← Quay lại trang sách

NIÊN BIỂU CÁC SỰ KIỆN THỜI ĐẠI GORBACHEV:

GIAI ĐOẠN ĐỈNH CAO CỦA QUYỀN LỰC

(1985-1989)

1985

10/3: Konstantin Chernenko qua đời.

11/3: Mikhail Gorbachev được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.

7/4: Gorbachev hoãn việc triển khai tên lửa hạt nhân nhưng ông khẳng định có thể khởi động lại việc này vào tháng 11 nếu NATO không dừng việc triển khai của mình.

23/4: Phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương

tháng 4 tiếp nhận cải cách không rõ ràng của Gorbachev. Chebriko, Ryzhkov và Ligachev trở thành ủy viên chính thức Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng Sergei Sokolov là ủy viên dự khuyết.

15/5: Gorbachev thăm Leningrad và nhận được nhiều sự ủng hộ trong các chính sách với tính cách thẳng thắn của ông.

16/5: Nội dung của chiến dịch chống rượu mạnh được thông báo là giảm sản xuất rượu mạnh và tăng hình phạt đối với người nghiện rượu.

1/7: Phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương gạt Grigory Romanov ra khỏi Bộ Chính trị, Eduard Shevardnadze được bầu làm ủy viên chính thức Bộ Chính trị, Boris Yeltsin và Lev Zaikov trở thành các bí thư Ban Chấp hành Trung ương.

2/7: Andrei Gromyko trở thành chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô, đứng đầu nhà nước, Shevardnadze kế nhiệm ông làm Ngoại trưởng.

25-27/9: Shevardnadze đi thăm Mỹ để cùng chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh Reagan - Gorbachev.

2-5/10: Gorbachev đi thăm Pháp, chuyến thăm chính thức của ông sang phương Tây trên cương vị nhà lãnh đạo. Ông sử dụng từ “tự cung tự cấp hợp lý” cho lần đầu tiên, nhưng lại không bàn đến các cuộc hội đàm INF và bác bỏ việc lấy tư tưởng làm nền tảng chính sách đối ngoại. Ông đề nghị các siêu cường quốc giảm kho đạn chiến lược của mình xuống một nửa.

19-21/11: Cuộc họp hội nghị thượng đỉnh ở Geneva giữa Mikhail Gorbachev và Tổng thống Mỹ Ronald Reagan; họ đồng ý lại gặp gỡ nhau trong tương lai.

24/12: Boris Yeltsin thay Viktor Grishin làm Bí thư thứ nhất Thành ủy Moskva.

1986

8/2: Trong một cuộc phỏng vấn trên tờ L'Humanité, tờ báo của Đảng Cộng sản Pháp, Gorbachev miêu tả chủ nghĩa Stalin như một “khái niệm do các phần tử chống đối chủ nghĩa cộng sản nêu lên và sử dụng trên một phạm vi rộng lớn nhằm bôi nhọ Liên bang Xô viết và chủ nghĩa xã hội nói chung”.

18/2: Một phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương thảo luận Đại hội Đảng lần thứ 27 và kế hoạch kinh tế trong năm 1990-2000. Viktor Grishin rời khỏi Bộ Chính trị và Boris Yeltsin được bầu làm ủy viên dự khuyết.

25/2-6/3: Đại hội Đảng lần thứ 27 khai mạc với bài phát biểu đề dẫn dài của Gorbachev trong đó ông chủ trương cải cách cấp tiến cơ chế kinh tế. Ông nói đến cuộc chiến tranh tại Afghanistan là một vết thương đang rỉ máu và thời đại Brezhnev là một thời kỳ “trì trệ”. Ngày 6/3, Lev Zaikov trở thành ủy viên chính thức Bộ Chính trị. Yeltsin phát biểu trước Đại hội về chủ đề nhạy cảm: đặc quyền của Đảng.

26/4: Một vụ nổ tại lò phản ứng hạt nhân Chernobyl, Ukraine trở thành một nơi bị ô nhiễm phóng xạ tồi tệ nhất trong lịch sử Xô viết. Tuy nhiên, phản ứng đầu tiên của giới lãnh đạo là làm dịu tình hình đến mức có thể.

28/7: Gorbachev đến Vlapostok thăm Viễn Đông của Liên Xô và phát biểu sáu trung đoàn sẽ rút ra khỏi Afghanistan và các cuộc hội đàm bắt đầu tiến hành với Mông Cổ về việc rút quân Xô viết đang trú tại đất nước này.

10/10: Gorbachev đến Reykjavik tham dự hội nghị thượng đỉnh trong 2 ngày cùng Tổng thống Mỹ Reagan. Họ nhất trí về phần lớn các vấn đề cắt giảm vũ trang. Họ cũng thỏa thuận việc cắt giảm các vũ khí tấn công và thậm chí tiến tới loại trừ vũ khí hạt nhân.

19/10: Trục xuất năm nhà ngoại giao Mỹ tại Liên Xô, đây là sự trả đũa cho việc trục xuất các quan chức Xô viết tại Liên Hợp Quốc.

21/10: Mỹ trục xuất 55 nhà ngoại giao Xô viết khỏi đại sứ quán Liên Xô tại Washington và Tổng lãnh sự quán Xô viết ở San Francisco, đồng thời xác định thời hạn nhân sự cho từng người.

22/10: Liên bang Xô viết lại trục xuất tiếp năm nhà ngoại giao Mỹ và rút các nhân viên Xô viết khỏi đại sứ quán Mỹ và Tổng lãnh sự quán.

6/11: Bộ Quốc phòng Liên Xô tuyên bố việc rút sáu trung đoàn (khoảng 6 nghìn người) khỏi Afghanistan đã hoàn thành và họ sẽ không thay quân.

28/11: Mỹ triển khai máy bay ném bom B52 mới, vi phạm Hiệp ước START II.

1987

28/3-1/4: Thủ tướng Anh Magaret Thatcher thăm Liên Xô, nhấn mạnh vấn đề nhân quyền và kêu gọi rút quân đội Xô viết khỏi Afghanistan.

28/5: Mathias Rust, một thanh niên Tây Đức, điều khiển máy bay loại nhẹ Cessna hạ cánh ngay gần Quảng trường Đỏ, chọc thủng hàng rào bảo vệ không quân của Liên Xô mà không hề bị phát hiện.

30/5: Nhiều quan chức cao cấp trong giới quân sự bị thuyên chuyển sau vụ đột nhập của Rust. Tướng Dmitry Yazov lên thay Tướng Sergei Sokolov làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô.

28-30/6: Khóa họp Xô viết Tối cao Liên bang Xô viết chủ yếu tập trung bàn về cải cách kinh tế. Ryzhkov kêu gọi sự quản lý kinh tế của trung ương trong nền kinh tế quá lỗi thời và chủ trương tiến hành cải cách cấp tiến. Một sắc luật về doanh nghiệp nhà nước được ban hành giao quyền tự quyết cho các xí nghiệp quản lý ngân sách của mình, chủ trương này được triển khai vào ngày 1/1/1988.

24/9: Một nghị quyết Bộ Chính trị cho phép các cửa hàng nhỏ do tư nhân và các hợp tác xã làm chủ − một cải cách cấp tiến.

12/10: Tại Leningrad, Gorbachev giành thắng lợi với cải tổ và chủ trương công khai, đồng thời cảnh báo nếu giới lãnh đạo Đảng không ủng hộ cải cách, Đảng có thể sẽ mất đi vai trò lãnh đạo của chính mình.

21/10: Tại một phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương, Boris Yeltsin phá vỡ điều cấm kỵ của Đảng, đó là việc các lãnh đạo không được chỉ trích lẫn nhau trước công chúng, ông đổ lỗi cho Gorbachev và Ligachev vì để cải cách diễn ra với tốc độ chậm chạp. Gorbachev phản ứng rất quyết liệt. Yeltsin đề nghị xin rút khỏi Bộ Chính trị và từ chức bí thư thứ nhất Thành ủy Moskva. Geidar Aliev bị cách chức khỏi Bộ Chính trị.

1/11: Cuốn sách Perstroika and the New Political Thinking (Cải tổ và Tư duy chính trị mới) của Gorbachev, được xuất bản ở Moskva. Nó được dịch ra nhiều thứ tiếng và trở thành một cuốn sách bán chạy với số lượng lớn.

