← Quay lại trang sách

Chương 5 Pitt và Viện Bình dân

“TÔI MUỐN DIỄN THUYẾT TRƯỚC VIỆN BÌNH DÂN”

Một yếu tố quan trọng tạo khả năng để Pitt trở thành một Thủ tướng đảm trách chức vị lâu đến vậy chính là ưu thế mà ông đã đạt được ở Viện Bình dân. Ông đã sớm nhận thấy ý nghĩa của Viện Bình dân đối với sự nghiệp chính trị của mình. Thầy giáo của ông nhớ lại, năm 1766 (khi Pitt mới lên bảy tuổi), ông đã nói: “Em rất vui vì em không phải là đứa con lớn nhất trong nhà; em muốn diễn thuyết trước Viện Bình dân giống như cha”. Trong chuyến du lịch nước Pháp năm 1783, Pitt nói với một chủ nhà người Pháp: “Một phần trong hiến pháp của chúng tôi sẽ bị loại bỏ đầu tiên chính là đặc quyền của Vua Anh và thẩm quyền của Viện Quý tộc”. Năm 1791, khi thảo luận về hiến pháp mới cho Quebec, Pitt phát biểu trước Viện Bình dân rằng “tầng lớp quý tộc là sợi dây liên kết tất cả các tầng lớp với nhau và là tầng lớp tạo sự ổn định và sức mạnh cho khối liên kết đó”. Tuy vậy, ông cũng thấy được vai trò thụ động của tầng lớp này là phản ánh “vinh quang của Vua Anh”, “hỗ trợ và thực hiện nền dân chủ”. Vua Anh đưa ra quyền lực và chức vị, nhưng Pitt quả quyết chỉ có “nền dân chủ” mới là yếu tố tiếp thêm sinh lực và năng lượng cho cả quyền lực và chức vị. Pitt vẫn tiếp tục ở Viện Bình dân trong suốt thời trai trẻ. Năm 1802, ông khuyên Castereagh, người theo phe ông đang thăng tiến rất nhanh, ở lại Viện Bình dân, nơi mà ông cho là “một chiến trường cho những danh vọng trong tương lai”.

Không một chính trị gia nào có thể lãnh đạo Viện Bình dân mà không có khả năng diễn thuyết, và đây cũng là tài sản lớn nhất của Pitt khi bước chân vào Nghị viện. Horace Walpole, người đã được nghe Chatham diễn thuyết trong thời điểm vinh quang nhất, nhận định: “Pitt không có tài chỉ huy, cũng không có diện mạo và dáng vẻ oai nghiêm như cha, nhưng lời nói của Pitt thì rõ ràng và chính xác hơn, phương pháp và cách thức suy luận của Pitt cũng hơn hẳn cha”. Nhiều lúc, Pitt có thể đạt đến đỉnh cao về tài hùng biện. Trên đường về nhà sau bài diễn thuyết chống buôn bán nô lệ ngày 2/4/1792, Fox, Windham và Grey − các đối thủ của ông − đều phải thừa nhận “bài diễn thuyết mà họ vừa nghe là một trong những bài thể hiện tài hùng biện kiệt xuất nhất”. Đặc biệt, Pitt hơn hẳn cha mình về khả năng giải thích các vấn đề tài chính trước Viện Bình dân và khả năng tham gia tranh luận hiếm có.

Một trong những nhiệm vụ chính của Thủ tướng và Bộ trưởng Tài chính là đưa ra những vấn đề tài chính của chính phủ để thông qua trước Nghị viện cũng như khả năng giải thích minh bạch các vấn đề tài chính − công cụ chủ yếu để thuyết phục Nghị viện và tạo niềm tin trong dân chúng đối với Bộ. North là người có khả năng đặc biệt giải trình các vấn đề tài chính rất thành thạo, rõ ràng và minh bạch, nhưng Wraxall − người đã được nghe cả Pitt và North giải trình ngân quỹ, khẳng định: “North không thể sánh được với Pitt sau này”. Năm 1784, khả năng giải trình ngân sách của Pitt “phong phú, chính xác và tài giỏi đến nỗi khiến nhiều người phải ngưỡng mộ”. Trong phiên họp tiếp sau đó, quý bà Gower đã không ngớt lời ca ngợi: “Ngài Pitt đã chiếm được trọn niềm tin của mọi người chỉ bằng hai hoặc ba bài diễn thuyết gần đây… thể hiện một vốn kiến thức quá hoàn hảo về thương mại, tài chính và chính phủ đến nỗi người ta có cảm giác đang được nghe một người có vốn kinh nghiệm 50 năm về những vấn đề này”.

Những bài diễn thuyết của Pitt rất có sức nặng. Ông không hề viết ra trước. Thay vào đó, Pitt tận dụng khả năng thẩm thấu và lưu giữ thông tin của mình. Ông chỉ ghi chép một số tiêu đề của các vấn đề diễn thuyết. Năm 1786, trong ngày giới thiệu những đề nghị về Quỹ chìm, Pitt đã xem xét kỹ lưỡng các chi tiết tài chính vào buổi sáng, sau đó hình thành kế hoạch diễn thuyết trong đầu khi đi dạo 15 phút ở công viên trước bữa tối khi chuẩn bị đến Viện Bình dân. Khả năng trình bày bao quát những vấn đề tài chính của ông đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người nghe, tạo ấn tượng tốt đẹp về một người có vốn kiến thức sâu rộng. Trong khoảng thời gian rất ngắn, ở Viện Bình dân, Pitt đã trở thành một bậc thầy về các vấn đề tài chính mà không ai có thể sánh kịp.

