovite), bị bắt năm 1937. Ông bị kết án tử hình nhưng được minh oan vào tháng 1/1988.
Sergei Gorbachev được gọi nhập ngũ tháng 8/1941 và Mikhail Sergeevich phải gánh vác nhiều trách nhiệm gia đình hơn. Mùa đông năm 1941-1942 vô cùng khắc nghiệt, tuyết rơi lần đầu vào ngày 8/10 và làng Privolnoe chìm ngập trong tuyết. Không có đài phát thanh trong làng và thi thoảng chỉ có một vài tin tức từ tờ Pravda. Mikhail Sergeevich đọc tin cho những bà mẹ, những người vợ và dân làng. Tháng 8/1942, quân Đức Quốc xã tấn công làng Privolnoe và để một đơn vị đóng tại đây. Xuất thân là một gia đình cộng sản, gia đình Gorbachev có nguy cơ bị sát hại và nghe phong thanh về tin cuộc thảm sát có chủ định vào ngày 26/1/1943. Mikhail Sergeevich đã trốn tránh trong một trang trại ngoài làng Privolnoe. May mắn cho mọi người, trước đó năm ngày, làng Privolnoe được giải phóng. Người Đức cử Zaitsev làm lãnh đạo. Ông cự tuyệt sự bổ nhiệm này nhưng dân làng đã thuyết phục ông nhận chức để bảo vệ làng xóm và người dân. Sau khi ngôi làng nhỏ này được giải phóng, ông đã bị bắt. Bất chấp dân làng nhiều lần viết thư trình bày rõ sự việc nhưng ông vẫn bị kết án mười năm tù với tội mưu phản. Ông qua đời trong tù và bị coi là kẻ thù của nhân dân. Nạn đói vào mùa đông và mùa xuân năm 1944 hoành hành khắp ngôi làng nhỏ. Gia đình Gorbachev sống sót là nhờ mẹ ông đem quần áo của chồng đi đổi lấy ngô ở Kuban. Mùa hè năm 1944, một lá thư và các tài liệu gửi về xác nhận rằng thượng sĩ Sergei Gorbachev đã hy sinh tại mặt trận ở vùng Carpat. Trước đó, ông đã thoát chết trong nhiều tình huống nguy hiểm và ba lần được tặng thưởng huân chương. Sau đó, có một bức thư khác của Sergei Gorbachev, đề ngày 27/8/1944, được cho là ông viết nó trước khi hy sinh. Một tài liệu khác đề ngày 31/8 cho biết ông vẫn còn sống. Ông bị thương nặng khi ở Tiệp Khắc và kết thúc chiến tranh, ông vẫn nằm trong một bệnh viện quân y. Ông qua đời vào tháng 2/1976. Trong tâm trí của Mikhail Gorbachev, ký ức về thời gian chiến tranh tồi tệ nhất là mùa xuân năm 1943. Sau khi tuyết tan, ông và những người bạn khác thu nhặt những tử thi đã thối rữa, một phần bị động vật ăn, những đầu lâu vẫn còn trong những chiếc mũ sắt gỉ nhèm, những mảnh xương trắng, những nòng súng trường nhô lên khỏi ống tay, những chiếc áo lính bốc mùi hôi tanh. Những người lính Hồng quân được chôn trong một ngôi mộ tập thể. Khi chiến tranh kết thúc, ông mới 14 tuổi và vẫn được coi là con người thuộc thế hệ thời chiến. “Chiến tranh đã đốt cháy chúng tôi, để lại dấu ấn trong tính cách và trong thế giới quan của chúng tôi.”
Trường học là nơi trú ngụ tránh hiểm nguy và sự thiếu thốn trong thời chiến. Mikhail Sergeevich đi học, ông thích môn vật lý, toán và văn học, trở thành bí thư Đoàn Komsomol và là một nghệ sĩ nghiệp dư đầy nhiệt huyết. Nghỉ hè, ông cùng cha làm việc trên cỗ máy liên hợp gặt đập, và từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 8, ông đi làm xa nhà. Vào kỳ thu hoạch cao điểm, ông phải làm việc 20 tiếng một ngày, lịch làm việc khiến một thanh niên đang ở tuổi mới lớn kiệt sức. Cuộc sống đồng ruộng rất vất vả cực nhọc, không khác gì đời sống nông dân trong chế độ nông nô. Những người bạn có lần đã đùa bỡn đưa cho ông một cốc rượu vodka nhưng thật ra đó chỉ là cồn. Kể từ đấy Gorbachev đâm ghét rượu mạnh. Vụ mùa năm 1948 là một vụ bội thu. Những người thu hoạch được 800 tấn lương thực đều được thưởng Huân chương Lenin. Cha của Mikhail Sergeevich cũng được trao tặng huân chương này, còn Mikhail được tặng thưởng Huân chương Lao động Cờ đỏ khi 17 tuổi. Với ông, đây là một phần thưởng vô cùng cao quý và có ý nghĩa đối với một người còn rất trẻ. Năm 1950, ông học hết cấp hai cơ sở ở vùng Krasnogvardeisk, nơi ông ở trọ cùng các học sinh khác cùng làng. Ông được tặng thưởng huy chương bạc (sau này ông hãnh diện nói rằng trong khi ông được thưởng huy chương bạc thì Raisa Maksimovna lại được thưởng huy chương vàng). Năm 19 tuổi, ông mới học xong lớp mười bởi đã bị mất hai năm vì chiến tranh. Khát vọng thoát khỏi cảnh lam lũ vất vả của đời nhà nông và trở thành người có tước quyền như các vị quan tòa, thẩm phán đã thôi thúc ông nộp đơn thi vào khoa Luật của trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva. Ông được đặc cách tuyển thẳng và còn được nhận học bổng đặc biệt (nhưng trong năm thứ nhất ông vẫn phải ở chung với 22 sinh viên khác). Với xuất thân nông dân, Gorbachev gặp may là ông đã là cảm tình Đảng và được nhận phần thưởng cao quý của Nhà nước. Cũng phải nói rằng vào thời đó, trường đại học này đang muốn tuyển những sinh viên không xuất thân từ tầng lớp trí thức.
THỜI THANH NIÊN CỦA GORBACHEV
Moskva là miền đất hứa đối với chàng thanh niên tỉnh lẻ. Trường đại học đã mở ra trước mắt ông một viễn cảnh chưa từng mơ thấy. Đối với ông, đó là nơi tu luyện học hành. Sau năm năm dùi mài kinh sử, ông tốt nghiệp đại học năm 1955, được đánh giá là xuất sắc. Sau đó ông trở thành thành viên ưu tú trong ban lãnh đạo của đất nước. Khi tham gia Bộ Chính trị năm 1979 2 , ông là một trong những người có học vấn cao nhất ở đây. Thực tế, còn có Thủ tướng Kosygin, vốn là một nhà kỹ thuật tài năng nhưng ông này còn thiếu kiến thức tổng quát mà chỉ có văn bằng Luật học cao mới bù đắp được. Lúc đấy, đó là một trong những tấm bằng hiếm hoi ở Nga. Những kiến thức về các nước tư bản chủ nghĩa và thậm chí tiếng Latin đều nằm trong chương trình giảng dạy. Nghĩ cho kỹ, Gorbachev lúc đó chỉ trích khá gay gắt các chuẩn mực tri thức đó. Theo ông, “việc học chỉ nhằm mục đích tẩy não cho tầng lớp thanh niên ngay từ những tuần đầu ở nhà trường, che mắt không cho họ vươn tới những tư tưởng tự do, có đầu óc phân tích và so sánh các sự kiện”. Ông quá ngây thơ lên tiếng chỉ trích một thầy giáo dạy mình. Một người bạn cùng khóa khôn ngoan khuyên ông nên kiềm chế hành vi của mình cho đến khi tốt nghiệp. Song, vị giáo sư đó đã trả thù và Gorbachev bị cắt học bổng.