11/11: Boris Yeltsin bị Gorbachev và những người khác tấn công trong một cuộc họp của Thành ủy Moskva. Lev Zaikov tiếp nhận chức vụ bí thư thứ nhất. Ngày 18/11, Yeltsin giữ chức phó Chủ tịch thứ nhất Ủy ban Nhà nước về xây dựng.

5/12: Gorbachev thăm London và gặp bà Magaret Thatcher.

7-10/12: Gorbachev tới Washington hội đàm với Tổng thống Reagan. Tại Washington, ông ký Hiệp định cấm tên lửa hạt nhân tầm trung (INF) ngày 8/12. Đây là chuyến thăm đầu tiên tới Mỹ và trở thành chiến thắng lớn của cá nhân ông.

1988

1/1: Luật doanh nghiệp nhà nước có hiệu lực và tạo điều kiện cho các nhà máy có quyền tự quyết đáng kể (cải cách này nới lỏng kiểm soát của trung ương với nền kinh tế, dẫn đến tăng lạm phát và khan hiếm hàng hóa).

28/2: Người Armenia và người Do Thái bị tấn công ở Sumgait, Azerbaijan, 26 người Armenia và 6 người Azeribaijan bị giết.

13/3: Tờ báo Sovetskaya Roosiya (Nước Nga Xô viết) công bố bức thư của Nina Andreeva tấn công cải tổ và chỉ trích Stalin.

14/4: Các hiệp định về chấm dứt chiến tranh ở Afghanistan được ký kết tại Geneva. Liên Xô và Mỹ bảo đảm các hiệp định này và hứa không can thiệp vào các vấn đề nội bộ của Afghanistan và Pakistan.

29/5-2/6: Tổng thống Reagan thăm Moskva và gặp Gorbachev trong Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 4. Reagan cũng gặp gỡ các nhà bất đồng chính kiến và ca ngợi sự tự do trong một bài phát biểu trước sinh viên trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva.

Tháng 6-7: Tiếp tục cuộc xung đột ở Nagorno-Karabakh. Ngày 15/6, Xô viết Tối cao Armenia bỏ phiếu sáp nhập Nagorno-Karabakh nhưng Xô viết Tối cao Azerbaijan phản đối việc bỏ phiếu này vào ngày 17/6. Ngày 20/7, Xô viết Tối cao Liên Xô phê chuẩn không công nhận việc sáp nhập Nagorno-Karabakh vào Armenia.

15/6: Xô viết Tối cao Armenia bầu sáp nhập Nagorno- Karabakh.

28/6-1/7: Hội nghị Đảng lần thứ 19 khai mạc tại Moskva, Gorbachev đưa ra chế độ bầu cử tổng thống, loại bỏ sự can thiệp của Đảng vào quá trình quản lý kinh tế, triệu tập một Đại hội Đại biểu Nhân dân và tiến hành bỏ phiếu cạnh tranh.

25/7: Phát biểu trước một hội nghị của Bộ Ngoại giao Liên Xô, Shevardnadze phản đối việc coi đấu tranh giai cấp là nền tảng của chính sách đối ngoại.

5/8: Trong bài phát biểu ở Gorky (Nizhnt Novgorod), Egor Ligachev lặp đi lặp lại rằng đấu tranh giai cấp là nền tảng của chính sách đối ngoại Xô viết.

12/8: Trong một bài phát biểu tại Vilnius, Lithuania, Aleksandr Yakovlev nêu bật các giá trị của con người hay các lợi ích chung của toàn nhân loại.

19/8: Cương lĩnh dự thảo của Mặt trận Nhân dân Estonia được đăng trên một tờ báo của Estonia.

21/9: Công bố tình trạng khẩn cấp trong các khu vực thuộc Nagorno-Karabakh sau khi xảy ra náo loạn.

30/9: Tại một phiên họp toàn thể của Ban Chấp hành Trung ương, một số lớn các thành viên về hưu (không còn giữ chức theo quy chế của Ban Chấp hành Trung ương). Gromyko và Solomentsev rút khỏi Bộ Chính trị. Ligachev được bổ nhiệm phụ trách Ủy ban Nông nghiệp trung ương, rõ ràng là một sự giáng cấp. Alesandr Yakovlev đảm nhiệm ban đối ngoại trong Ban Bí thư trung ương.

1/10: Gorbachev được bầu làm Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô.

16/11: Xô viết Tối cao Estonia tuyên bố chủ quyền và đòi quyền hợp pháp của Estonia trong luật pháp Xô viết.

26/11: Xô viết Tối cao Liên Xô bác bỏ tuyên bố chủ quyền của Estonia và vẫn giữ quyền kiểm soát các tài sản quốc gia trong nước cộng hòa này.

1/12: Xô viết Tối cao Liên bang Xô viết ban sắc lệnh luật bầu cử mới, với hình thức bầu cử cạnh tranh và bỏ phiếu kín.

7/12: Tại Liên Hợp Quốc, Gorbachev tuyên bố Liên Xô cắt giảm lực lượng vũ trang xuống 500 nghìn quân trong vòng 2 năm mà không đòi phải có động thái đáp lại của Hoa Kỳ hay đồng minh của Mỹ. Ông nhấn mạnh lợi ích chung của nhân loại và quyền tự do lựa chọn là nguyên tắc về giá trị của con người. Sau đó ông gặp Reagan và ứng cử viên tổng thống Bush tại đảo Governor. Nguyên soái Sergei Akhromeev từ chức Tổng tư lệnh và Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Armenia trải qua một trận động đất khủng khiếp làm 50 nghìn người chết. Gorbachev từ bỏ kế hoạch đi thăm Cuba và quay trở về nước.

1989

12/1: Nagorno-Karabakh đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Moskva bởi sắc lệnh của Xô Viết Tối cao Liên Xô. Arkady Volsky được bổ nhiệm là người quản lý tạm thời.

17-19/1: Hội nghị tổng kết CSCE kết thúc tại Vienna bằng một thỏa thuận bắt đầu thương lượng cắt giảm lực lượng thông thường ở châu Âu (CFE).

18/1: Estonia thông qua luật về ngôn ngữ mới yêu cầu người không nói tiếng Estonia phải học ngôn ngữ bản địa này trong vòng bốn năm. Ngày 26/1, Lithuania cũng thông qua một luật tương tự, và vào ngày 1/2, Latvia cũng noi gương. Các nước cộng hòa khác đều thông qua một luật pháp giống như vậy: Tajikitstan tuyên bố ngày 22/7, Kirgizia vào ngày 24/8, Moldova vào ngày 28/8, Uzbekistan vào 21/10, và Ukraine vào ngày 28/10.

15/2: Đội quân Xô viết cuối cùng rời Afghanistan; chế độ Najibullah tồn tại đến năm 1992 (Najibullah bị lực lượng Taleban sát hại vào tháng 9/1996).

26/3: Các cuộc bầu cử Đại hội Đại biểu Nhân dân được tổ chức. Nhiều ứng cử viên của Đảng thất bại và các đảng ủng hộ độc lập đều giành thắng lợi ở các nước cộng hòa Baltic. Boris Yeltsin thắng cử ở Moskva.

9/4: Quân đội Xô viết tấn công cuộc biểu tình hòa bình ở Tbilisi, 20 người thiệt mạng và hàng trăm người bị thương.

25/4: Trong một phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 74 ủy viên Ban Chấp hành Trung ương xin từ chức. Quân đội Xô viết bắt đầu rút hoàn toàn khỏi Hungary.

15-19/5: Gorbachev thăm Trung Quốc và tuyên bố bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.

25/5: Đại hội Đại biểu Nhân dân khai mạc tại Moskva và được truyền hình trực tiếp. Gorbachev được bầu làm chủ tịch và vào ngày 26/5, Đại hội bầu các thành viên của Xô viết Tối cao Liên Xô, là quốc hội thường trực. Yeltsin cũng được bầu, khi đó Aleksei-Kazannik xin rút lui.

6/7: Gorbachev phát biểu tại Ủy ban Châu Âu ở Strasbourg và tuyên bố Liên Xô không nghiêng theo cải cách ở Đông Âu.

10/7: Thợ mỏ than ở Kuzbass, Siberia tiếp tục đình công, theo sau đó là thợ mỏ vùng Donbass, Ukraine.