Năm 1796, một nghị sĩ theo phe Fox, John Nicholls, phải thừa nhận Pitt là “người có tài tranh luận kiệt xuất hơn hẳn những thành viên trong Nghị viện hiện nay”. Sự kiệt xuất đó không tự nhiên mà có. Pitt đã vào Viện Bình dân với đức tính siêng năng. Phong cách của ông trái ngược hẳn với North, người tiền nhiệm biếng trễ và dễ dãi, thường ngủ hoặc giả vờ ngủ trong các buổi thảo luận. Pretyman ghi nhận: “Pitt thường rất chú ý tới tiến trình của buổi thảo luận, nghe chăm chú từng người nói, nhớ kỹ lời dặn dò của người cha nổi tiếng rằng có thể học được một điều gì đó ngay từ câu nói của một người ngờ nghệch nhất chưa bao giờ phát biểu trước Viện Bình dân”. Ông ghi chép tóm tắt để tranh luận lại, và bộ nhớ phi thường của ông bắt đầu hoạt động. Nicholls thừa nhận:

Công tước Bedford, một đối thủ của Pitt, giải thích với quý bà Bessborough:

Tất cả mọi người đều công nhận những bài diễn thuyết của Pitt “có sức nặng (có nghĩa là đưa ra tranh luận mạnh mẽ trong suốt bài diễn thuyết, không hề có sai sót gì)” và trôi chảy đến ngạc nhiên: “không có từ nào ông nói ấp úng”; “trong cách diễn đạt, Pitt không bao giờ phải quay ngược lại để đính chính, ông nói không bao giờ ngưng nghỉ”; “mỗi câu Pitt thốt ra chuyên nghiệp và chính xác đến nỗi cứ như là nó đã được hình thành trong đầu ông trước khi nói ra, khác hẳn với Fox vẫn thường ngừng giữa câu và tìm cách diễn đạt tiếp theo”. Fox cũng tự thừa nhận “mặc dù ông không bao giờ phải tìm từ để nói, nhưng Pitt cũng không bao giờ nói mà không có những từ hay nhất có thể”. Pitt cho rằng ông có được cách diễn đạt trôi chảy là nhờ cha huấn luyện từ khi còn rất nhỏ: “Vào buổi sáng, Pitt có thói quen đọc những tác giả mà ông yêu thích, Virgil hoặc Livy, cho thầy Wilson nghe. Tối đến, sau khi dùng trà, với cuốn sách trước mặt, ông kể lại trôi chảy đoạn đó cho cha và những người khác trong gia đình nghe”. Chatham thường chỉ dẫn cho con dừng lại “khi Pitt không chắc chắn dùng đúng từ được sử dụng trong tiếng Anh, cho đến khi từ chuẩn được hình thành trong đầu mới bắt đầu kể tiếp”, và bằng cách này, trong một khoảng thời gian, những từ chuẩn sẽ đến với Pitt hết sức tự nhiên. Khả năng diễn thuyết rõ ràng, nổi bật và gây ấn tượng trước công chúng cùng giọng nói “sâu lắng và âm vang” mà Pitt có được là nhờ những buổi huấn luyện hằng ngày của cha, như việc đọc thuộc lòng những đoạn thơ hay nhất bằng tiếng Anh của Shakespeare và Milton.

Pitt “không hề có đối thủ trong việc chuẩn bị và nghệ thuật diễn thuyết trước công chúng”, nhưng trong ông cũng có hơi hướng của một tay súng trên đường phố khiến các đối thủ mất bình tĩnh, và đôi khi cả những người ủng hộ ông cũng phải bối rối khi thấy ông công kích đối thủ yếu thế hơn. Theo Horner: “Mọi người đều cho rằng những lời châm chọc lạnh lùng, chua cay đó là tài năng thiên bẩm của ông”, nhưng Windham đã phản đối: “Pitt không chọn con đường cao quý phù hợp với cương vị Thủ tướng của ông, bởi ông đã vượt quá xa tất cả mọi người; những lời châm chọc sắc sảo, gay gắt và chua cay thật không xứng với ông. Một Bộ trưởng đáng ra phải luôn có xu hướng hòa giải; sự công kích, thăm dò và thóa mạ là của những kẻ tấn công”. Tuy nhiên, đó không phải là cách Pitt tiến hành cuộc chơi, ông cũng không bao giờ rút lại những lời nói xúc phạm một khi nó đã được nói ra. Những lời bình luận chua cay đó cũng đã gây ra cuộc đấu súng tay đôi với Grey và Tierney (cuộc đấu súng với Tierney được thực hiện năm 1798 nhưng không thành). Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi tại sao nhiều nghị sĩ lại kinh sợ ông đến vậy.

NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT QUẢN LÝ NGHỊ VIỆN

Hầu hết các nghị sĩ đều sợ Pitt hơn là yêu mến ông. Là một người từng lãnh đạo cả chính phủ lẫn Viện Bình dân gần 19 năm và nắm giữ chức vụ này lâu thứ hai trong lịch sử nước Anh, Pitt có một phong cách quản lý rất đặc biệt, “có một không hai” đối với một Thủ tướng rất thành công ở thế kỷ XVIII, trong đó, ông không hề coi trọng những thành viên của Nghị viện không giữ trọng trách trong chính phủ hay các nhà bảo trợ của thành phố như những người tiền nhiệm vẫn làm. Người bạn Camden luôn than phiền về “sự thiếu quan tâm của ông” đối với những người ủng hộ. Wraxall đã mô tả như sau:

Hình ảnh này đã được rất nhiều người thừa nhận, như nghị sĩ Nathaniel Dance thường phàn nàn rằng “Pitt hầu như không chào đáp lại ai”. Năm 1785, nghị sĩ Daniel Pulteney kể lại rằng ông nghe thấy các thành viên phàn nàn “họ sẽ không bao giờ ủng hộ bất kỳ một bộ trưởng nào mà hai tuần trước sự kiện mang tính sống còn của người đó không mời họ một bữa tối, ít nhất là vào thời điểm đó. Xét về góc độ này thì Pitt đáng bị chê trách nhất”. Năm 1788, Pitt gặp rắc rối trong việc bảo vệ lợi ích của Công ty Đông Ấn ở Nghị viện, Bulkeley nghe thấy những lời nói như “chỉ một vài chai vang đỏ và hai hoặc ba bữa tối” thì các vấn đề có thể được giải quyết, nhưng Pitt và những nhà quản lý chính trị của ông, các Bộ trưởng Tài chính Rose và Steele, đã không để ý đến điều đó.