Gorbachev nộp đơn gia nhập Đảng Cộng sản năm 1952 và người ta để ý tới hai điểm trong lý lịch của ông. Ông sẽ giải trình ra sao khi cả ông nội và ông ngoại đều bị đi tù và bị buộc tội là kẻ thù của nhân dân? Ông đã giải trình được những thắc mắc của Đảng bộ địa phương và được giới thiệu kết nạp Đảng. Từ va vấp trước đây với giảng viên trong trường đại học, ông vẫn chưa rút ra được kinh nghiệm. Mùa thu năm 1952, Gorbachev đã phàn nàn với một thầy giáo là bài giảng của vị giảng viên này về Các vấn đề chủ nghĩa xã hội ở Liên bang Xô viết chỉ là sự gộp lại các bài phát biểu của Stalin mà thôi. Theo Mikhail Sergeevich, đây là sự lãng phí thời gian vì ông đã đọc tác phẩm này. Vị giảng viên này vô cùng tức giận và báo cáo sự việc lên ban giám hiệu. Sau này, Gorbachev tin rằng mình là một công nhân và thành phần nông dân đã cứu ông thoát nạn. Tuy vậy, là Phó Bí thư Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cộng sản của khoa, lẽ ra ông phải biết điều này rõ hơn!
Đầu năm 1953, trong “Kế hoạch Tiến sĩ” (sự thật là phong trào bài Do Thái) đang triển khai, Gorbachev bắt gặp người bạn Volodya Liberman đang ở trong tình trạng cực kỳ tuyệt vọng. Anh ta phải chịu đựng những lời lăng mạ, không được lên tàu điện, mặc dù có thời anh ta được trao tặng danh hiệu cựu chiến binh. Mikhail Sergeevich nhớ lại, ông thật sự bị sốc trước sự việc này. Ông ra sức bảo vệ người bạn Do Thái của mình trong các cuộc họp ở trường đại học và cuối cùng tình trạng ngược đãi với người bạn này chấm dứt. Một bạn đồng niên khác trong trường là Zdenek Mlynar − đảng viên Đảng Cộng sản Tiệp Khắc − lãnh đạo phong trào Mùa xuân Praha trong năm 1968 đã nhớ lại rằng trong các cuộc thảo luận Gorbachev chỉ quan tâm đặc biệt đến lịch sử chính trị và luật pháp. Năm 1991, một người bạn nói với Mikhail Sergeevich rằng đối với các sinh viên hồi đó ông bị coi là kẻ bất đồng chính kiến! Gorbachev cảm thấy đất nước sẽ phải hứng chịu bi kịch khi Stalin qua đời vào ngày 5/3/1953. Cùng với các sinh viên khác, Gorbachev đi suốt đêm, qua các con phố để có thể đến viếng Stalin. Trước đó, ông chưa bao giờ gặp Stalin.
Giờ đây... Lần đầu tiên tôi có thể tận mắt nhìn ông, Stalin nằm đó ngay gần chỗ tôi đứng. Một khuôn mặt nghiêm nghị, nhợt nhạt, nhưng không chút lo âu vương vấn cuộc đời. Tôi lần theo những gì đã làm nên sự nghiệp của ông, chỉ có cái gì đó làm ông bận tâm, chính điều đó đã tạo ra cảm giác lẫn lộn .
Năm 1951, Raisa Maksimovna Titorenko, một nữ sinh khoa Triết (nghiên cứu chủ nghĩa Marxist Leninist) đã làm đảo lộn thế giới nội tâm của Mikhail Sergeevich. Mikhail yêu Raisa ngay từ cái nhìn đầu tiên, còn Raisa lại không như vậy, thậm chí có lúc cô không muốn mối quan hệ này, nhưng sự kiên trì của Mikhail Sergeevich khiến cô mềm lòng và họ dự định kết hôn vào tháng 6/1952. Mikhail cùng cha lao động cật lực. Bán hết số lương thực đã thu hoạch và với tiền lương đi làm của hai bố con, họ cũng dành dụm được món tiền kha khá, 1.000 rúp − vào thời điểm đó là cả một gia tài. Lúc này, Mikhail Sergeevich và Raisa có thể tổ chức đám cưới. Hôn lễ của họ được tổ chức ngày 25/9/1953 và nhân dịp này, Mikhail Sergeevich đã mua cho mình bộ com-lê đầu tiên. Tuy vậy, họ không thể sống chung trước con mắt tò mò ở trường đại học. Họ sống ở hai khu ký túc riêng và cứ vào khoảng 11 giờ khuya, chuông điện thoại trong phòng Raisa lại reo, một giọng nói rắn rỏi vang lên, lúc nào cũng là câu nói: “Người bị cấm vào phòng em đây!” Mọi việc thay đổi vào tháng 12/1953 khi Đoàn thanh niên Komsomol có ý kiến và sau đó họ được phép sống chung. Cha ông yêu thương con dâu hết lòng nhưng mẹ ông lại có thái độ thờ ơ, lãnh đạm.
Năm 1955, Gorbachev tốt nghiệp xuất sắc nhưng ông không nhiệt tình với luận văn tốt nghiệp của mình, nói về tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa so với nền dân chủ tư sản. Về trình độ học vấn, Raisa vượt trội hơn Mikhail, cô tốt nghiệp sớm một năm và sau đó học lên tiến sĩ. Mikhail cũng được mời tham gia nghiên cứu luật cho nông trang tập thể nhưng ông từ chối vì cho rằng đó không phải là lĩnh vực ông quan tâm. Tuy vậy, là một cán bộ Đoàn Thanh niên Komsomol, ông còn là thành viên của ủy ban chuyên trách phân công việc cho những sinh viên mới ra trường. Cùng 12 người bạn nữa, ông được phân công đến làm việc tại Viện Kiểm sát Liên bang, vào một bộ phận mới thành lập chịu trách nhiệm giám sát các tổ chức an ninh của Nhà nước. Nhưng khi ông được giới thiệu lên Viện, họ trả lời thẳng rằng họ không thể nhận ông. Rõ ràng có một quy định ngầm cấm tuyển dụng các cử nhân luật vừa tốt nghiệp vì họ chưa đủ kinh nghiệm đảm nhận các công việc có tính nhạy cảm cao như phục hồi công bằng xã hội. Điều đó làm tiền đồ sự nghiệp của Mikhail Sergeevich tiêu tan, cuối cùng Raisa và ông quyết định trở về quê hương Stavropol và thử vận may của mình ở đấy. Cuộc gặp gỡ với bố mẹ Raisa khá căng thẳng vì cô không thể thuyết phục họ chấp nhận đám cưới của mình. Cũng có tin “tốt lành”, đó là Raisa quyết định từ bỏ sự nghiệp nghiên cứu sau đại học của mình ở Moskva.