29/7: Nhóm Liên Khu vực được thành lập tại Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc để thúc đẩy cải cách. Trong số các nhà lãnh đạo được 250 đại biểu chọn có Boris Yeltsin, Gavriil Popov và Andrei Sakharov.

23/8: Trên 2 triệu người tham gia một cuộc biểu tình kiểu Baltic, tạo thành một dòng người kéo dài khắp ba nước cộng hòa.

31/8: Xô viết Tối cao Moldova ban bố sắc lệnh tiếng Moldova (tiếng Moldova hay tiếng Rumani) được coi là ngôn ngữ chính và thay bảng chữ cái Cyrillic bằng chữ Latin.

22-23/9: Ngoại trưởng Mỹ James Baker và Shevardnadze gặp nhau ở Jackson Hole, Wyoming. Shevardnadze bỏ qua các đề nghị của Liên Xô liên quan đến cắt giảm tên lửa chiến lược dẫn đến hạn chế Sáng kiến phòng thủ chiến lược (SDI) hay Chiến tranh giữa các vì sao.

25-26/9: Tại Liên Hợp Quốc, Tổng thống Bush và Eduard Shevardnadze đề nghị loại bỏ vũ khí hóa học.

7/10: Ở Đông Berlin, Gorbachev nói trước đám đông rằng “cuộc sống sẽ trừng phạt những người tụt hậu” và điều này làm giảm quyền lực của Erich Honeker, nhà lãnh đạo Cộng hòa Dân chủ Đức. Egon Krenz thay thế ông này vào ngày 18/10.

8/10: Mặt trận Bình dân Latvia thông qua nghị quyết coi nền độc lập là mục tiêu của mình.

9/11: Bức tường Berlin sụp đổ.

19/11: Xô viết Tối cao Gruzia tuyên bố chủ quyền và phán xử việc Liên Xô chiếm đóng năm 1921 là vi phạm Hiệp ước năm 1920 giữa Gruzia và Nga.

28/11: Xô viết Tối cao Liên Xô chấm dứt sự kiểm soát trực tiếp với Nagorno-Karabakh, bất chấp việc phản đối của các đại biểu Armenia và Nagorno-Karabakh.

1/12: Gorbachev yết kiến Giáo hoàng John Paul II tại Vatican và tuyên bố luật về quyền tự do tín ngưỡng sẽ được ban hành, Nhà thờ Thiên Chúa giáo của Ukraine sẽ được công nhận và hoạt động trở lại.

2-3/12: Gorbachev và Bush gặp nhau tại Malta và Gorbachev tuyên bố không sử dụng vũ lực để đảm bảo các thể chế cộng sản Đông Âu vẫn nắm quyền lãnh đạo. Bush thỏa thuận dỡ bỏ mọi trở ngại trong thương mại Mỹ-Xô.

12/12: Phiên họp lần thứ hai Đại hội Đại biểu Nhân dân khai mạc và Gorbachev từ chối xem xét sửa đổi Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô, đảm bảo sự độc tôn về chính trị của Đảng.

20/12: Đảng Cộng sản Lithuania tuyên bố hoạt động độc lập, không phụ thuộc vào Đảng Cộng sản Liên Xô.

24/12: Xô viết Tối cao Liên Xô tuyên bố nghị định thư bí mật trong Hiệp ước Đức Quốc xã-Liên Xô không còn hiệu lực nhưng không đề cập đến việc ba nước cộng hòa Baltic và các lãnh thổ bị Liên Xô sáp nhập là một phần của thỏa thuận này.

GORBACHEV − THỜI KỲ SUY YẾU (1990 – 1991)

1990

11-13/1: Gorbachev thăm Lithuania thảo luận nguyện vọng của nước cộng hòa này muốn tách khỏi Liên bang Xô viết. Nhưng người dân Lithuania đã tiến hành biểu tình đòi độc lập.

19-20/1: Các cuộc đụng độ ở Baku giữa quân đội Xô viết và dân chúng địa phương dẫn đến việc nhiều người bị chết. Mặt trận Dân tộc Azerbaijan mất quyền kiểm soát.

Tháng 2-3: Các cuộc bầu cử địa phương được tổ chức trên toàn lãnh thổ Liên Xô, các ứng cử viên nghiêng về việc trao độc lập cho các nước vùng Baltic đã thắng cử; ở Moskva và Leningrad, các ứng cử viên là lãnh đạo Đảng đều bị thất cử.

5/2: Trong phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương, Gorbachev đề nghị bỏ hẳn vai trò lãnh đạo của Đảng (Điều 6 của Hiến pháp Liên Bang Xô viết), chấp nhận hệ thống đa đảng và thông qua “chủ nghĩa xã hội dân chủ và nhân văn”. Những điều này được chấp nhận vào ngày 7/2, sau một cuộc tranh cãi kịch liệt.

8/2: James Baker thăm Moskva và đề xuất một cuộc thương lượng về việc thống nhất nước Đức là hai (Đông và Tây Đức) cộng bốn (Mỹ, Liên Xô, Anh và Pháp).

10/2: Thủ tướng Đức Kohl ký thỏa thuận về nguyên tắc tái thống nhất nước Đức tại Moskva.

12/2: Các ngoại trưởng của cuộc gặp Hai cộng bốn ở Ottawa đồng ý bắt đầu thảo luận về tiến trình thống nhất nước Đức.

6/3: Đại hội Đại biểu Nhân dân sửa đổi Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô, chấm dứt sự độc tôn quyền lực của Đảng.

11/3: Lithuania tuyên bố phục hồi nền độc lập và bầu Vytautas Landsbergis làm Chủ tịch Hội đồng Tối cao và Tổng thống.

14/3: Gorbachev được Đại hội Đại biểu Nhân dân bầu làm tổng thống Liên Xô.

25/3: Đảng Cộng sản Estonia bỏ phiếu về vấn đề độc lập, tách khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô.

28/3: Các cuộc bầu cử tự do đầu tiên diễn ra ở Hungary kể từ năm 1945.

1/5: Diễu hành nhân ngày Quốc tế Lao động tại Quảng trường Đỏ bị một số phần tử chống đối Gorbachev quấy phá.

4/5: Xô viết Tối cao Latvia xác nhận nền độc lập là mục tiêu đấu tranh của mình.

29/5: Boris Yeltsin được bầu làm Chủ tịch Đoàn Xô viết Tối cao Liên bang Nga.

30/5-4/6: Gorbachev đi thăm Washington và tham dự hội nghị thượng đỉnh lần thứ hai với Bush, sau đó đi thăm Minneapolis-St Paul và San Francisco.

8/6: Xô viết Tối cao Liên bang Nga tuyên bố chủ quyền và các quy định luật pháp Nga được ưu tiên hơn luật pháp của Liên bang Xô viết.

19-23/6: Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Nga diễn ra ở Moskva.

22/6: Ivan Polozkov, một người bảo thủ, được bầu làm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Nga.

30/6: Việc cung cấp dầu và khí đốt cho Lithuania được nối lại sau khi Đại hội Đại biểu Nhân dân nước này tạm hoãn triển khai tuyên bố giành độc lập.

2-13/7: Đại hội Đảng lần thứ 28 triệu tập tại Moskva. Gorbachev tái cử Tổng Bí thư nhưng với số phiếu chống đáng kể. Bộ Chính trị mới không còn vai trò điều hành đất nước.

16/7: Ukraine tuyên bố chủ quyền.

20/7: Công bố chương trình 500 ngày của Cộng hòa Liên bang Nga tính đến việc dịch chuyển theo hướng kinh tế thị trường trong vòng 500 ngày.

27/7: Belarus tuyên bố chủ quyền.

2/8: Iraq xâm lược Kuwait.

3/8: Baker và Shevardnadze ký tuyên bố chung ở Moskva kết tội xâm lược của Iraq.

22/8: Turkmenistan và Armenia tuyên bố chủ quyền.

25/8: Tajikitstan tuyên bố chủ quyền. Cộng hòa tự trị Abkhaz ở Gruzia tuyên bố độc lập khỏi Gruzia và đề nghị được hưởng quy chế nước cộng hòa Liên bang trong Liên bang Nga.

6/9: Các cử tri Leningrad bỏ phiếu phục hồi tên cũ của thành phố này là St. Petersburg (theo tiếng Nga là Sankt Peterburg).

9/9: Gorbachev và Bush gặp nhau trong cuộc họp thượng đỉnh kéo dài một ngày ở Helsinki và thỏa thuận hợp tác để chấm dứt sự xâm lược của Iraq vào Kuwait.