Tuy nhiên, điều khiến mọi người phàn nàn nhiều nhất về Bộ trưởng Pitt lại là việc ông không trả lời thư từ của họ. Điều này có nguy cơ làm tổn hại đến mạng lưới khách hàng mà hệ thống chính trị Anh đang điều khiển. Năm 1791, Công tước Hamilton đã lên án rằng cung cách đối xử như vậy sẽ khiến Pitt “có quan điểm rất kỳ quặc đối với những người ép tôi phải cần đến sự tôn kính của họ, và những người coi tôi như một kênh mà qua đó sự kính trọng sẽ đến”. Trong khi đó, Bulkeley cho rằng hành động không trả lời thư của Pitt là “không hào hiệp và không tử tế”, đồng thời bổ sung: “Pitt cần phải biết liệu sự lơ đãng của cá nhân ông như vậy có thể bảo đảm duy trì được nhiệt huyết và hành động vì lợi ích của ông trước những người có ảnh hưởng lớn ở các tỉnh và thành phố hay không”. Bulkeley cho rằng Pitt còn gặp nguy hiểm hơn vì sự thiếu quan tâm trong suốt cuộc Khủng hoảng chế độ nhiếp chính những năm 1788-1789. Một nghị sĩ thường xuyên than phiền mình không bao giờ nhận được thư trả lời của Pitt từ khi ông lên nắm quyền, khẳng định “cử tri sẽ không tin tưởng vào sự ân cần của các thành viên Nghị viện khi họ không nhận được thư trả lời thật sự hoặc chỉ mang tính hình thức”. Năm 1796, trong “cơn nóng giận”, Richard Cotton, nghị sĩ của tỉnh Cheshire, đã từ bỏ ghế nghị sĩ của mình sau khi ba đơn xin việc cho một người bạn làm thu thuế viên ở Nantwich không được trả lời. Trong khi đó, Camden cũng chỉ trích Pitt đã để Darnley bực tức từ bỏ Đảng vào năm 1804 do ông không trả lời hai bức thư của Darnley.

Những “lơ là cá nhân” này bắt nguồn từ khối lượng công việc mà Pitt đảm nhiệm, từ thái độ của ông đối với Đảng và từ sự dè dặt của một lãnh đạo trẻ trước những người lớn tuổi hơn. Wilberforce cho rằng Pitt “là người hay xấu hổ nhất mà tôi từng gặp”. Để bắt đầu mối quan hệ với Pitt thật không dễ dàng, đặc biệt là đối với những người luôn kinh sợ những thành tựu mà ông đạt được. Cuối năm 1781, Jeremy Bentham gặp Pitt và ghi nhận:

Wilberforce cho rằng tính xấu hổ, thậm chí lúng túng, vụng về của Pitt đã khiến mọi người hiểu sai ông là người kiêu căng, không cởi mở. Ở khía cạnh này, Pitt không được trang bị nhiều như những người tiền nhiệm thành công trước đó. Những người đương thời đều khẳng định ông nhận chức vị Thủ tướng khi còn quá trẻ, chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về thế giới và sau này ông cũng không có thời gian để lĩnh hội được lượng kiến thức này. Ông thiếu phong cách lịch sự của Walpole, nét cẩn thận chất phác của Pelham, không có tính niềm nở dễ dãi của North. Những câu chuyện của Pitt rất hạn chế bởi ông không có khiếu thẩm mỹ âm nhạc, không có con mắt hội họa, cũng không được đọc nhiều tác phẩm văn học và thơ ca hiện đại. Ông có một thói quen ngày càng trầm trọng đó là ông thường không muốn quan tâm đến những vấn đề gây khó chịu. Tất cả những điều này kết hợp lại càng gây khó khăn cho ông trong việc giải quyết các vấn đề về quyền bổ nhiệm, vốn đòi hỏi nguồn chi phí rất lớn và ông rất cần để xoa dịu những cảm xúc cá nhân. Trì hoãn quyết định, tránh trả lời thư là những lựa chọn luôn sẵn sàng của ông. Không gì có thể khiến ông dễ nổi cáu bằng “những sắp xếp chính trị” – Camden đánh giá.

Sự thật rõ ràng hơn được James Burges nhận định trong bài “Những khả năng không phù hợp với cương vị là lãnh đạo một đảng của Pitt”. Sau này, Leed cũng đã so sánh Pitt và Fox, viết:

Kết quả là, những người thuộc phe đối lập được rèn luyện tốt hơn và tụ tập đông hơn cho những chiến dịch tích cực so với những người ủng hộ Bộ.

Pitt không tin tưởng vào loại hình đảng hiện thời. Ông thường cho mình là “thành viên Đảng Whig độc lập”. Đối với ông, “đảng viên Đảng Whig” luôn gắn chặt với “những nguyên tắc tự do mà cuộc cách mạng năm 1688 lập nên”, chứ không phải là thành viên của một nền chính trị có kỷ luật và theo khuôn khổ nào. Cha ông đã lập nên tự do từ sự liên kết đảng “Old Corps” của những nhân vật quan trọng trong dòng dõi quý tộc, và Pitt cũng thực hiện như vậy. Những đề nghị cải tổ Nghị viện của ông theo hướng là để Viện Bình dân không bị lệ thuộc nhiều vào ảnh hưởng của Vua Anh, nhưng nó cũng khiến Viện Bình dân độc lập hơn với sự chi phối của Đảng nhờ việc tăng các ghế có khu vực bầu cử rộng nhất và giảm bớt ảnh hưởng hoặc số các thành phố “mục nát” đặt dưới sự cai trị của những nhà bảo trợ lớn thuộc tầng lớp quý tộc. Pitt không bao giờ có ý định thành lập đảng của riêng mình. Một phân tích năm 1788 cho thấy, sau bốn năm rưỡi nắm quyền, “số người theo đảng của Pitt là 52, trong số đó có trên 20 người sẽ không được bầu vào Nghị viện trong đợt bầu cử nếu Pitt không là Thủ tướng“. Mãi đến cuộc bầu cử năm 1802 thì điều này mới được kiểm nghiệm. Thời gian này Pitt giành được số người ủng hộ là 57, nhưng con số này còn quá ít để có thể đảm bảo được đa số phiếu ủng hộ của Viện Bình dân nếu không có sự hỗ trợ tiếp theo.

Pitt không muốn mọi người mù quáng tuân theo cá nhân ông. Ông nói với một người trong số họ, George Canning:

Năm 1788, Wilberforce − bạn ông, người thường xuyên phản đối các biện pháp tiến hành cuộc chiến tranh của Pitt những năm 1790 và là người có ảnh hưởng rất lớn đối với thất bại của Pitt trước Melville năm 1805 − ghi nhận:

Một vấn đề chính trị cơ bản mà Pitt luôn đòi hỏi tất cả các thành viên của chính phủ phải trả lời trung thực: “Vấn đề nào đang được tranh cãi, niềm tin vào Bộ hay sự ổn định của Bộ?” Do đó, sau khi giải quyết thành công cuộc Khủng hoảng chế độ nhiếp chính, nhiều người bỏ rơi ông trong những thời điểm cần thiết đã bị khai trừ. John Aubrey và Robert Laurie đã phải rời chức vụ, trong khi đó đại tá Alexander Stewart, người thỉnh cầu thăng chức, đã bị Dundas nói chua cay: “Nếu sự ủng hộ chính trị là nền tảng để đề bạt quân sự, thì những việc như thế đáng ra phải có những đòi hỏi khác chính đáng hơn đòi hỏi của anh”. Khi John Sinclair phản đối chính phủ trong suốt cuộc Khủng hoảng tài chính năm 1797, Pitt đã vận động ông ta rời khỏi chức Bộ trưởng Nông nghiệp do chính phủ bảo trợ vào năm sau.