Suốt mùa hè năm 1953, Gorbachev làm việc trong Viện Kiểm sát ở vùng Krasnogvardeisk, quê hương ông, nhưng ông không lấy đó làm vui. Trong một lá thư gửi Raisa, ông thừa nhận mình đang thật sự ”thất vọng” và nhận thấy mọi thứ xung quanh thật ”ghê tởm”. Sở dĩ ông có tâm trạng đó một phần vì sống xa vợ, phần nữa vì ông quá hãi hùng trước cách đối xử của các quan chức địa phương. Ông hiểu phải tuân thủ và lệ thuộc vào tục lệ, với mọi thứ đã được sắp xếp trước, thấy hành vi láo xược công khai của các quan chức và tính ngạo mạn đến khó chịu của họ. “Khi em nhìn vào một trong các quan chức địa phương, em chẳng thấy cái gì nổi trội ngoài cái bụng phệ”. Đây là những lời nhận xét đầu tiên của một thanh niên đầy tự tin và nhiệt huyết. Không kể đến thâm niên công tác, ông dễ dàng nắm một chức vụ trong văn phòng thuộc Viện Kiểm sát vùng Stavropol vào ngày 5/8/1955. Ông đã nhờ người tìm nhà trọ và phải trả họ 50 rúp. Theo luật Xô viết, số tiền này bị coi là tiền không do lao động kiếm ra, vì vậy nó là tiền bất hợp pháp. Nơi ở trọ là một căn phòng tồi tàn, chỉ với 11m2, riêng lò sưởi đã chiếm một phần ba diện tích nhà. Nước phải bơm và không có nhà vệ sinh trong phòng. Một tháng 250 rúp, đồ đạc không có gì ngoài một chiếc giường sắt. Cuối cùng Raisa quyết định rời Moskva và họ bắt đầu cuộc sống gia đình tại đây.
SỰ NGHIỆP CHÍNH TRỊ LÚC KHỞI ĐẦU
Mikhail Sergeevich sớm nhận ra luật pháp không đứng về phía ông dù một số người bạn trong Ban Chấp hành Komsomol vùng này luôn dang tay chào đón ông. Ông đành phải gặp cán bộ kiểm sát phụ trách vùng xin chuyển công tác. Vị luật sư này cho rằng đây là một bước lùi trong sự nghiệp nhưng Gorbachev sẽ còn tiến xa hơn. Gorbachev dùng tháng lương đầu tiên 840 rúp để mua một đôi giày loại tốt, loại chuyên dụng cho các đoạn đường xấu trong vùng này. Nhiệm vụ của ông là kêu gọi thanh niên chăm chỉ rèn luyện trở thành công dân hiện đại và sống có ích. Công việc này đòi hỏi ông phải cuốc bộ quanh vùng nông thôn, thậm chí trong các làng xã, không có chỗ mua thức ăn cũng như không có chỗ ngủ tử tế. Mikhail choáng váng khi chứng kiến đời sống nghèo nàn khổ cực của người dân. Sau cùng, ông đến vùng Krasnodar là một trong những vùng màu mỡ của nước Nga. Người ta hào hứng tụ tập để nghe ông phát biểu vì chuyến đến thăm của ông là một sự kiện soi sáng cuộc đời tối tăm, lạc hậu của họ. Một số người ngồi phía sau cắn hạt hướng dương, còn mọi người đều chăm chú theo dõi như nuốt lấy từng lời ông nói. Đây là cơ hội ông thực hành khả năng diễn thuyết trước công chúng, khả năng trình bày giải quyết một vấn đề trước những con người chưa bao giờ có điều kiện nghe đài, xem tivi hay đọc sách báo. Ông nhanh chóng phát hiện ra Komsomol là một tổ chức hậu bị trẻ tuổi của Đảng và thành công về chính trị được đánh giá bởi thành quả về kinh tế. Nếu các kế hoạch được thực hiện đầy đủ thì công tác chính trị được coi là tốt, ngược lại sẽ rất tồi tệ, họ buộc phải quy trách nhiệm cho ai đó. Ông cũng biết một trong những nguyên tắc của nền chính trị Nga hay nền chính trị thế giới là tự vận động trước khi người ngoài can thiệp vào. Ông được rất nhiều đồng sự trong Komsomol đánh giá là người tinh nhanh, hoạt bát. Bài học ông rút ra được ở đây là sự thông minh, nhanh nhẹn của một người đôi khi còn phải bao hàm cả việc không nên tự khoe mình là người thông minh.
Việc Khrushchev đả kích Stalin trong Đại hội Đảng lần thứ 20 khiến Gorbachev thật sự bị sốc. Nhiệm vụ của ông là phải giải thích cặn kẽ bài diễn văn này cho thế hệ trẻ và khuyến khích, động viên họ tham gia các cuộc đối thoại thay vì chỉ tổ chức các buổi phát biểu đơn thuần. Ông cũng đối mặt với rất nhiều phản ứng khác nhau. Bộ máy hoạt động của Đảng đang bị suy yếu và không có nhiều người tin Khrushchev nữa. Trong tầng lớp thanh niên, một số người vẫn có tâm lý do dự, một số khác thì cho rằng nên đối mặt với thực tế Stalin để lại, số khác nữa còn phân vân về mục tiêu công khai làm trong sạch Đảng và thậm chí một số thanh niên cho rằng Stalin chỉ trừng phạt những kẻ áp bức nhân dân mà thôi. Họ cũng cho rằng “những kẻ đó đáng phải trả giá cho sự đau khổ của chúng ta”. Đây là quan điểm khó khăn nhất khi vùng Stavropol phải trả giá quá đắt thời Stalin cầm quyền. Đối với Gorbachev, sự thật này dễ cảm nhận vì bản thân gia đình ông từng là nạn nhân. Tuy nhiên, người ta còn ngờ ngợ về bài phát biểu này. Nó được viết ra một cách khôn khéo nhằm đánh vào tình cảm con người, nhưng lại quy tất cả những điều xấu xa của thời kỳ ấy vào khuyết điểm về tính nết của Stalin mà không phân tích những quá trình chuyển biến ngấm ngầm bên trong.
Mikhail Sergeevich ngay lập tức tạo được ấn tượng và vào năm 1956, ông được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Komsomol vùng Stavropol. Ông thành lập một câu lạc bộ tranh luận với quan điểm mới mẻ mà người ta chưa bao giờ được nghe đến, đồng thời chủ trì mọi cuộc họp thảo luận về các chủ đề như sở thích và văn hóa. Người nào có phản ứng, tất nhiên sẽ bị chặn lời ngay. Ở đây ông đã xây dựng được niềm tin ngày càng vững chắc và luôn giành phần thắng trong các cuộc tranh luận nhờ kiến thức ông học được. Tình trạng thất nghiệp ở thị trấn khá cao, tội phạm gia tăng. Các nhóm thanh niên tình nguyện được thành lập nhằm giúp chính quyền địa phương nhưng Gorbachev nhanh chóng phát hiện ra rằng họ không bao giờ lấy được lòng tin của nhân dân vì họ sử dụng luật pháp một cách cứng nhắc. Trong thị trấn xuất hiện những bức ảnh đả kích các nhà máy trì trệ, các quan chức luôn say mèm.