12/9: Hiệp ước hai cộng bốn được ký tại Moskva chấm dứt sự kiểm soát của bốn bên với nước Đức.

24/9: Xô viết Tối cao Liên Xô trao cho Gorbachev một đặc quyền trong vòng 18 tháng để có thể ban hành các nghị định trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường nhưng không đồng ý một chương trình kinh tế.

3/10: Nước Đức tái thống nhất.

20-21/10: Phong trào chính trị Nước Nga Dân chủ mở đại hội đầu tiên ở Moskva.

25/10: Kazakhstan tuyên bố chủ quyền.

28/10: Xô viết Tối cao Kyrgyzia bầu Askar Akaev làm Tổng thống Kirgizia. Các đảng phái nghiêng về độc lập giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Đại hội Đại biểu Nhân dân ở Gruzia. Đại hội Rukh ở Kiev coi việc giành độc lập là mục tiêu chính.

30/10: Kyrgyzia tuyên bố độc lập.

7/11: Gorbachev bị tấn công trong lễ kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười tại Quảng trường Đỏ.

17/11: Xô viết Tối cao Liên Xô chấp nhận lời đề nghị của Gorbachev lập ra một chính quyền Xô viết mới, gồm đại diện từ 15 nước cộng hòa trên toàn Liên bang, được gọi là Hội đồng Xô viết Liên bang.

19/11: Hiệp ước về các lực lượng vũ khí thông thường ở châu Âu (CFE) được ký ở Paris.

23/11: Hiệp ước dự thảo về một Liên bang mới được công bố, được gọi là Cộng đồng các cộng hòa Xô viết có chủ quyền. Phần lớn các nước cộng hòa đều chỉ trích hiệp ước này.

1/12: Vadim Bakatin thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên Xô và Boris Pugo lên thay.

20/12: Bộ trưởng Ngoại giao Eduard Shevardnadze từ chức và cảnh báo mối đe dọa của chế độ độc tài.

25/12: Thủ tướng Nikolai Ryzhkov trải qua một cơn đau tim đột ngột.

26/12: Gorbachev lựa chọn Gennady Yanaev làm Phó Tổng thống Liên Xô nhưng bị Đại hội phản đối ở vòng bỏ phiếu đầu tiên, ngày sau đó được chấp nhận ở vòng bỏ phiếu thứ hai. Gorbachev ngày càng được giao quyền lực lớn hơn.

1991

11-13/1: Lính mũ nồi đen (lực lượng OMON dưới sự lãnh đạo của Bộ Nội vụ) phân đội Alpha của KGB tấn công vào cơ qua in ấn của thông tấn Vilnius, Lithuania; ngày 13/1 tấn công và chiếm đài truyền hình làm 13 người thiệt mạng, trong đó có một lính của họ.

14/1: Valentin Pavlov được bổ nhiệm làm Thủ tướng Liên Xô.

15/1: Chiến dịch Bão táp sa mạc, đánh đuổi Iraq khỏi Kuwait, mở đầu trong Vùng Vịnh Ba Tư.

20/1: Trong các vụ đụng độ giữa lực lượng Liên Xô và cảnh sát Latvia, ba người đã thiệt mạng.

9/2: Hơn 90% cử tri Lithuania bảo phiếu cho nền độc lập Lithuanua.

12/2: Valentin Pavlov, Thủ tướng Liên Xô, nói rõ có âm mưu nhằm làm suy yếu nền kinh tế Xô viết và rút tờ bạc 100 rúp khỏi sự lưu thông trên thị trường.

24/2: Một cuộc tấn công bộ binh do Mỹ chỉ đạo bắt đầu chiến dịch đánh Iraq.

25/2: Hiệp ước Warsaw đồng ý vô hiệu hóa toàn bộ các thỏa thuận quân sự trước kia, có hiệu lực đến ngày 31/3, nhưng vẫn giữ các quan hệ chính trị tự nguyện.

28/2: Toàn bộ các hoạt động quân sự chống Iraq được đình chỉ.

1/3: Thợ mỏ đình công tại Donbass, Ukraine; đình công đã lan rộng ra các vùng khác.

3/3: Các cuộc trưng cầu dân ý về độc lập được tổ chức ở Estonia và Latvia, với 78% phiếu thuận ở Estoria và 74% ở Latvia.

14-16/3: Bake thăm Maskva để gặp và thảo luận với các lãnh đạo các nước vùng Baltic và lãnh đạo các nước cộng hòa khác.

17/3: Cuộc trưng cầu về tương lai của Liên Xô và ở Liên bang Nga) về việc tạo lập chế độ bầu cử tổng thống và ở ở Moskva) bầu thị trưởng trực tiếp. Đa số nghiêng về duy trì Liên bang.

31/3: Hiệp ước Warsaw chính thức giải thể.

4/4: Yeltsin được chấp nhận nắm giữ một số quyền lực đáng kể; các cuộc đình công bắt đầu diễn ra ở Minsk.

9/4: Gruzia tuyên bố độc lập.

22/4: Thủ tướng Pavlov giới thiệu một chương trình chống khủng hoảng trước Xô viết Tối cao Liên Xô.

23/4: Tại Novo-Ogarevo − nhà nghỉ của Tổng thống ở ngoại ô Moskva, Tổng thống Gorbachev và các nhà lãnh đạo chín nước cộng hòa ký tuyên bố chung về việc thúc đẩy một hiệp ước Liên bang mới (Hiệp ước 9+1).

24/4: Xô viết Tối cao Liên bang Nga ban bố một đạo luật đem lại quyền bầu cử tổng thống cho nước Nga.

12/6: Boris Yeltsin được bầu làm Tổng thống Liên bang Nga trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên ở Nga, với 57,3% số phiếu trong số 74%. Zhirinovsky chỉ giành được 8%. Gavriil Popov được bầu làm Thị trưởng Moskva với 65,3% phiếu bầu.

17/6: Thủ tướng Pavlov đề nghị Xô viết Tối cao Liên Xô cho phép ông có một số quyền hạn đặc biệt (không cần thông qua sự đồng ý của Gorbachev) và được ủng hộ của Nguyên soái Yazov (Bộ trưởng Quốc phòng), Vladimia Kryuchkow (KGB) và Bois Pugo (Bộ trưởng Nội vụ).

20/6: Đại sứ Mỹ cảnh báo Gorbachev về âm mưu nhằm lật đổ ông.

30/6: Người lính Xô viết cuối cùng rút khỏi Tiệp Khắc (họ đã đóng quân ở đây từ ngày 21/8/1968).

4/7: Eduard Shevardanadze rời khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô để đồng thành lập ra một nhóm đối lập.

10/7: Boris Yeltsin tuyên thệ nhậm chức Tổng thống nước Cộng hòa Liên bang Nga và nhận được ban phước của Nhà thờ Chính thống giáo ở Nga.

12/7: Xô viết Tối cao Liên Xô thông qua hiệp ước Liên bang trên nguyên tắc, nhưng vẫn đề nghị phải sửa đổi.

17/7: Gorbachev hội đàm với nhóm G7 ở London nhưng nhận được rất ít sự ủng hộ.

30-31/7: Tổng thống Bush thăm Moskva, gặp Gorbachev và Nazarbaev, đồng thời có chuyến thăm riêng Boris Yeltsin.

1/8: Tổng thống Bush thăm Kiev và gặp Leonid Kravchuk.

4/8: Gorbachev đi nghỉ ở Foros, Crime.

SỰ TAN RÃ CỦA LIÊN BANG XÔ VIẾT, THÁNG 8/9/1991

17/8: Kryuchkov, Pavlov và Yazov cùng vài quan chức cấp cao của Đảng nhất trí yêu cầu Gorbachev phải chuyển giao tạm thời quyền lực cho họ; nếu ông từ chối, họ có thể bắt giữ ông để giành quyền kiểm soát.

18/8: Gorbachev phản đối đề nghị của đoàn đại biểu đến Foros thuyết phục ông chuyển giao quyền lực. Ngay lập tức, trước nửa đêm, Phó Tổng thống Gennady Yanaev đồng ý ủng hộ việc chuyển giao quyền lực này và ký sắc lệnh tiếp nhận quyền tổng thống.