Tuy nhiên, đối với hầu hết các vấn đề của Nghị viện, Pitt cho phép biểu quyết tự do. Có lẽ đây là cách thiết thực duy nhất mà ông có thể gắn kết liên minh đa thành phần giữa những người ủng hộ Vua Anh và nhiều thành phần chống đối trong Liên minh Fox North. Tuy vậy, do thiếu đường lối thiết lập đảng rõ ràng và được nhất trí, thực thi trước nên những người ủng hộ thường hành động không theo ý định của ông. Việc Pitt xa cách những thành viên bình thường có nguy cơ trở thành một hố sâu ngăn cách sự hiểu biết lẫn nhau giữa họ, dẫn đến việc họ không hài lòng, thoái chí và cuối cùng là bất hòa. Những lá thư của Pulteney, một thành viên của Nghị viện nhưng không giữ trọng trách trong chính phủ, viết cho người bảo trợ của mình là Rutland đã chỉ ra một số lý do Beaufoy kiến nghị bãi bỏ các Dự luật Thử nghiệm năm 1787, khi Pitt đã để cho mọi người biết trước rằng ông muốn dự luật đó bị đánh bại ở Viện Bình dân. Dân chúng biết trước từ tháng 4/1785, nhưng Pulteney vẫn không biết chắc chắn liệu Pitt sẽ “bị gây khó khăn hay mọi người thích thú với hệ thống cải cách Nghị viện của Yorkshire”. Chỉ sau khi dự luật của Pitt bị đánh bại và họ gặp nhau ở công viên, Pulteney mới nhận thấy “Pitt trông thật suy sụp cứ như là ông phải chịu thất bại của một Bộ trưởng”. Năm tuần sau, Pulteney giải thích với người bảo trợ về vấn đề của mình khi biết hướng nào sẽ được chấp nhận đối với các điều khoản thương mại Ireland, rằng “tôi chẳng thấy được gì ngoài khó khăn rất lớn mà Pitt sẽ gặp phải khi lần đầu ông đưa ra bất kỳ một điều khoản nào, những gì ông vẫn thường làm là chờ đợi thái độ của Eden hoặc của Fox về vấn đề đó”.

Tất nhiên, việc Pitt không có khả năng liên kết với những người bình thường này đã làm nản lòng những người ủng hộ trong thời điểm cần đàm phán liên kết với một số bộ phận của phe đối lập. Trong khi đó, năm 1794, Portland đã tham khảo ý kiến những đồng sự thân cận nhất về việc đàm phán tham gia chính phủ, Pitt giải quyết mọi việc theo hướng của mình. Những gì mà ông thực hiện, đặc biệt là những chức vị và bổng lộc mà ông đề xuất nhằm thuyết phục người theo Đảng Whig của Portland, đã khiến những người ủng hộ Pitt phải choáng váng. Canning kể lại rằng “rất nhiều, rất nhiều, đặc biệt là những người bạn của Pitt đều phàn nàn về sự phân bổ quyền lực quá nhiều cho những người mới đến, hoặc họ đều lắc đầu và mong muốn cuối cùng sẽ có sự giải đáp”.

Sự im lặng liên tục của Pitt đối với những người cùng phe trước đây, cùng với việc những người theo Đảng Whig của Portland đòi hỏi phải kiểm soát Ireland và sau đó bắt đầu thanh lọc đội ngũ bộ trưởng ở Dublin, Ireland đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng niềm tin thật sự đầu năm 1795. Tháng 12/1794, Auckland bi quan viết rằng Nội các được hình thành từ nhiều nhân vật bất hòa, phải chịu nhiều khó khăn bên trong và đánh mất niềm tin bên ngoài. “Đó cũng không phải là bộ mang hình thái của Bộ Rockingham, cũng không phải là Bộ của Pitt hay Bộ của những người bạn Vua Anh, nó là tổng hợp của tất cả”. Cuối cùng, khi nghe tin về việc cách chức Fitzwilliam từ Ireland, John Mitford, Toàn quyền của Pitt, cảm thấy buộc phải nhắc nhở Pitt về việc ông thường xuyên nghe thấy “hầu hết mọi người đều bất mãn với cách thức của các bộ trưởng, đặc biệt là đối với anh. Hiện trạng vấn đề làm sai lệch ý nghĩ của những người bạn tốt nhất của anh trong chính phủ”. Ba tuần sau, ông cho rằng “sự bất mãn đó là do sự thiếu quan tâm mà ở đó tôi tin tưởng hầu hết bạn bè đều quan tâm tới tình trạng thực của anh, ý định của anh, và sự không kiên tâm có thể thấy rất rõ ở họ. Cách cư xử gần đây của anh đã biến một số bạn bè nhiệt tình thành những người lạnh nhạt, hoặc trở thành kẻ thù gay gắt”. Cần nhớ lại trường hợp của Fitzwilliam, nhớ đến những biện pháp chống quan điểm cực đoan mạnh mẽ mùa thu năm 1795 và sự đồng loạt từ bỏ nguyên tắc quân chủ Pháp của những người theo Đảng Whig của Portland trong chiến tranh, trước khi khôi phục được niềm tin trong số những người ủng hộ trước đây của Pitt.

Về vấn đề này, Nội các thứ hai của Pitt có khác chút ít so với Nội các thứ nhất. Ngày 28/3/1805, Charles Abbot, phát ngôn viên của Viện Bình dân, ghi nhận rằng vẫn chưa hề có một tuyên bố nào từ phía Pitt về vấn đề ông sẽ tiếp tục báo cáo thứ 10 của Ủy ban Điều tra Hải quân chỉ trích Bộ trưởng Hải quân và là người bạn cũ của ông, Melville (Dundas). Những người còn lại trong Nội các đều không biết đến những gì Pitt dự kiến. Ở Viện Bình dân, “trong số những người ủng hộ chính phủ, rất nhiều người tỏ rõ sự bất bình”. Mối liên hệ đáng ngạc nhiên với phe của Addington vào tháng 12 năm trước đã khiến nhiều người phản đối, thậm chí cả những người thân cận nhất với Pitt là Camden và Tomline, hay những ông chủ có ảnh hưởng lớn nhất trong thành phố là Stafford, William Lowther và Lonsdale cùng nhiều nghị sĩ khác cũng bỏ đảng để phản đối.