Tháng 1/1957, Gorbachev đón chào con gái đầu lòng, cô bé Irina. Đôi vợ chồng trẻ thật sự hạnh phúc. Tuy nhiên, họ không thể chỉ dựa vào một nguồn thu nhập và Raisa vừa phải đi làm, vừa phải về nhà cho con bú vì lúc đó không có thức ăn bột cho trẻ. Sau đó, họ chuyển tới một căn hộ có hai phòng, bếp và nhà vệ sinh chung.
Ngày 25/4/1958, Mikhail Sergeevich được bầu làm Bí thư thứ hai Ban Chấp hành Kosomol vùng Stavropol; tháng 3/1961, ông được bầu làm Bí thư thứ nhất. Lúc này ông có thể sử dụng ôtô đến những vùng mình muốn và với đôi ủng dã chiến, ông lại tới những nơi mà ôtô không thể vào được. Điều đó tạo cho Gorbachev cơ hội nghiên cứu cách lãnh đạo của các vị bí thư thứ nhất ở mỗi vùng trên nước Nga. Khiến ai đó phải sợ hãi và chịu sự trừng phạt là cách lãnh đạo của các bí thư thứ nhất sau Đại hội Đảng lần thứ 20. Tiếp đến là Lebedev, một chuyên gia vận động có thể làm mọi điều miễn là mang lại kết quả. Ông là một người ngoan ngoãn vâng lời cấp trên và ngại cải tiến. Năm 1956, ông đòi thực hiện mệnh lệnh của Moskva, tiến hành thu hoạch theo hai giai đoạn: gặt rồi sau đó gom lại và đập. Vì mùa hè đó ẩm ướt, đập lúa mì ngay thì tốt hơn nhưng vị lãnh đạo này không chịu nghe và hàng nghìn héc ta lúa mì đã trôi sông trôi bể. Chẳng ai phải chịu trách nhiệm cả. Không những thế, vị Bí thư Đảng này còn được tặng thưởng Huân chương Lenin vì “áp dụng thành công phương pháp thu hoạch hai giai đoạn”. Gorbachev được nhìn thấy Khrushchev lần đầu tiên vào tháng 10/1958 khi ông đến trao huân chương Lenin cho vùng ấy. Cung cách bình dân của Khrushchev không gây ấn tượng với Gorbachev, với cung cách như vậy có thể sa đà đến thô lỗ, nói năng tục tằn và rượu chè say sưa. Vấn đề quan trọng hơn của Khrushchev là trình độ văn hóa thấp. Lebedev nịnh bợ các quan chức cao cấp khi họ đến thăm nhưng lại tranh giành địa vị khi có người bị thất sủng. Lebedev ra sức dồn Nikolai Bulganin vào chỗ khốn khổ sau khi ông này bị cách chức Thủ tướng và bị điều về Stavropol. Lebedev được tặng thưởng Huân chương Lenin lần thứ hai vào năm 1957 và lần thứ ba vào năm 1958. Không để người Mỹ vượt lên, Khrushchev đã phát động một chiến dịch vào cuối năm 1958 nhằm bắt kịp và vượt sản lượng thịt và sữa tính theo đầu người của Mỹ. Năm 1959, vùng Stavropol thi đua với tỉnh Riazan, là tỉnh đã giao nộp lượng thịt của ba năm trong một năm. Stavropol chỉ cung cấp được sản lượng thịt bằng hai năm rưỡi. Nhưng cái gì cũng có giá của nó. Tất cả những con vật có bốn chân, kể cả ngựa, đều bị giết cho đủ số lượng, và gia súc của nông dân cũng bị giết hại. Phải mất nhiều năm mới bù đắp được tai họa này. Lebedev đã bị loại khỏi chính trường: năm 1960 ông về hưu “vì lý do sức khỏe”.
Một bước ngoặt trong sự nghiệp chính trị của Mikhail Sergeevich chính là Đại hội Đảng lần thứ 22 vào tháng 10/1961. Đây là bài học đầu tiên khi bước vào hoạt động chính trị ở cấp Trung ương và Khrushchev phải rút lui hoàn toàn. Bài diễn văn thuyết phục nhất là của D. A. Lazurkina, một đảng viên trước năm 1917 có mối quan hệ thân thiết với Lenin: “Ngày hôm qua, tôi còn xin ý kiến Lenin, như thể Người còn sống, đang đứng trước mặt tôi, và Người nói: “Tôi không chung chí hướng với Stalin vì ông ấy mang lại quá nhiều tai họa cho Đảng”.
Bài phát biểu này đã giải thích chỉ thị của Lenin với một ý nghĩa mới và các đại biểu phải thực hiện đúng đắn. Linh cữu của Stalin được chuyển khỏi Lăng Lenin-Stalin trên Quảng trường Đỏ và Stalin được chôn cất gần bức tường Điện Kremlin, người ta lấy lại tên cũ: Lăng Lenin. Gorbachev nhận thấy rằng đả kích tệ sùng bái cá nhân (Stalin) không ngoài mục đích nhằm ca ngợi Khrushchev. Các đại biểu đua nhau ca ngợi lãnh đạo hết lời. Có người từng gọi bài phát biểu thiếu học thức của Khrushchev là một “bản giao hưởng đầy ấn tượng”. Có người lại nói là ông đã nhận thức sâu sắc về các xu hướng cơ bản của cuộc sống. Khrushchev thích điều này, còn Gorbachev thì phát bực vì nó. Tâm trạng như vậy có thể bắt nguồn từ tình cảm riêng tư, tự nhiên của ông nhưng trước mọi người ông vẫn đồng tình cổ vũ và mỉm cười hài lòng. Thái độ của ông đối với Khrushchev yêu ghét lẫn lộn, không rõ ràng. Một mặt, Khrushchev là người đi đầu phản đối hiện tượng Stalin và phát động các thế lực ngấm ngầm mà hai thập niên sau đó đã bị lộ diện. Mặt khác, ông chưa bao giờ có ý định giải quyết tận gốc rễ vấn đề và thường độc đoán khi ra quyết định. Thậm chí, các lãnh đạo trong Đảng là những người cứu sống ông vào năm 1957 cũng muốn hạ bệ ông vào tháng 10/1964.