19/8: Ủy ban tuyên bố tình trạng khẩn cấp thông báo được phép tiếp nhận quyền lực và yêu cầu toàn bộ các cơ quan phải tuân theo mệnh lệnh của ủy ban này. Người ta thông báo Gorbachev không có khả năng thực hiện chức trách vì lý do sức khỏe. Một tình trạng khẩn cấp được ban bố trong vòng sáu tháng. Yeltsin dán mác cho việc chuyển giao quyền lực này là một cuộc đảo chính và chế nhạo ngay tại Nhà Trắng.

20/8: Estonia tuyên bố độc lập.

21/8: Cuộc đảo chính thất bại, Gorbachev trở lại Moskva. Đảng Cộng sản Liên Xô tố cáo cuộc đảo chính này. Yeltsin được Xô viết Tối cao Liên bang Nga giao thêm quyền lực và nắm quyền kiểm soát các lực lượng vũ trang trên đất Nga. Ông lệnh cho Đảng Cộng sản Liên Xô đình chỉ các hoạt động của mình trên lãnh thổ Liên bang Nga. Latvia tuyên bố độc lập.

24/8: Gorbachev đình chỉ các hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô và từ chức Tổng Bí thư. Ukraine tuyên bố tiến hành trưng cầu dân ý về quyền độc lập vào ngày 1/12/1991.

25/8: Xô viết Tối cao Belarus tuyên bố độc lập về chính trị và kinh tế.

27/8: Moldova tuyên bố độc lập.

30/8: Azerbaijan tuyên bố độc lập.

31/8: Kirgizia và Uzbekistan tuyên bố độc lập.

2-6/9: Đại hội Đại biểu Nhân dân Liên Xô bất thường lần thứ 5 kêu gọi một hiệp ước mới cho Cộng đồng các quốc gia có chủ quyền, đưa ra tuyên bố về nhân quyền và quyền tự do; luật giải thể Đại hội Đại biểu Nhân dân được trình bày.

6/9: Gruzia tuyên bố cắt đứt mọi quan hệ với Liên bang Xô viết. Hội đồng Nhà nước Liên bang Xô viết chính thức công nhận nền độc lập của Estonia, Latvia và Lithuania, đồng thời ủng hộ việc họ trở thành thành viên chính thức của Liên Hợp Quốc và CSCE.

9/9: Tajikitstan tuyên bố độc lập.

21/9: Armenia tuyên bố độc lập.

Tháng Chín: Xô viết tỉnh Nagorno-Karabakh và Xô viết tỉnh Shaumyan (Armenia) thành lập nước cộng hòa Nagorno-Karabakh. Quốc hội Azerbaijan hủy bỏ chế độ tự quản ở Nagorno-Karabakh vào tháng11/1991. Ngày 6/1/1992, Quốc hội Cộng hòa Nagorno-Karabakh tuyên bố độc lập. Phản ứng ngay, tổng thống Mutalibov của Azerbaijan đặt Nagorno-Karabakh dưới quyền kiểm soát trực tiếp của mình. Tháng 3/1993 quân đội Nagorna-Karabakh tấn công Azerbaijan; 30/4/1993, Hội đồng An ninh của Liên Hợp Quốc kêu gọi ngừng bắn và rút quân của Armenia ra khỏi Azerbaijan; ngày 29/6, Hội đồng Liên Hợp Quốc kêu gọi rút ngay lập tức quân đội của Nagorno-Karabakh ra khỏi Agdam (người Azeri sinh sống ở khu vực Nagorno-Karabakh); ngày 25/5/1944, thỏa thuận ngừng bắn được ký giữa Armenia, Azerbaijan và Nagorno-Karabakh.

11/10: Hội đồng Nhà nước Liên Xô quyết định xóa bỏ cơ quan KGB và đổi tên.

19/10: Hiệp ước về cộng đồng kinh tế các quốc gia có chủ quyền được ký giữa tổng thống Gorbachev và đại diện tám nước cộng hòa; Azerbaijan, Gruzia, Moldova và Ukraine từ chối không tham gia.

28/10: Đại hội Đại biểu Nhân dân Nga bầu Ruslan Khabuslatov làm Chủ tịch và Chủ tịch Xô viết Tối cao Nga. Yeltsin được trao quyền tiến hành các cải cách kinh tế theo sắc lệnh trong vòng một năm.

4/11: Cuộc họp giữa các nhà lãnh đạo các nước cộng hòa thuộc Hội đồng Nhà nước Liên bang Xô viết nhất trí bãi bỏ các bộ của Liên Xô, trừ bộ quốc phòng, ngoại giao, đường sắt, năng lượng và năng lượng hạt nhân. Yeltsin thông báo Nga không có ý định thành lập lực lượng vũ trang riêng.

6/11: Tổng thống Yeltsin cấm các hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Nga trên lãnh thổ Liên bang Nga. Tổng thống Yeltsin trở thành Thủ tướng Nga đầu tiên và bổ nhiệm Gennady Burbulis, Egor Gaidar và Aleksandr Shokhin làm Phó Thủ tướng.

14/11: Yeltsin và các nhà lãnh đạo các nước cộng hòa khác trong Hội đồng Nhà nước nhất trí nước kế tục Liên Xô sẽ là một Liên bang.

15/11: Yeltsin ký 10 sắc lệnh kiểm soát hầu hết hoạt động tài chính và kinh tế ở Liên bang Nga.

22/11: Xô viết Tối cao Nga tiếp quản Ngân hàng Nhà nước Liên Xô.

25/11: Yeltsin và Shushkevich (Belarus) từ chối tham gia hiệp ước Liên bang và cho rằng cần phải đàm phán thêm.

1/12: Trong một cuộc trưng cầu dân ý, cử tri Ukraine khẳng định lại nền độc lập của mình.

5/12: Đại hội Đại biểu Nhân dân Ukraine chính thức tuyên bố tách Ukraine khỏi hiệp ước thành lập Liên bang Xô viết năm 1922.

8/12: Tại khu rừng Belovezh, gần Minsk, Tổng thống và Thủ tướng Nga, Ukraine và Belarus tuyên bố giải thể Liên bang Xô viết và thành lập Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (CIS). Gorbachev miêu tả động thái này như một hành động “nguy hiểm và bất hợp pháp”.

10/12: Belarus và Ukraine phê chuẩn Hiệp định CIS.

11/12: Xô viết Tối cao Nga phê chuẩn Hiệp định CIS.

12/12: Cuộc họp các nhà lãnh đạo Trung Á ở Ashkhabad đề nghị quy chế thành viên của CIS là các nước thành lập ra nhóm này.

17/12: Yeltsin và Gorbachev nhất trí Liên bang Xô viết không còn tồn tại nữa tính đến ngày 1/1/1992.

21-22/12: 11 nước cộng hòa thuộc Liên bang Xô viết cũ gặp nhau tại Almaty và mở rộng CIS, (Estonia, Latvia, Lithuania và Gruzia không tham gia).

25/12: Tổng thống Liên Xô từ chức và trên Điện Kremlin, quốc kỳ Nga được thay cho quốc kỳ của Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết.

31/12: Vào lúc nửa đêm, Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết chính thức không còn tồn tại trong luật pháp quốc tế.

TIỂU SỬ TÓM TẮT

Abalkin, Leonid Ivanovich (sinh năm 1930), Giám đốc Viện Kinh tế Quốc gia, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô từ năm 1986; là viện sĩ (viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô) từ năm 1987. Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô giai đoạn 1989-199; cộng tác với Ryzhkov về cải cách kinh tế.

Afansev, Viktor Grigorevich (1922-1994), nhà báo; Tổng Biên tập tờ Pravda từ 1976-1989; Chủ tịch Hội Nhà báo Liên Xô từ 1976-1990. Ông bị chuyển khỏi tờ Pravda vì thiếu nhiệt tình với cải tổ và chủ trương công khai.

Afansev, Yury Nikolaevich (sinh năm 1934), Viện trưởng Viện Lưu trữ Quốc gia Moskva năm 1986; đảng viên cộng sản cấp tiến, bất đồng ý kiến với Gorbachev, đồng sáng lập DemRossiya.

Aganbegyan, Abel Gezevich (sinh năm 1932), một nhà kinh tế có ảnh hưởng trong suốt thời kỳ đầu của cải tổ nhưng sau mờ nhạt. Ông là Bí thư Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô từ 1987 1991 là Viện trưởng Kinh tế Quốc gia.