Hậu quả lớn nhất của những vết nứt trong mối quan hệ này đã được Pulteney giải thích như sau:

Những thất bại đầu tiên của Pitt trên cương vị lãnh đạo là thất bại trong cách quản lý. Ông đã đánh giá quá thấp phản ứng của các nghị sĩ khi phản đối thuế đánh vào than và vải sợi trong ngân sách năm 1781, loại thuế mà cuối cùng ông đã phải hủy bỏ hoặc sửa đổi. Khi cố gắng làm mất đi cơ sở quyền lực khá nổi tiếng của Fox, ông đã bám sát việc kiểm soát phiếu trong cuộc bầu cử năm 1784 ở Westminster, khiến các nghị sĩ mất kiên trì và tinh thần chơi đẹp. Họ đã chống lại ông trong tháng 3/1785 và trở về với Fox. Một tháng sau, một lần nữa Pitt lại bị tấn công, lần này là về vấn đề cải tổ Nghị viện, cơ bản là do những thành kiến của Nghị viện, sự phán xét của một số lượng nhỏ những thỉnh nguyện thư ủng hộ, quan điểm của đất nước đã chống lại việc cải tổ, nhưng ngoài ra còn vì sự xa cách đối với những nghị sĩ bình thường đã ngăn cản ông chia sẻ những cam kết thật sự của mình đối với vấn đề này.

Những vấn đề trên đây dường như đã khiến ông mất tự tin trong vấn đề quan trọng nhất của Nghị viện tại phiên họp năm 1785, đó là việc đưa các đề xuất thương mại ở Ireland ra trước Viện Bình dân. Pulteney chỉ trích: “Cách chỉ đạo của Pitt đã chứng tỏ một điều, ông chỉ có thể là một bộ trưởng với một Nghị viện độc lập, và tất cả những gì họ đưa ra để chứng tỏ sự độc lập của họ đã làm Pitt giật mình đến hoảng hốt khi một lúc nào đó, ông phải đưa các vấn đề ra trước họ với hy vọng nhận được đa số phiếu ủng hộ quyết định của mình”. Thất bại trong việc đẩy nhanh các đề xuất thương mại ở Ireland mà Pitt đưa ra đã khiến phe đối lập có nhiều thời gian khích động phong trào chống đối đề xuất. Sau đó, chính Pitt phải nhượng bộ và sửa đổi kế hoạch mà cuối cùng vẫn bị Nghị viện Ireland từ chối. Thất bại đáng nói cuối cùng là chương trình củng cố công sự của Bá tước Richmond. Đây thật sự là vấn đề đánh trực tiếp vào Richmond không mấy được lòng dân chúng và làm Chủ tịch Viện Bình dân Pitt mất đi một lá phiếu bầu. Tuy nhiên, nó chứng tỏ rằng vẫn chưa có một kỷ cương chặt chẽ trong hàng ngũ bộ trưởng khi các nghị sĩ thuộc Bộ Hải quân bỏ phiếu chống lại chương trình này. Pitt phải nhận được sự ủng hộ tích cực của tất cả các thành viên trong chính phủ đối với một biện pháp nào đó của chính phủ, như vậy ông mới có thể bảo toàn được đa số phiếu ủng hộ cần thiết.

Chuỗi những thất bại này làm lung lay niềm tin của dân chúng đối với chính phủ của Pitt. Tháng 1/1786, Orde, Bộ trưởng ở Ireland và người bạn cũ của mình là Shelburne (lúc này là Hầu tước Lansdowne) có cùng quan điểm rằng “đó thật sự là phiên họp Nghị viện thử nghiệm đối với Pitt, và Pitt sẽ bị dao động hoặc sự kiên định của ông được khẳng định”. Thiếu những cấp dưới có khả năng và không chú ý nhiều đến soạn thảo các dự luật là những điểm yếu kém của Pitt, tuy nhiên, phong cách quản lý cũng được xem là một yếu tố quyết định. Sau 9 tháng lên nắm quyền trong Bộ, nhà quản lý chính trị lão luyện John Robinson đã cảnh báo Pitt rằng “những khả năng vĩ đại mà đứng một mình, thậm chí đó là những khả năng vĩ đại nhất cũng chỉ khiến mọi người hoặc người Anh bị dồn vào thế bắt buộc, nhưng chính sự khôn khéo, điềm tĩnh và cách quản lý mới thật sự kêu gọi sự ủng hộ của họ”. Chín tháng sau, Pulteney cho rằng:

Pulteney tự động viên mình rằng “bản chất ghê tởm của Liên minh North-Fox dù sao vẫn bảo vệ chúng ta” và bảo vệ cả những người khác, trong đó có cả Fox và coi sự thù địch đối với phe đối lập đã bảo vệ được Pitt trong giai đoạn đầy khó khăn này. Tuy nhiên, sự kiện năm 1786 đã chuyển từ “thử thách” sang chiến thắng nhờ những đề xuất về Quỹ chìm của Pitt. Ông thậm chí còn thông qua được thuế đánh vào rượu mà chính ông cũng rất tự hào chỉ cho Rutland thấy rằng “ông đã đánh bại hoàn toàn ngài Robert Walpole – một người tiền nhiệm uy quyền nhất”. Pitt đã phát triển được một phong cách quản lý nhờ khả năng tranh luận giàu sức thuyết phục của mình.