Vận may mỉm cười với Mikhail Sergeevich khi Fedor Kulakov được bổ nhiệm làm Bí thư thứ nhất của Stavropol năm 1960. Họ hoán đổi vị trí cho nhau rất nhanh chóng và tháng 3/1962, Kulakov đề nghị Gorbachev chuyển sang làm công tác Đảng. Ông được giao chịu trách nhiệm ba vùng nông nghiệp và nhận nhiệm vụ sau một cuộc chất vấn của Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương ở Moskva. Gorbachev được đề bạt giữ chức vụ trong Đảng, đây là bước ngoặt đánh dấu nấc thang danh vọng, giúp ông có cơ hội tiến đến vị trí cao trong hàng ngũ lãnh đạo, cụ thể là chức Tổng Bí thư Đảng. Tháng 11/1962, Kulakov chọn Gorbachev làm trưởng ban phụ trách các cơ quan Đảng của vùng này. Ở vị trí này, ông chịu trách nhiệm sắp xếp nhân sự trong Đảng, bố trí các chức vụ cấp cao trong lĩnh vực công nghiệp, nông trường quốc doanh và nông trang tập thể. Ngoài ra, ông còn có nhiệm vụ giám sát các Xô viết, các tổ chức công đoàn và Komsomol. Với vị trí đầy quyền lực, ngày 1/1/1963, ông bắt đầu thực hiện nhiệm vụ. Đối với Mikhail Sergeevich, Kulakov là một nhà lãnh đạo kiểu mẫu. Kiểu lãnh đạo của ông kết hợp cương nhu, vừa chan hòa, cởi mở, nhã nhặn nhưng lại vừa khôn khéo, sắc sảo như một con cáo − Gorbachev gọi đó là “sự láu lỉnh của nhà nông”. Kulakov tham gia âm mưu chống Khrushchev tháng 10/1964 và được trọng thưởng bằng việc đề bạt làm Bí thư Ban Chấp hành Trung ương phụ trách Nông nghiệp và chuyển về Moskva. Do vậy, Mikhail đã nhận được sự che chở, giúp đỡ ngay tại cấp Trung ương. Ở Moskva, không ai ca ngợi tài năng của ai, mà cũng có rất ít cơ hội làm việc đó trong giới lãnh đạo.
Người kế nhiệm Kulakov ở vùng Stavropol là Leonid Efremov. Việc chuyển đến làm việc ở vùng này đối với ông là một sự giáng chức; vì quá thân cận với Khrushchev nên Efremov đã bị cách ly hoàn toàn với Trung ương. Năm 1962, với nỗ lực củng cố các tổ chức Đảng, Khrushchev tách bộ máy Đảng thành hai nhánh: công nghiệp và nông nghiệp. Tháng 11/1964, khi Brezhnev lên cầm quyền, quyết định hợp nhất hai nhánh và sau này các quan chức trung thành được khôi phục chức cũ. Vì các tổ chức mới hợp nhất nên số người ít hơn nhiều so với cơ cấu cơ quan hai tổ chức cũ, nhiều người cảm thấy mình bị gạt ra ngoài lề.
Lúc đó, Gorbachev đang nắm cương vị lãnh đạo các tổ chức Đảng trong nông nghiệp, có một vai trò quan trọng nên ông tránh tham gia cuộc xung đột vô bổ về địa vị và đặc quyền.
Efremov là một người có tính cách khác biệt hẳn với Kulakov. Ông là người có học thức, có kiến thức văn hóa, chính trị và là một sản phẩm điển hình của chế độ cộng sản. Efremov luôn ấp ủ hy vọng được gọi về Moskva, đối với ông, bất kỳ nơi nào khác đều là thảm họa chính trị. Ông luôn làm cho giới lãnh đạo của Moskva cảm mến. Khi Leonid Brezhnev, lúc đó đang là Tổng Bí thư, đi nghỉ tại khu nghỉ mát Stavropol, Efremov lấy cớ đi công tác để tham gia vào đoàn quan chức này và ra sức tạo ấn tượng tốt với ông chủ mới của Điện Kremlin. Efremov coi Đại hội Đảng lần thứ 23 vào tháng 4/1966 là một cơ hội lớn để trở lại Trung ương. Ông đã ca ngợi hết lời giới lãnh đạo hiện tại. Ông đưa Gorbachev về Moskva, bố trí ở khách sạn trong thời gian diễn ra Đại hội. Mỗi lần nghỉ giải lao Efremov đều gọi điện cho Gorbachev nhấn mạnh những điểm quan trọng trong bài phát biểu của mình, bài phát biểu mà Mikhail Sergeevich phải chỉnh lý lại toàn bộ. Tuy nhiên, Efremov hoàn toàn thất vọng khi ông không được mời lên đọc diễn văn trước Đại hội. Cú sốc mạnh mẽ và cay đắng khiến ông tự thừa nhận mình là con người của quá khứ và sau này ông đã dốc toàn bộ sức lực và tài năng ở vùng Stavropol. Mikhail Sergeevich nghiên cứu cách ngoại giao của ông tựa như một đề tài lâu dài và rút ra được rất nhiều bài học chính trị quý giá từ trường hợp của Efremov. Ngày 26/9/1966, Gorbachev được bầu làm Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Stavropol hay còn gọi là Thành ủy. Thực chất, đây là sự giáng chức, vì chức vụ cũ của Gorbachev cao hơn so với chức vụ mới được bổ nhiệm, hơn nữa, lương bổng cũng cao hơn nhiều. Nhưng ông chấp nhận ngay chức vụ này, không chút do dự vì nó sẽ đem lại cho ông nhiều cơ hội để thực hiện những ý tưởng to lớn hơn. Một kế hoạch phát triển tổng thể được phác thảo nhưng vấn đề nan giải là sự khan hiếm các nguồn lực khiến nó không có tính khả thi.
Gorbachev phát hiện điểm yếu cơ bản trong cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung: không có nhân tố để phối hợp tất cả các kế hoạch riêng lẻ và hợp nhất chúng thành một kế hoạch có tính khả thi cao. Gorbachev hoàn toàn thất vọng trước cung cách điều hành quản lý của các vị bộ trưởng, họ chỉ quan tâm đến quyền lợi cục bộ. Các tổ chức Đảng ở các vùng chỉ tập trung và nhất nhất thực thi tốt các chỉ thị của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (Liên Xô). Không ai trong giới lãnh đạo Trung ương quan tâm tới việc vạch ra kế hoạch hay áp dụng một chính sách khuyến khích nào ở vùng Stavropol xa xôi. Đã có những cố gắng nhằm cải thiện tình hình và vào tháng 2/1967, đã xuất hiện một bài viết trên tờ Novy Mir (Thế giới mới), một tờ báo tiến bộ, trong đó Gennady Lisichkin chủ trương cần phải có những thay đổi mạnh mẽ trong nông nghiệp, có hướng phát triển đúng đắn các nông trang tập thể và nông trường quốc doanh mà khi đó đang rất tùy tiện trong sản xuất. Toàn bộ những ví dụ ông nêu lên đều có nguồn gốc từ vùng Stavropol. Nếu chủ trương này được thông qua, các nông trang tập thể sẽ dần dần được giao quyền quyết định sản xuất sản phẩm gì. Về bản chất, điều đó đồng nghĩa với việc chấm dứt cơ chế kế hoạch trong sản xuất nông nghiệp. Bộ máy của Ban Chấp hành Trung ương Moskva tất nhiên không chấp nhận đề xuất đó và Barakov Bí thư vùng này, người đang triển khai những cải cách cấp tiến bị cách chức vào tháng 1/1967. Đến tháng 9/1967, Efremov có bài viết đáp trả trên báo Selskaya Zhizn − tờ báo nông nghiệp của Ban Chấp hành Trung ương − bác bỏ bài tranh luận và chủ trương của Lisichkin. Gorbachev nhận thấy đây là một ví dụ điển hình và đặc trưng nhất của bộ máy Đảng, họ đang ra sức bảo vệ những đặc quyền của mình chứ không chịu thay đổi một cơ chế kinh tế hiệu quả. Nếu các nông trang được phép áp dụng các sáng kiến cải tiến kỹ thuật của mình thì nền nông nghiệp Xô viết sẽ sản xuất được một khối lượng lương thực cao gấp nhiều lần so với thời kỳ Brezhnev và tiết kiệm cho đất nước hàng tỷ đôla nhập khẩu lương thực. Gorbachev nhận xét: “Đây là một bài học khó khăn với tôi”.