Akaev, Askar Akaevich (sinh năm 1944), nhà khoa học hạt nhân; Phó chủ tịch từ 1987-1989, sau đó là Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Kirgizia từ 1989-1990; Tổng thống Kirgizia từ năm 1991; một trong số ít nhà lãnh đạo lên án cuộc đảo chính ngay từ đầu

Akhromeev, Sergei Fedorovich (1923-1991), Nguyên soái, Phó Tổng Tư lệnh đầu tiên từ 1979-1984; Tổng Tư lệnh của lực lượng vũ trang Xô viết và Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng, từ 1984-1988; cố vấn quân sự cho Gorbachev, 1989 1991; tự vẫn năm 1991.

Aliev, Geidar (Haydar) Ali Rza Ogly (sinh năm 1923), Bí thứ thứ nhất Đảng Cộng sản Azerbaijan từ 1969-1982; Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô từ 1982-1987; ủy viên Bộ Chính trị từ 1982-1987; Tổng thống Azerbaijan từ năm 1993.

Andreeva, Nina Aleksandrovna (sinh năm 1938), tác giả của bức thư nổi tiếng tháng 3/1988 chỉ trích gay gắt cải tổ, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Đảng Cộng sản của những người Bolshevik Liên Xô, thành lập tháng 11/1991 ở St Petersburg.

Andropov, Yury Vladimirovich (1914-1984), Giám đốc KGB từ 1967-1982; Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ 1982-1984. Chủ tịch Đoàn Xô viết Tối cao Liên Xô (đứng đầu Nhà nước) từ 1983-1984; ủy viên Bộ Chính trị từ 1973-1984.

Arbatov, Georgy Arkadevich (sinh năm 1923), Giám đốc Viện Nghiên cứu Mỹ và Canada từ năm 1967; viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, cố vấn cho Gorbachev về quan hệ với Mỹ.

Bakatin, Vadim Viktorovich (sinh năm 1937), Bí thư thứ nhất Thành ủy Kirov từ 1985-1987; Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Kemerovo từ 1987-1988; Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên Xô, 1988-1990; thành viên Hội đồng Tổng thống Liên Xô từ tháng 3/1990; Giám đốc cơ quan KGB Liên Xô từ 1991; Chủ tịch Cơ quan An ninh liên các nước cộng hòa từ 1991-1992.

Baklanov, Oleg Dmitrievich (sinh năm 1932), Bộ trưởng Ngành Chế tạo Máy Liên Xô từ 1983-1988; Bí thư Ban Chấp hành Trung ương (phụ trách tổ hợp công nghiệp-quốc phòng, công nghiệp hóa chất) từ 1988-1991; một trong những kẻ chủ mưu tiến hành đảo chính tháng 8/1991.

Bessmertnykh, Aleksandr Aleksandrovich (sinh năm 1933),Vụ trưởng Vụ Mỹ, Bộ Ngoại giao Liên Xô, 1983 – 1986: Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô từ 1986-1988; Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Liên Xô, 1988-1990; Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô từ 1990-1991; bị cách chức vì không ủng hộ Gorbachev vào tháng 8/1991.

Bogomolov, Oleg Timofeevich (sinh năm 1927), Giám đốc Viện Nghiên cứu Các nền kinh tế thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô từ 1969; người nhấn mạnh mối liên quan của cải cách ở Trung Quốc đối với cải cách ở Liên Xô; Giám đốc Viện Nghiên cứu Chính trị và Kinh tế Quốc tế, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô từ 1990; viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô và sau đó là Viện Hàn lâm Khoa học Nga.

Boldin, Valery Ivanovich (sinh năm 1935), cố vấn cho Gorbachev về nông nghiệp từ 1985-1987; Trưởng ban Ban Tổng hợp thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1987-1990; phụ trách nhóm cố vấn của Gorbachev từ 1990-1991; thành viên Hội đồng Tổng thống từ tháng 3/1990; một trong những người chủ mưu đảo chính tháng 8/1991.

Brazauskas, Algirdas Mikolas (sinh năm 1932), Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Lithuania từ 1977-1988; Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Lithuania từ 1988-1990, Chủ tịch Xô viết Tối cao Lithuania (đứng đầu Nhà nước), Chủ tịch Đảng Lao động Dân chủ Lithuania từ 1990; Tổng thống Lithuania từ 1992. Ông và đa số đảng viên trong Đảng từ bỏ quan hệ với Moskva năm 1990 và ủng hộ nền độc lập Lithuania.

Brezhnev Leonid Ilich (1906-1982), Bí thứ thứ nhất, sau đó là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ 1964-1982; Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô (đứng đầu Nhà nước) từ 1960-1964 và 1977-1982; ủy viên Bộ Chính trị từ 1957-1982

Bulganin, Nikolai Aleksandrovich (1895-1975), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô từ 1955-1958; Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Quốc gia; ủng hộ nhóm chống đối Đảng từ tháng 6/1957; mất chức Thủ tướng năm 1958.

Burokiavicius, Mikolas (sinh năm 1927), Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Lithuania từ 1990 1993.

Chazov, Evegeny Ivanovich (sinh năm 1929), bác sĩ riêng của Tổng Bí thư từ 1967-1987; bác sĩ chuyên khoa tim hàng đầu ở Liên Xô, nhận giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1985; Bộ trưởng Bộ Y tế từ 1987-1990.

Chebrikov, Viktor Mikhailovich (sinh năm 1923), Giám đốc KGB từ 1982-1988; Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1988-1989; ủy viên Bộ Chính trị từ 1985-1989.

Chernenko, Konstantin Ustinovich (1911-1985), Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô (đứng đầu Nhà nước) từ 1984-1985, ủy viên Bộ Chính trị từ 1978-1985.

Chernomyrdin, Viktor Stepanovich (sinh năm 1938), Bộ trưởng Công nghiệp Khí đốt từ 1985-1989; Thủ tướng Nga tháng 12/1992.

Chernyaev, Anatoly Sergeevich (sinh năm 1921), cố vấn cho Gorbachev về đối ngoại từ 1986-1991; sau đó chuyển sang Quỹ Gorbachev.

Đặng Tiểu Bình (1904-1997), mất hoàn toàn các chức vụ trong cuộc Cách mạng Văn hóa (1966-1976), được phục chức năm 1973; từ chức Phó Thủ tướng năm 1980; người kiến tạo nên cải cách thị trường, chịu trách nhiệm trong vụ trấn áp tại Quảng trường Thiên An Môn; lãnh tụ tối cao của Trung Quốc.

Dementevi, Nikolai Ivanovich (sinh năm 1931), Chủ tịch Xô viết Tối cao Belarus (đứng đầu nhà nước) từ 1989 – 1991. Stanislav Shushkevich thay chức ông sau cuộc đảo chính tháng 8/1991.

Dobrynin, Anatoly Fedorovich (sinh năm 1919), đại sứ Liên Xô ở Washington từ 1962-1986; Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1986-1988; Trưởng ban Ban Quốc tế; bị coi là một sự giáng cấp vì Shevardnadze muốn cắt quan hệ trực tiếp của ông này với Bộ Ngoại giao; người ta đề nghị ông rút lui khỏi Ban Chấp hành tháng 10/1988, thực hiện trọn vẹn sự giáng chức của Shevardnadze đối với sự nghiệp của ông.

Efremov, Leonid Nikolaevich (sinh năm 1912), Bí thư thứ nhất Khu ủy Stavropol từ 1964-1970; Phó Chủ tịch thứ nhất Ủy ban Nhà nước Liên Xô về khoa học kỹ thuật từ 1970-1988.

Falin, Valentin Mikhailovic h (sinh năm 1926), đại sứ Liên Xô tại Cộng hòa Liên bang Đức từ 1971-1978; Chủ tịch Thông tấn xã APN từ 1986-1988; Trưởng ban Ban Quốc tế, Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1988-1991; một trong những chuyên gia hàng đầu về Đức.

Fedorchuk, Vitaly Vasilevich (sinh năm 1918), Giám đốc KGB Ukraine từ 1970-1982, Giám đốc KGB Liên Xô, 1982; Bộ trưởng Bộ Nội vụ từ 1982-1986.

Frolov, Ivan Timofeevich (sinh năm 1929), Tổng Biên tập tạp chí Filosofii Voprosy từ 1968-1977, tạp chí Kommunist từ 1986-1987, Pravda từ 1989-1991; ủy viên Bộ Chính trị; cố vấn cho Gorbachev.