NHỮNG NÉT MỚI VÀ CŨ TRONG PHONG CÁCH QUẢN LÝ CỦA PITT

Năm 1783, Pitt thừa nhận với Thurlow rằng ông đã chuẩn bị khá chu đáo trong việc sử dụng những phương tiện thông dụng mà “hầu hết các bộ trưởng đều biết”. Cuối năm 1785, ông thuyết phục William Eden, một chuyên gia tài chính của phe đối lập chính, người đã tìm mọi cách để phá hỏng các đề xuất thương mại ở Ireland của ông, đảm nhiệm một vị trí trong Bộ Ngoại giao để đàm phán Hiệp định Thương mại với Pháp. Trong năm đầu tiên lên nắm quyền, việc thực hiện 20 đợt phong tước quý tộc đã giúp Pitt có được sự ủng hộ trong suốt thời gian thiết lập Bộ. Năm 1786, việc trao cấp bậc quý tộc cho nhà quý tộc người Ireland và cũng là nghị sĩ, ngài Delaval, người mới chuyển sang phe của Pitt sau cuộc bầu cử năm 1784, đã cho thấy không có một sự thanh trừng những người chống đối cũ. Việc làm này cũng khiến nhiều người chống đối bắt đầu thương lượng với Bộ trưởng Pitt.

Không quan tâm nhiều đến quyền bất khả xâm phạm của giới quý tộc cũ, Pitt phong thêm các cấp bậc quý tộc nhiều hơn bất kỳ một người tiền nhiệm nào. Năm 1783, trong số 208 cấp bậc quý tộc, Pitt đã thăng chức cho 34 người, chuyển tước vị cũ cho 18 người, thăng chức cho 9 nhà quý tộc người Scotland, 22 nhà quý tộc người Ireland và 52 hạ nghị sĩ, tổng số đã có 135 lần phong cấp hoặc thăng cấp. Những người được phong cấp bao gồm: 20 ông chủ trong thành phố kiểm soát 41 ghế, 65 nghị sĩ hoặc cựu nghị sĩ trong Bộ đầu tiên của ông, đặc biệt có 24 người là nghị sĩ của các hạt. Sau này, Wilberforce phàn nàn rằng những gì Pitt thực hiện đã làm cho Viện Bình dân suy yếu. Ông đã lấy đi địa vị cao sang của quá nhiều địa chủ giàu có và được kính trọng nhất của đất nước. Ngược lại, Viện Quý tộc lại được củng cố nhờ việc bổ sung nhiều nhà quý tộc người Scotland và người Ireland, những người khiến Viện Quý tộc đại diện nhiều hơn cho toàn bộ Vương quốc Anh (bao gồm tất cả các hòn đảo). Tuy nhiên, trong khi đội ngũ quý tộc của Pitt giúp ông làm hài lòng Viện Bình dân hiện tại thì cuối cùng họ lại khiến Viện Quý tộc độc lập hơn với sự kiểm soát của chính phủ nhờ số lượng áp đảo những người có địa vị “thuộc phe của Vua Anh” trong Nghị viện.

Hy vọng có được địa vị và cấp bậc quý tộc đã khiến chín người theo North và bốn người ủng hộ hoặc có cảm tình với phe của Portland hoặc Fox chuyển hướng trong khoảng thời gian từ 1784-1788, trước khi xảy ra cuộc Khủng hoảng chế độ nhiếp chính và thay đổi phe ủng hộ trong Bộ một lần nữa. Chiến thắng trong cuộc Khủng hoảng chế độ nhiếp chính năm 1789 và tổng tuyển cử năm 1790 giúp Pitt nuôi nhiều tham vọng đàm phán để liên minh với những người theo Đảng Whig của Portland và Fox đầu năm 1791, với phe trung hòa hơn của Portland vào mùa hè năm 1792 và mùa xuân năm 1794. Nhìn chung, Pitt phải sử dụng chiến thuật lôi kéo mọi người bằng việc bổ nhiệm những chức vụ cao. Một lần nữa, nhiều người theo North trước đây đã mắc vào chiến thuật này, như Loughborough làm Chủ tịch Viện Quý tộc, Gilbert Elliott làm ủy viên hội đồng của Toulon, thành phố mới chiếm được của Pháp, Sylvester Douglas làm Bộ trưởng ở Ireland năm 1793. Cuối cùng, năm 1794, phe của Portland phải đồng ý gia nhập phe Pitt do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng ngày càng sâu sắc của cuộc chiến ngoài nước và chủ nghĩa cấp tiến trong nước. Ngoài ra, còn một nguyên nhân khác là Pitt ban phát cho họ những chức vị và bổng lộc quá lớn − năm ghế trong Nội các, trao cấp tước Ga-tơ cho Portland, chức Quan đại diện nhà vua ở Middlesex, năm chức tước quý tộc và một lần thăng chức trong giới quý tộc, hai vị trí giám sát trong Hoàng gia, một mức trợ cấp cho Edmund Burke và hứa sẽ dành cho phe này chức Toàn quyền cai trị Ireland. Portland kéo vào phe mình 62 nghị sĩ, Fox chỉ còn lại khoảng 55 người ủng hộ. Tháng 12/1804, Pitt lại sử dụng chiến thuật này một lần nữa khi ông đàm phán liên minh với Addington và những người theo phe ông ta (khoảng 40 nghị sĩ). Ông đề nghị hai vị trí trong Nội các, một tước vị quý tộc cho Addington, bổ nhiệm ba ủy viên Hội đồng Cơ mật và hứa hẹn nhiều chức vị cho những người thuộc phe này. Chiến thuật này ít tốn kém nhưng lại không thành công bằng lần thực hiện trước.

Pitt đã có ba cơ hội thúc đẩy Nghị viện tiến hành một cuộc tổng tuyển cử. Ông dồn hết tâm trí vào việc kêu gọi sự trở về của những người “có khuynh hướng có lợi đối với chính phủ”. Nhưng cuộc bầu cử năm 1784 lại bị điều khiển theo chiều hướng ngược lại. Thời gian chuẩn bị ít ỏi cộng với sự thiếu kinh nghiệm của Pitt và người quản lý của ông, George Rose, đã khiến họ bị kích động bởi cuộc khủng hoảng chính trị duy nhất này và nôn nóng phá vỡ mối quan hệ chính trị địa phương đã tồn tại nhiều năm, nhưng may thay cuối cùng vẫn theo hướng có lợi cho chính phủ. Khi có đủ thời gian chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử tiếp theo, Pitt bắt đầu hành động vào mùa hè năm 1788. Ông gần như chắc chắn có thể tổ chức cuộc bầu cử năm 1789, bởi chiến thuật của ông là không để Nghị viện kéo dài hết nhiệm kỳ bảy năm và ngăn chặn các đối thủ tổ chức cuộc bầu cử sớm (Pitt rút ra chiến thuật này từ North, cuộc bầu cử đột xuất năm 1780 đã phá tan mọi nỗi lực của North trong tiến trình vận động tranh cử Thủ tướng). Tuy nhiên, ý định này đã bị ngăn cản bởi cuộc Khủng hoảng chế độ nhiếp chính và những người trung thành đã phải ra đi nhằm ổn định lại trước khi ông tiến hành cuộc bầu cử vào năm 1790 (vẫn sớm một năm so với dự kiến). Việc chuẩn bị cho cuộc bầu cử nhiệm kỳ sau được bắt đầu năm 1790, dưới sự giám sát của Pitt và Charles Long, người quản lý cơ quan hành pháp và là Bộ trưởng Tài chính. Trong mỗi đợt bầu cử, Henry Dundas bao giờ cũng chiếm được đa số phiếu ở Scotland. Uy thế của Dundas đối với Bộ trưởng và các nguồn bảo trợ của ông không ngừng tăng. Dundas kiểm soát Scotland, nơi mà ông đã tăng sự ủng hộ của Bộ trưởng (và là sự ủng hộ cá nhân đối với ông) từ 24 trong số 45 ghế của Scotland sau cuộc bầu cử năm 1784 lên tới 43 ghế năm 1796. Hơn nữa, đây lại là số người ủng hộ có tính kỷ luật hơn so với số người Anh ủng hộ Pitt.