Một bài học nữa với Gorbachev là sự tác động mạnh mẽ của KGB. Mùa hè năm 1967, Zdenek Mlynar, một người bạn cùng trường đại học, đã đến thăm ông sau khi ông này tới Moskva để thuyết trình về tư tưởng cải cách chính trị ở Tiệp Khắc. Ông này cũng cho Mikhail Sergeevich biết những tóm tắt chi tiết về tình hình ở Tiệp Khắc. Sau đó Mlynar được bầu làm Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Tiệp Khắc (CPC), đóng vai trò lãnh đạo trong việc dự thảo Chương trình Hành động của CPC và khởi đầu bằng một chuỗi sự kiện mà được nhắc đến nhiều nhất là sự kiện Mùa xuân Praha. Gorbachev như được tiếp thêm sức mạnh, ông viết thư cho Mlynar nhưng không nhận được hồi âm. Vị thủ trưởng cơ quan KGB bóng gió hé lộ thư trả lời đã được lưu trong hồ sơ KGB. Đây là cách ngầm báo hiệu rằng từ trước đến nay, không có vị Bí thư thứ nhất nào của vùng Stavropol có quyền trao đổi thư từ với những người cộng sản nước ngoài.
Mùa hè năm 1968, Bí thư thứ nhất tỉnh Karachai Cherkess (một phần của vùng Stavropol) bị cách chức vì tội ngoại tình và bỏ vợ. Người ta cho rằng chính việc ngoại tình đã làm xói mòn sức mạnh của Đảng. Bí thư thứ hai của vùng Stavropol được kế nhiệm. Vì thế vị trí Bí thư thứ hai vùng này bị khuyết. Mikhail Sergeevich cho rằng ông không thích hợp chạy đua vào vị trí này và muốn đi nghỉ nhưng Efremov yêu cầu ông ở lại. Một vài ngày sau, Gorbachev được gọi đến gặp Efremov tại văn phòng và không để ý đến sự bực bội của Gorbachev, Efremov thông báo Gorbachev sẽ đi Moskva. Gorbachev đủ thông minh không hỏi ông sẽ đi gặp ai ở đó. Ban tổ chức thuộc Ban Chấp hành Trung ương chất vấn ông bởi vì “có rất nhiều người ở đấy ủng hộ ông”. Đặc biệt là Kulakov, người đã hết lời ca ngợi tài năng Gorbachev. Chính vì vậy, ông đã được bổ nhiệm làm Bí thư thứ hai vùng Stavropol vào ngày 5/8/1968. Việc đề cử của Efremov bị giới lãnh đạo Moskva phản đối là điềm báo không tốt cho tương lai của ông ở Stavropol. Dù việc này làm ảnh hưởng đến quyền lực của Efremov, Gorbachev và ông ta vẫn giữ mối quan hệ.
Hiệp ước Warsaw xâm chiếm Tiệp Khắc bắt đầu vào ngày 21/8/1968 là một cú sốc đối với cá nhân Gorbachev. Khi Efremov đi vắng, Gorbachev chủ trì các cuộc họp, ủng hộ những biện pháp mang tính quyết định và kịp thời nhằm bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội ở Tiệp Khắc. Cá nhân Gorbachev có những băn khoăn khi đánh giá về sự việc này. Những gì diễn ra tại Praha có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển của những tư tưởng cấp tiến tại Nga. Mệnh lệnh từ Moskva là phải nhanh chóng dập tắt những quan điểm không đúng đắn, xa rời quan điểm của Trung ương. Đầu năm 1969, F. B. Sadykov, một phó giáo sư ngành triết (Marx-Lenin), công tác tại Viện Nông nghiệp Stavropol đã xuất bản cuốn sách có tiêu đề Sự đoàn kết của nhân dân và những mâu thuẫn của chủ nghĩa xã hội . Bản thảo cuốn sách được hệ thống xét duyệt thường lệ chấp nhận và được trình lên Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương ở Moskva. Sadykov viết một bài báo cùng chủ đề như vậy in trong Voprosy Filosofii (Những vấn đề triết học). Ông này dám dùng cụm từ “những mâu thuẫn của chủ nghĩa xã hội” và minh họa cho quan điểm này bằng chính không khí chính trị hồi đầu và giữa những năm 1960. Các mâu thuẫn trong chủ nghĩa Marx chính là các vấn đề tồn tại trong suốt quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội. Chúng có thể thuận chiều hoặc trái ngược nhau. Những mâu thuẫn đồng thuận có thể gây ra sự bất ổn trong xã hội nhưng không đe dọa trật tự xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn đối kháng là những vấn đề nếu không điều chỉnh hợp lý, có thể dẫn tới tình thế cách mạng. Sadykov đã chỉ rõ những mâu thuẫn đồng thuận và Moskva quyết định lấy ông làm bài học răn đe. Tháng 5/1969, họ tấn công vào “những sai lầm nghiêm trọng” trong cuốn sách của Sadykov và ông rơi vào tình thế nguy cấp. Những nhà tư tưởng lớn trong chính quyền ra lệnh khai trừ ông khỏi Đảng, điều đó đồng nghĩa với việc đánh dấu chấm hết trong sự nghiệp của ông. Sau này khi rời khỏi Stavropol, Gorbachev đã lấy Sadykov làm gương nhưng ông ghi nhớ những kiến nghị của Sadykov và một số kiến nghị được áp dụng trong chính sách cải cách sau này (cải tổ). Cách đối xử với Barakov và Sadykov ít nhiều còn để lại dư vị cay đắng cho Gorbachev. Ông cảm thấy “cắn rứt lương tâm về sự đối xử thô bạo mà lẽ ra những người này không đáng phải gánh chịu”. Rõ ràng sự rạn nứt của chủ nghĩa xã hội ở Tiệp Khắc đã nhen lên hy vọng về quá trình cải cách hệ thống kinh tế ở nước Nga. Đối với Gorbachev, đây là thời kỳ kinh tế nước Nga bắt đầu giai đoạn trì trệ.
Mikhail Sergeevich được Raisa cung cấp thông tin về mức sống của nông dân trong các nông trường tập thể và với công trình nghiên cứu này, cô đã hoàn thành bằng tiến sĩ tại trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva năm 1967. Cũng trong năm này, ông đã giành được một văn bằng về kinh tế nông nghiệp tại Viện Nông nghiệp Stavropol, với tư cách là sinh viên ngoại trú. Ông viết luận văn về đề tài sản xuất sữa. Vị giám đốc viện này là Aleksandr Nikonov 3 tác động tới ông về phương pháp tăng năng suất trong sản xuất nông nghiệp.