Gaidar, Egor Timurovich (sinh năm 1956), Giám đốc Viện Chính sách Kinh tế, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô từ 1990-1991; thành viên nhóm Shatalin-Yavlinsky dự thảo chương trình 500 ngày; Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Nga từ 1991 1992; Bộ trưởng Kinh tế và Tài chính Nga, tháng 2-4/1992; Phó Thủ tướng thứ nhất từ tháng 3 6/1992; quyền Thủ tướng từ tháng 6 12/1992; Giám đốc Viện Các vấn đề kinh tế của thời kỳ quá độ tháng 12/1992; cố vấn cho Yeltsin.

Gidaspov, Boris Veniaminovich (sinh năm 1933), Bí thứ thứ nhất Thành ủy Leningrad từ 1989-1990; Bí thư Ban Chấp hành Trung ương từ 1990 1991.

Gorbunovs, Anatoli s (sinh năm 1942), Bí thư Ban Tư tưởng Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Latvia từ 1985-1988; Chủ tịch Xô viết Tối cao Latvia từ 1988-1990; chủ tịch Hội đồng Tối cao Cộng hòa Latvia năm 1990; Tổng thống Latvia sau khi tuyên bố độc lập năm 1991.

Grachev, Pavel Sergeevich (sinh năm 1948), Tướng, anh hùng trong cuộc chiến ở Afghanistan, ủng hộ Yeltsin trong cuộc đảo chính tháng 8/1991; ông cam kết ra lệnh giới quân sự không được dùng vũ lực; sau đó được Gorbachev bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban phụ trách Quốc phòng và An ninh Nga; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Nga từ tháng 5/1992-6/1996.

Grishin, Viktor Vasilevich (sinh năm 1914), Bí thứ thứ nhất Thành ủy Moskva từ 1967-1985; ủy viên Bộ Chính trị từ 1971-1986; nổi tiếng là “Bố già” Moskva vì tham nhũng.

Gromyko, Andrei Andreevich (1909-1989), Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô từ 1957-1985; Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô, (đứng đầu Nhà nước) từ 1985-1988; ủy viên Bộ Chính trị, 1973 – 1988.

Honecker, Erich (1912-1994), kế nhiệm Walter Ulbricht làm Bí thư thứ nhất Đảng Xã hội Chủ nghĩa thống nhất Đức − Đảng của Đông Đức năm 1971; Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức (đứng đầu nhà nước) từ 1976-1989; Gorbachev phá hoại ngầm địa vị của ông ở Đông Berlin tháng 10/1989; Egon Krenz tiếp nhận chức vụ này.

Ivashko, Vladimir Antonovich (1932-1994), Bí thư thứ hai từ 1989-1999; Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Ukraine từ 1989-1990; Chủ tịch Xô viết Tối cao Ukraine (đứng đầu nhà nước) năm 1990; Phó Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ 1990 1991.

Jaruzelski, Wojciech (sinh năm 1923), Bí thư thứ nhất Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan từ 1981-1989; đứng đầu Nhà nước từ 1985-1989; Tổng thống Ba Lan từ 1989-1990.

Kádár, János (1912-1989), Tổng Bí thư đầu tiên Đảng Công nhân Xã hội Hungary từ 1956-1988; Karoly Grosz kế nhiệm.

Karimov, Islam Abduganevich (sinh năm 1938), Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Uzbekistan từ 1989-1991; ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô từ 1990-1991; Tổng thống Uzbekistan năm 1990.

Khasbulatov, Ruslan Imranovich (sinh năm 1942), Phó Chủ tịch thứ nhất Xô viết Tối cao Nga từ 1990-1991; Chủ tịch Xô viết Tối cao Nga từ 1991-1993.

Khrushchev, Nikita Sergeevich (1894-1971), Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1953-1964; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô từ 1958-1964; ủy viên Bộ Chính trị từ 1939-1964.

Kirilenko, Andrei Pavlovich (1906-1990), Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1966-1982; ủy viên Bộ Chính trị từ 1962-1982.

Kolbin, Gennady Vasilevich (sinh năm 1927), Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Kazakhstan, Chủ tịch Ủy ban Kiểm tra nhân dân từ 1986-1989.

Kosygin, Aleksei Nikolaevich (1904-1980), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô từ 1948-1952 và 1964-1980; ủy viên Bộ Chính trị từ 1960-1980.

Kravchuk, Leonid Makarovich (sinh năm 1934), Bí thư thứ hai Đảng Cộng sản Ukraine từ 1989-1990; Chủ tịch Xô viết Tối cao Ukraine (đứng đầu nhà nước) từ 1990-1991; Tổng thống Ukraine năm 1991.

Kryuchkov, Vladimir Aleksandrovich (sinh năm 1924), trưởng ban tình báo ngoại tuyến thuộc cơ quan KGB Liên Xô từ 1974-1988, Giám đốc KGB từ 1988-1991; ủy viên Bộ Chính trị từ 1989-1990; lãnh đạo âm mưu đảo chính tháng 8/1991.

Kulakov, Fedor Davydovich (1918-1978), Bí thư thứ nhất, Khu ủy Stavropol từ 1960-1964; Bí thư (phụ trách nông nghiệp) Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1965-1978; ủy viên Bộ Chính trị từ 1971-1978.

Kunaev, Dinmukhamed Akhmedovich (1912-1993), Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Kazakhstan từ 1960-1962 và 1964 -1986; ủy viên Bộ Chính trị từ 1971 1987.

Kuptsov, Valentin Aleksandrovich (sinh năm 1937), Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Vologda từ 1985-1990; đứng đầu một ban và là Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1990-1991; Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Nga năm 1991.

Landsbergis, Vytautas (sinh năm 1932), Chủ tịch Sajudis, phong trào giành độc lập cho Lithuania từ 1988-1993; chủ tịch Hội đồng Tối cao (đứng đầu nhà nước) từ 1990-1992; Sajudis bị thất bại trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên sau khi giành độc lập vào tháng 9/1992; Algirdas Brazauskas trở thành Tổng thống vào tháng 2/1993.

Lenin, Vladimir Ilich (1870-1924), lãnh tụ Đảng Cộng sản Liên Xô Bolshevik năm 1917; Chủ tịch Nhà nước từ 1917-1924.

Ligachev, Egor Kuzmich (sinh năm 1920), Bí thứ thứ nhất Thành ủy Tomsk từ 1965-1983; Bí thư (phụ trách nhân sự, tư tưởng, nông nghiệp) Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1983-1990; Bí thư thứ hai cho Gorbachev từ 1985-1988; ủy viên Bộ Chính trị từ 1985-1990.

Lukyanov, Anatoly Ivanovich (sinh năm 1930), Trưởng ban Ban Tổng hợp Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1985-1987; Bí thư Ban Chấp hành Trung ương từ 1987-1988; Phó chủ tịch thứ nhất Xô viết Tối cao Liên Xô từ 1988-1990; Chủ tịch Xô viết Tối cao từ 1990-1991; một trong những kẻ âm mưu đảo chính tháng 8/1991.

Maslyukov, Yury Dmitrievich (sinh năm 1937), Phó chủ tịch từ 1985-1988; Phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Liên Xô từ 1988-1991; ủy viên Bộ Chính trị từ 1989-1991.

Medvedev, Vadim Andreevich (sinh năm 1929), Giám đốc và phụ trách Đảng của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội từ 1978-1983; lãnh đạo ban khoa học và giáo dục từ 1983-1986; lãnh đạo ban liên lạc giữa các đảng cộng sản và công nhân của các nước xã hội chủ nghĩa, thuộc Ban Chấp hành Trung ương từ 1986-1988; Bí thư Ban Chấp hành Trung ương từ 1986-1988, ủy viên Bộ Chính trị từ 1988-1990; ông mất toàn bộ chức vụ tại Đại hội Đảng lần thứ 28 vào tháng 7/1990; ủy viên Hội đồng Tổng thống, tháng 7/1990; cố vấn Gorbachev và chuyển sang Tổ chức quỹ Gorbachev.

Mlynar, Zdenek (1930-1997), Bí thư và ủy viên của Đoàn chủ tịch Đảng Cộng sản Tiệp Khắc năm 1968; ký Hiến chương 77; di cư sang Italia năm 1977; cùng học với Gorbachev và vẫn giữ liên lạc với ông.