Pitt cố gắng tìm kiếm nguồn bảo trợ chính trị ở Anh với sự giúp đỡ của George Pretyman, thầy giáo cũ và là thư ký của ông cho đến khi được phong chức Tổng Giám mục Lincoln, cùng các Bộ trưởng Tài chính là George Rose (1783-1801) và Charles Long (1791-1801). Sự kiểm soát trực tiếp của Vua Anh đối với các thành phố đã giảm đáng kể. Năm 1792, Pitt bộc bạch với Canning rằng quyền bổ nhiệm của ông với tư cách là Bộ trưởng rất nhỏ, chỉ được sáu ghế. Năm 1796, Douglas cũng biết rằng số ghế chính phủ có thể tiến cử mà không mất một khoản phí tổn nào đã “bị giảm một cách đáng ngạc nhiên” – Pitt và Rose không thể biết được là chỉ còn không quá ba ghế. Mặc dù có ít ghế trực tiếp nằm dưới sự quản lý chính phủ hơn và phải trả ít tiền cho những người khác hơn so với những người tiền nhiệm, Pitt vẫn gặp phải thách thức đối với quyền bổ nhiệm trong thành phố. Những ghế này đã nằm trong sự sắp xếp của Pitt để hoặc giành được sự ủng hộ của họ, hoặc Pitt và các nhà quản lý cuộc bầu cử của ông có thể điều khiển những ứng cử viên tiềm năng muốn chi tiền cho người bảo trợ nhằm giành một ghế trong Nghị viện (mỗi suất phải bỏ ra khoảng 2.000 đến 5.000 bảng). Một trong những nhiệm vụ chính của chính phủ trong bầu cử là phải đóng vai trò trung gian, cố gắng tìm ra những người ủng hộ muốn mua phù hợp với những người bảo trợ muốn bán.

Thành phố East Loose thuộc xứ Cornwall là một ví dụ. Thành phố này thuộc quyền sở hữu của dòng họ Buller. Ngay trước cuộc bầu cử năm 1784, Pitt bổ nhiệm trưởng dòng họ là John Buller vào Ủy ban Tài chính và em trai ông ta làm Đức cha. William Buller làm Trưởng tu viện Exerter vì đó là “mong muốn thiết tha từ những người bạn của Buller”. Buller trở thành người đứng đầu dòng họ có uy quyền nhất thành phố này sau khi anh trai mất năm 1786. Đêm trước cuộc bầu cử năm 1790, Pitt viết cho Rose rằng “tôi đã quyết định đề xuất chức Tổng Giám mục Canterbury cho Buller và hy vọng anh sẽ vui lòng thông báo cho anh ta điều này, đồng thời hãy tính toán những “lợi ích” mà chúng ta sẽ được nhận từ việc này ở chừng mực mà anh cảm thấy hợp lý nhất”. Sau khoản chi trả ban đầu 400 bảng, năm 1791, Buller được nhận thêm 500 bảng từ quỹ mật, “khoản chi phí bổ sung ở thành phố East Loose cho Nghị viện”. Năm 1792, Buller được phong chức Tổng Giám mục Exeter. Hai ghế của thành phố East Loose vẫn được giữ nguyên theo đề nghị của chính phủ.

Để đưa Canning vào Viện Bình dân năm 1793, khoảng thời gian giữa cuộc tổng tuyển cử, Pitt đã chú ý tới một người bảo trợ của thành phố muốn ngã giá ghế của mình cho một người bạn trong chính phủ. Ngài Richard Worsley đã đánh đổi ghế của mình ở Newport, đảo Wight, để được làm đặc phái viên tới Venice. Nghị viện kỳ sau, Pitt và Canning lại quay sang Wendover, người bị kiểm soát bởi người bạn thân là ông chủ nhà băng Robert Smith và dành cho ông ta một tước vị quý tộc Ireland năm 1796 cùng tước vị quý tộc Anh năm sau đó.

Tổng chi phí dịch vụ mật cho cuộc bầu cử năm 1784 là 32.000 bảng và cho cuộc bầu cử năm 1790 lên tới khoảng 40.000 bảng. Mặc dù phe đối lập chuẩn bị tốt hơn trong cuộc bầu cử năm 1790, nhưng chính phủ vẫn thắng thế, trong khi đó việc liên minh với những người theo Đảng Whig của Portland cũng như quan điểm của Fox về chiến tranh và về Cách mạng Pháp đã tạo đà giúp chính phủ giành được chiến thắng áp đảo năm 1796 (xem Bảng 5.1).