Mong muốn quay trở lại Moskva của Efremov trở thành sự thật vào đầu năm 1970 và Mikhail Sergeevich được bầu làm Bí thư thứ nhất vùng Stavropol vào
tháng 4/1970, một tháng sau sinh nhật lần thứ 39 của ông. Một nghi thức trang trọng cho vị Bí thư thứ nhất này được tổ chức với sự chứng kiến của các vị bí thư thành ủy, tỉnh ủy và khu ủy. Các bí thư Ban Chấp hành Trung ương đã thu thập thông tin về ông, chất vấn ông và cuối cùng ông cũng được thông báo đến gặp Tổng Bí thư. Các cuộc chất vấn chỉ mang tính hình thức vì quyết định phụ thuộc Brezhnev. Ông chủ Điện Kremlin rất tự hào về đội ngũ trợ lý của mình. Vì bản thân ông cũng được bổ nhiệm thông qua hình thức đồng thuận nên ông không muốn cấp dưới không tuân lệnh hoặc có thái độ chống đối. Ông mong có sự ổn định và luôn tìm cách hạn chế nguy cơ tiềm ẩn. Brezhnev có kỹ năng nhưng lại hoàn toàn sáo rỗng trong các vấn đề nội bộ và chính sách đối ngoại. Trong cuộc đối thoại diễn ra vài giờ, Gorbachev phát hiện thấy Brezhnev rất chất phác và dễ tin người. Đây là giai đoạn Brezhnev đang làm Tổng Bí thư.
CÁC CHUYẾN CÔNG DU NƯỚC NGOÀI
Mốc đáng lưu ý của nhà lãnh đạo Komsomol đầy triển vọng này là được mời tham gia đoàn đi thăm một nước xã hội chủ nghĩa. Kinh nghiệm nước ngoài đầu tiên của Gorbachev là tới Cộng hòa Dân chủ Đức (GDR) năm 1966. Thời kỳ đó, Cộng hòa Dân chủ Đức đang tiến hành mạnh mẽ cải cách kinh tế, những cải cách kinh tế cấp tiến và nhanh hơn nhiều so với những cải cách của Kosygin ở Liên bang Xô viết, đáng để nghiên cứu và học hỏi. Ngay từ đầu, Mikhail Sergeevich cảm thấy sự lạnh giá và khung cảnh điêu tàn ở Đông Berlin, một nhận xét thường trực của những khách du lịch đến từ phía Tây. Lãnh đạo của Đông Đức lúc đó là Erich Honecker kế nhiệm vị trí lãnh đạo Đảng của Walter Ulbricht năm 1971, sự tự tin của Honecker đã gây ấn tượng mạnh đối với Gorbachev. Năm 1969 và 1974, Gorbachev có các chuyến thăm Bulgaria. Về mặt nông nghiệp, dường như đây được mệnh danh là vườn địa đàng nhưng chính lúc đó người Nga lại không hay biết Bulgari đang sống chật vật và khó khăn. Kinh nghiệm đau đớn nhưng bổ ích nhất được rút ra từ chuyến viếng thăm nước Tiệp Khắc năm 1969. Đây là lần đầu tiên Gorbachev gặp mặt Egor Ligachev, một thành viên trong đoàn. Mục đích của chuyến thăm này là làm thế nào giành được sự ủng hộ của giới sinh viên Tiệp Khắc, nhưng họ đã thất bại. Đoàn đại biểu Xô viết cảm nhận được thái độ thù địch công khai tại Tiệp Khắc và họ biết giới lãnh đạo Tiệp Khắc cũng có thái độ e ngại trước phản ứng của công chúng. Khi đi thăm một xí nghiệp ở Brno, công nhân ở đây không muốn tiếp chuyện với Gorbachev và những người cùng đoàn. Lo sợ bị tấn công, những người Nga phải cẩn trọng suốt ngày đêm. Gorbachev không có cơ hội tiếp kiến Zdenek Mlynar, nhân vật bị tẩy chay ở Moskva. Chuyến thăm này là một kinh nghiệm đáng kể đối với Gorbachev nhưng nó cũng cho thấy một số hình ảnh tương phản trong tình hình nội trị của Liên Xô. Trong chuyến viếng thăm các nước tư bản, Gorbachev cũng đã rút ra được một số bài học. Chuyến viếng thăm đầu tiên tới Bỉ năm 1972, tiếp đó là ghé qua Hà Lan. Trên đường đi lần đầu tiên ông gặp Anatoly Chernyaev. Trong những năm 1970, Gorbachev còn đi thăm Pháp, Italia và Cộng hòa Liên bang Đức. Ông thật sự sửng sốt trước mức sống của những nước này, cao hơn hẳn mức sống của người Nga. Khả năng này thật sự xảy ra dưới chế độ chủ nghĩa tư bản chăng? Người Nga cũng đã sửng sốt trước sự cởi mở, trước sự nhân nhượng lẫn nhau khi tranh luận về chính trị và các vấn đề khác. Những người đối thoại với họ, phần lớn là những người cộng sản, thường không nhất trí với nhau. Điều này làm cho Mikhail Sergeevich tự vấn xem xét lại niềm tin của mình rằng liệu nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có thật sự ưu tú hơn nền dân chủ tư sản. Ngược lại, đoàn đại biểu Nga luôn đồng nhất một quan điểm và vì vậy các thành viên trong đoàn không bao giờ đoán biết được người này hoặc người kia thật sự đang nghĩ gì. Ông buồn rầu nghĩ đến những ông già trong Điện Kremlin, những người chẳng mấy quan tâm đến các vấn đề như vậy, việc duy nhất họ quan tâm là tìm ra cách biện minh hợp lý lẽ để giữ nguyên hiện trạng.
Trong chuyến thăm Canada tháng 5/1983, Mikhail Sergeevich còn rút ra một kinh nghiệm nữa. Ông phát hiện rằng dù nông nghiệp Canada đạt được sản lượng rất cao nhưng nó phụ thuộc rất nhiều vào sự trợ giá của nhà nước. Quan trọng hơn là ông đã gặp Aleksandr Yakovlev, Đại sứ Liên Xô tại Canada, người sau này trở thành cha đẻ của chính sách “glasnost” (công khai). Trên đường trở về nước, Gorbachev lại tiếp tục tranh luận vấn đề liệu khu vực nông nghiệp có cần thêm trợ cấp của nhà nước hay không. Ông quyết định không nói đến mô hình nông nghiệp Canada với mọi người vì chắc chắn chuyện đó chỉ làm nản lòng họ.
QUYẾT SÁCH BAN ĐẦU VÀ BƯỚC TIẾN CHÍNH TRỊ
Bản chất của nền chính trị Xô viết đòi hỏi một người có tư chất, phải đưa ra được nhiều sáng kiến. Gorbachev là một người biết chấp nhận rủi ro nhưng cũng cần đến một chút may mắn. Bước đi đầu tiên của ông là dự thảo kế hoạch cải cách nông nghiệp đầy tham vọng cho vùng.