Moiseev, Mikhail Alekseevich (sinh năm 1939), Tham mưu trưởng Lực lượng Vũ trang Xô viết, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng Liên Xô từ 1988-1991; quyền Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô tháng 8/1991.

Molotov, Vyacheslav Mikhailovich (1890-1986), Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô từ 1953-1957; ủy viên Bộ Chính trị từ 1926-1957; thành viên thuộc nhóm chống đối bị Khruschev đánh bại vào tháng 6/1957.

Murakhovsky, Vsevolod Serafimovich (sinh năm 1926), Bí thư thứ nhất Thành ủy Stavropol từ 1970-1974; Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Karachai-Cherkess từ1975-1978; Bí thư thứ nhất khu ủy Stavropol.1978 - 85; phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Xô viết và ủy ban Công-Nông nghiệp Nhà nước từ 1985 1989.

Mutalibov, Ayas Niyazevich (sinh năm 1938), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Azerbaijan từ 1989-1990; Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Azerbaijan từ 1990-1991; và là ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô; Tổng thống Azerbaijan từ 1991-1992.

Nazarbaev, Nursultan Abishevich (sinh năm 1938), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Kazakhstan từ 1984-1989; Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Kazakhstan từ 1990-1991; và là ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô từ 1990-1991; Tổng thống Kazakhstan năm 1990.

Nenashev, Mikhail Fedorovich (sinh năm 1929), tổng biên tập tờ Sovetskaya Rossiya từ 1978-1986; Chủ tịch ủy ban Nhà nước Liên Xô về xuất bản và kinh doanh sách báo từ 1986-1989; Chủ tịch ủy ban Nhà nước Liên Xô về phát thanh và truyền hình từ 1989-1991; Bộ trưởng Bộ Báo chí và Thông tin Liên Xô từ 1990 1991.

Nikonov, Viktor Petrovich (sinh năm 1929), Bộ trưởng Nông nghiệp Nga từ 1983-1985; Bí thư (phụ trách nông nghiệp) Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1985-1989; ủy viên Bộ Chính trị từ 1987-1989.

Nishanov, Rafik Nishanovic h (sinh năm 1926), Chủ tịch (đứng đầu nhà nước) Xô viết Tối cao Uzbekistan từ 1986-1988; Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Uzbekistan từ 1988-1989; Chủ tịch Xô viết các dân tộc, Xô viết Tối cao Liên Xô từ 1989- 1991.

Niyazov, Saparmurad Ataevich (sinh năm 1940), Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Turkmenistan từ 1985-1991; ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô từ 1990-1991; Tổng thống Turkmenistan năm 1990.

Pankin, Boris Dmitrievich (sinh năm 1931), Chủ tịch Cơ quan Bản quyền toàn Liên bang từ 1973-1982; đại sứ Liên Xô tại Thụy Điển từ 1982-1990; đại sứ tại Tiệp Khắc từ 1990-1991; Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô năm 1991; một trong số ít nhà ngoại giao ủng hộ Gorbachev thời kỳ đảo chính. Người ta đồn ông đã thông báo cho Tổng thống Vaclav Havel về sự chống đối của ông với cuộc đảo chính chớp nhoáng và báo trước nếu cuộc đảo chính thành công, ông sẽ chính thức xin cư trú chính trị tại Tiệp Khắc.

Pavlov, Valentin Sergeevich (sinh năm 1937), Chủ tịch Ủy ban Nhà nước Liên Xô về giá cả từ 1986-1989; Bộ trưởng Bộ Tài chính Liên Xô từ 1989-1991; Thủ tướng Liên Xô năm 1991; một trong những người âm mưu đảo chính tháng 8/1991.

Petrakov, Nikolai Yakovlevich (sinh năm 1937), Phó giám đốc Viện Nghiên cứu Trung ương về kinh tế toán học, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô từ 1971-1990; cố vấn kinh tế cho Gorbachev từ 1990-1991; Giám đốc Viện Nghiên cứu các vấn đề về thị trường, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô năm 1991.

Plekhanov, Yury Sergeevich (sinh năm 1930), đứng đầu KGB đảm bảo vấn đề an ninh cho Tổng thống và các quan chức hàng đầu vào thời điểm diễn ra đảo chính.

Podgorny, Nikolai Viktorovich (1903-1983), Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Ukraine từ 1957-1963; Chủ tịch (đứng đầu nhà nước) Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô từ 1965-1977; ủy viên Bộ Chính trị từ 1960-1977.

Polozkov, Ivan Kuzmich (sinh năm 1935), Bí thư thứ nhất Thành ủy Krasnodar từ 1985-1990; Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Nga từ 1990-1991; ủy viên Bộ Chính trị từ 1990-1991.

Popov, Gavriil Kharitonovich (sinh năm 1936), Giáo sư về kinh tế tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva từ 1977-1988; Tổng Biên tập tạp chí Voprosy ekonomiki từ 1988-1990; Thị trưởng Moskva từ 1990-1992; thành viên lãnh đạo cộng đồng Hy Lạp tại Nga.

Primakov, Evgeny Maksimovich (sinh năm 1929), Giám đốc Viện Nghiên cứu Phương Đông, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô từ 1977-1985; Giám đốc Viện Kinh tế Thế giới và Quan hệ Quốc tế từ 1985-1989; Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô từ 1989-1990; Giám đốc Cục Tình báo nước ngoài của Nga năm 1991; phái viên riêng của Gorbachev gặp Saddam Hussein trong Chiến tranh Vùng Vịnh; Bộ trưởng Ngoại giao Nga năm 1996.

Prokofev, Yury Anatolevich (sinh năm 1939), Bí thư thứ nhất Thành ủy Moskva từ 1989-1991; ủy viên Bộ Chính trị từ 1990 1991.

Prunskiene, Kazimiera (sinh năm 1943), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lithuania từ 1990-1991.

Pugo, Boris Karlovich (1937-1991), Giám đốc KGB Latvia từ 1980-1984; Chủ tịch ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô từ 1990-1991; Bộ trưởng Bộ Nội vụ Xô viết từ 1990-1991; và là một trong những kẻ đồng mưu đảo chính tháng 8/1991 và đã tự tử sau đó.

Rakowski, Mieczyslaw (sinh năm 1926), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ba Lan từ 1988-1989; Bí thư thứ nhất Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan từ 1989 1990.

Razumovsky, Georgy Petrovich (sinh năm 1936), Bí thư thứ nhất Khu ủy Krasnodar từ 1983-1985; Bí thư (nhân sự) Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1986 1991.

Romanov, Grigory Vasilevich (sinh năm 1923), Bí thư thứ nhất Thành ủy Leningrad từ 1970-1983; Bí thư (công nghiệp quốc phòng) Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1983-1985; ủy viên Bộ Chính trị từ 1976-1985.

Rubiks, Alfreds, (sinh năm 1935 ), Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Latvia từ 1990-1991; ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô từ 1990-1991.

Rutskoi, Aleksandr Vladimirovich (sinh năm 1947), Phó Tổng thống Nga từ 1991-1993.

Ryzhkov, Nikolai Ivanovich (sinh năm 1929), Bí thư và lãnh đạo ban công nghiệp thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1982-1985; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô từ 1985-1991; ủy viên Bộ Chính trị từ 1985-1990.

Sakharov, Andrei Dmitrievich (1921-1989), một trong những cha đẻ bom hạt nhân của Liên Xô; viện sĩ Viện Hàn lâm; đại biểu nhân dân năm 1989; giải thưởng Nobel năm 1975; nhà hoạt động về nhân quyền.

Savisaar, Edgar (sinh năm 1950), người thành lập và là Chủ tịch Mặt trận Bình dân Estonia từ 1989-1990; Bí thư thứ nhất Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Estonia; Thủ tướng Estonia từ 1990 1992.

Semenova, Galina Vladimirovna (sinh năm 1937), Tổng Biên tập tờ Nữ nông dân từ 1981-1990; Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1990-1991; ủy viên Bộ Chính trị từ 1990-1991.

Shakhnazarov, Georgy Khozroevich (sinh năm 1924), trợ lý giúp Gorbachev từ 1988-1991; đại biểu Đại hội Nhân dân Liên Xô từ 1989-1991; thành viên của Quỹ Gorbachev.

Shaposhnikov, Evgeny Ivanovich (sinh năm 1942), Nguyên soái, Tư lệnh không quân và Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô từ 1990-1991; B?