Trong thế kỷ trước, năm 1870, ở vùng này đã có
52 năm bị hạn hán. Do vậy, việc cung cấp nước trở nên tối quan trọng. Một con kênh ở vùng Stavropol đã được xây dựng nhưng theo tính toán của Mikhail Sergeevich, công trình phải mất một thiên niên kỷ hoặc thậm chí có thể lâu hơn nữa mới hoàn thành. Ông đã suy nghĩ và cuối cùng đưa ra sáng kiến, còn kinh phí thực hiện vẫn phải đợi Moskva rót xuống. Bước đi đầu tiên là tranh thủ Bộ trưởng Khai hoang và Quản lý Nước của Nga khi ông này tình cờ đang đi nghỉ ở vùng này. Không giải quyết được gì nếu không trực tiếp gặp được ông ấy. Khi Brezhnev đến Baku dự lễ trao huân chương và Gorbachev may mắn được đứng cạnh ông trên khán đài. Mikhail Sergeevich không để tuột mất cơ hội này và đã nhanh chóng bắt chuyện với lãnh đạo. Brezhnev tỏ ra rất hào hứng, triệu tập ngay một cuộc họp khẩn trong Bộ Chính trị và quyết định triển khai kế hoạch này. Kế hoạch do Ban Dự án Komsomol thực hiện, vì vậy đảm bảo được nguồn cung cấp nhân lực và vật lực. Kênh đào được hoàn thành vào năm 1978. Sau đó, vấn đề nổi lên là quyết định trồng hoa màu gì trên khu đất được tưới tiêu. Moskva muốn trồng các loại cây lương thực trên từng mét vuông nhưng Gorbachev cho rằng tốt nhất nên làm giàu đất hàng năm, nghĩa là cho đất luân phiên nghỉ. Đề nghị của Gorbachev không thuyết phục được giới lãnh đạo Trung ương. Tuy nhiên, vận may đã mỉm cười với ông. Vào năm 1975-1976, xuất hiện một nạn hạn hán nghiêm trọng chưa từng thấy. Cuối tháng 5/1976 khoảng một nửa mùa màng bị thiệt hại. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Nga lúc đó vô cùng sợ hãi và lệnh cho cấp dưới phải giết cừu và các gia súc vùng này vì lý do thiếu cỏ. Gorbachev lên tiếng phản đối và sự việc này cuối cùng được Kulakov, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương chuyên trách về nông nghiệp ở Moskva quyết định. Khi ông này gọi điện, Mikhail Sergeevich đã đưa ra những lý lẽ thuyết phục nhưng Kulakov lên tiếng cảnh báo ông sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu sự việc phát triển theo chiều hướng xấu đi. Mọi người trong khu vực đã được huy động thu gom cỏ khô trên các con đập, vệ đường và trên các bãi cỏ nông trang. Gorbachev bay tới Moskva và nhận lệnh khẩn cấp thu gom 60 nghìn tấn cỏ khô. Sau đó mưa như trút nước, cả vùng được cứu sống. Với thành công này, Gorbachev quyết định tiếp tục vận động thực hiện việc bỏ hóa đất trong vùng. Câu trả lời của Kulakov vẫn như trước: chờ ý kiến của lãnh đạo. Brezhnev đang đi nghỉ ở Crime. Chính phủ Nga kịch liệt phản đối việc bỏ hóa này, tuy vậy có một nghị quyết của Bộ Chính trị về mở rộng diện tích lương thực ở vùng nông thôn. Thời kỳ này, Gorbachev luôn trong tâm trạng lo lắng và căng thẳng. Năm 1977, người ta đã chứng kiến một vụ mùa bội thu và năm 1978 thậm chí còn bội thu hơn. Vận may đã nghiêng về những người dũng cảm. Một phần do may mắn, một phần dựa trên khả năng tính toán, ông cho rằng nếu năm 1975 và 1976 là những năm hạn hán mất mùa, khả năng bội thu mùa màng vào năm 1977 là rất cao. Do vậy, thời gian tiến hành bỏ hóa đất đai trồng trọt là năm 1977. Một vấn đề khác trong vùng này phải lưu ý là nguồn cung cấp thịt. Khoảng 75% sản phẩm thịt được phân phối cho các vùng khác, vì thế sản lượng này phải tăng lên rất nhanh. Gorbachev quyết định thử liều một phen và ông thực hiện ý định một mình. Ông tăng cường mở rộng các trang trại chăn nuôi gia cầm và sản lượng gà đã tăng lên đáng kể. Một trong những người tham gia chính là Viktor Postmikov, giống như Gorbachev, cũng sinh ra ở Privolnoe, sau này được Mikhail Sergeevich cho phép, ông ta đã thành lập và mở rộng một nông trang chăn nuôi gia cầm và bán thịt cho vùng Stavropol. Đến năm 1983, nhờ có sự hậu thuẫn của Gorbachev trong tổ chức chính quyền, ông này đã rất thành công.
Vùng Stavropol có nền nông nghiệp phát triển và một số người đã để mắt tới vùng này nhằm tiến xa hơn trong sự nghiệp chính trị. Fedor Kulakov rất cần đưa ra sáng kiến được lòng công chúng và ông phát hiện có vấn đề xảy ra hàng năm trong vụ thu hoạch. Một phần bị thất thu do không thu hoạch được. Sự việc càng trở nên cấp thiết khi giá nhập khẩu lương thực từ Bắc Mỹ ngày càng tăng, người dân Nga không cung cấp đủ lương thực trong nước cho người và gia súc. Vùng được chọn là Ipatovsky, một vùng đất bằng phẳng và thích hợp trồng lúa mì mùa đông. Mô hình dự án được hoàn chỉnh năm 1976 và triển khai năm 1977. Vùng này được phân chia thành 54 khu vực, mỗi khu vực đều được trang bị máy gặt đập liên hợp, ôtô tải và 15 đảng viên để nhấn mạnh rằng đó là sáng kiến của Đảng. Vụ thu hoạch tiến hành suốt ngày đêm. Thời tiết cũng rất thuận lợi. Việc thu hoạch hoàn thành trong vòng chín ngày (thường phải mất hai đến ba tuần) và vào đầu tháng 7, 200 nghìn tấn lương thực được chuyển về Trung ương như lời hứa của các quan chức Đảng. Ngày 20/7, tờ Pravda có bài báo ca ngợi hết lời thắng lợi này và kêu gọi cả nước noi gương. Tháng 2/1978, Kukalov được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động Xã hội Chủ nghĩa, danh hiệu cao quý nhất ở Liên bang Xô viết. Gorbachev được nhận Huân chương Cách mạng Tháng Mười và nhiều danh hiệu khác. Vụ thu hoạch năm 1978 ở vùng Ipatovsky thậm chí còn bội thu hơn nhiều, nộp cho Nhà nước 240 nghìn tấn lương thực. Những lời ca tụng chúc mừng lắng dịu khi Kulakov qua đời ngày 17/7/1978. Gorbachev phát biểu trong lễ tang của Kulakov và lần đầu tiên người dân Nga nhìn thấy vị lãnh đạo tương lai của mình. Nhưng ông đã sửng sốt vì Brezhnev và các ủy viên Bộ Chính trị không đến dự lễ tang. Ông thấy rõ là các đồng chí lãnh đạo lại xa rời nhau một cách khó mà tin được, đúng là xa rời nhân dân.
Phương pháp thu hoạch mùa màng tại Ipatovsky lắng xuống cùng với cái chết của Kulakov. Nó chính là một ví dụ điển hình về mối liên hệ mật thiết giữa kinh tế và chính trị. Hóa ra mục đích không p