Bảng 5.1. Kết quả cuộc tổng tuyển cử dưới nhiệm kỳ của Pitt

Tuy nhiên, điểm yếu chính trị của Pitt là ít bộc lộ trong các cuộc bầu cử (ngoại trừ năm 1784), nơi các hoạt động chính trị của các cử tri tương đối ổn định và hội tụ các nhà bảo trợ địa phương muốn quan hệ tốt với chính phủ để đảm bảo không một Thủ tướng thế kỷ XVIII nào bị thất bại trong cuộc tổng tuyển cử. Điểm bất ổn tiềm tàng lớn nhất của Pitt lại xuất phát từ chính các thành viên khi họ được bầu. Ủng hộ chính phủ của Vua Anh là một khuynh hướng tự nhiên và rất phổ biến ở họ. Trong số những người tiền nhiệm của Pitt tính từ năm 1714, chỉ có Walpolt, North và Shelburne là thất bại do đánh mất niềm tin trong Viện Bình dân (cả ba người này đều nhận thấy mình sai lầm trong chiến tranh). Do vậy, sau những thử thách ban đầu, Nội các của Pitt không có nguy cơ bị sụp đổ trừ trường hợp đặc biệt. Cuối năm 1788, sức khỏe của Vua Anh suy giảm đột ngột khiến các nghị sĩ không biết nên ủng hộ vị vua nào, người đang trị vì hay người kế vị tương lai? Trong cuộc Khủng hoảng chế độ nhiếp chính những năm 1788-1789, việc dân chúng không ưa Thái tử Wales đã cứu nguy cho Pitt, nhưng trong những năm 1804-1805, giai đoạn Vua Anh ốm đau và cận kề cái chết, nhiều chính trị gia không ngừng nuôi tham vọng chính trị của mình. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, Pitt quyết chiến để giành được quyền giải quyết các công việc của chính phủ ở Nghị viện chứ không phải là để thoát khỏi khủng hoảng chính trị, dù có quá nhiều thất bại khiến ông có thể mất niềm tin vào khả năng bản thân.

Đối với bất kỳ nhà lãnh đạo Viện Bình dân nào của thế kỷ XVIII, việc có những người làm chủ tọa trong các cuộc thảo luận đứng về phía mình đóng vai trò hết sức quan trọng. Pitt phát hiện chỉ có duy nhất hai đại cử tri quyết định chống lại ông bằng cách mua chuộc các lá phiếu trong Viện Bình dân của những người không được ông lựa chọn. Đầu tiên là Charles Cornwall, một viên chức cấp thấp được North bổ nhiệm. Pitt luôn phải đề phòng Cornwall trong các cuộc tranh luận tại Nghị viện tháng 1/1784 bằng cách không cho ông ta quyền phát biểu ý kiến ngay ngày thảo luận đầu tiên, mà theo quan điểm của Wraxall “sẽ làm hỏng mọi việc”. Thật may mắn cho Pitt, Cornwall chết đúng vào thời điểm bắt đầu các cuộc thảo luận về chế độ nhiếp chính năm 1789, cho phép Pitt đưa người anh họ Grenville lên làm Chủ tịch Viện Bình dân. Sau cuộc Khủng hoảng chế độ nhiếp chính, Grenville chuyển sang Bộ Nội vụ thay cho người bạn lâu năm của Thủ tướng là Henry Addington, con trai một bác sĩ thuộc dòng họ Chatham. Năm 1796, đối mặt với bổn phận thừa kế, Addington đã sử dụng lá phiếu quyết định để ủng hộ chính phủ, và chính sự thất bại của Addington đã khiến Pitt rút bỏ ý định tấn công độc ác đối với Tierney tháng 5/1798 mà sau này chính vì điều đó, Thủ tướng Pitt và ông ta phải tranh chấp tay đôi những người ủng hộ ở Wimbledon.

Pitt cũng rất cần một vị Chủ tịch của Ủy ban Biện pháp và Đường lối thuộc Viện Bình dân − một ủy ban quản lý pháp chế tài chính, có cùng quan điểm với mình. Sau cuộc bầu cử năm 1784, Pitt bổ nhiệm Thomas Gilbert vào vị trí này, người trước đây quản lý ruộng đất của một đồng sự trong Nội các của Pitt, Bá tước Gower, và là người đại diện cho ghế mà Gower kiểm soát. Ngoài việc là người đấu tranh cho việc cải cách các luật tế bần, với chiến dịch quản lý chi tiêu trong chính phủ của Thomas, mọi người đã suy tôn ông “vừa là một cận thần, vừa là một người yêu nước”. Điều này rất hợp với quan điểm của Thủ tướng Pitt. Năm 1791, vị trí chủ tịch ủy ban này thuộc về Henry Hobart, một người ủng hộ độc lập đáng tin cậy của Pitt. Addington cho rằng mình không còn đủ khả năng lãnh đạo, nhưng chỉ đến khi cận kề với cái chết năm 1799, ông mới được người em rể tận tâm là Charles Bragge thay thế. Có lẽ với Pitt, các vị trí này quan trọng đến nỗi năm 1789, ông đã hậu thuẫn cho đề nghị thay thuế thu nhập của Chủ tịch Viện Bình dân từ mức lương 3.000 bảng lên mức lương 5.000 bảng (sau này Nghị viện đồng ý tăng lên 6.000 bảng), và năm 1799, mức lương dao động trong khoảng 500-800 bảng trích từ Quỹ Dịch vụ mật trả cho Chủ tịch Ủy ban Biện pháp và Đường lối được thay bằng khoản chi trả thường xuyên là 1.200 bảng cuối mỗi phiên họp.

Tuy nhiên, Pitt cần nhiều hơn thế để công việc của mình được thông qua suôn sẻ trước Nghị viện. Pitt ý thức rằng một người làm chủ nền chính trị xã hội cần phải vượt qua được sự dàn binh bố trận ghê gớm của phe đối lập. Ông lên kế hoạch cho một loạt các cuộc tiếp đón mọi người mà chủ nhân là chị gái của ông, bà Harriot, người đến đó sống với chồng (cũng là bạn của Pitt), ông Edward Eliot, sau khi kết hôn năm 1785. Nhưng Harriot đã mất sau ca vượt cạn khó năm 1786. Sự thiếu hụt này đã được bù đắp nhờ quý bà Jane đầy nhiệt huyết, phu nhân Công tước Gordon, người đã cùng Dundas lên kế hoạch cho những lần xuất hiện thường xuyên của Pitt tại các buổi dạ hội mà bà tổ chức đầu những năm 1790. Hơn nữa, Câu lạc bộ White đã hoạt động như một câu lạc bộ xã hội của các quý ông, dành cho những người ủng hộ Nội các. Cuối những năm 1780, Pitt thường xuyên dùng bữa tối ở đó. Câu lạc bộ White cũng chính là nơi Pitt đến thẳng sau khi vội vã trở về từ trường Cambridge để tập trung sự ủng hộ đối với Dự luật Buôn bán nô lệ của Dolben năm 1788. Những thành viên của Câu lạc bộ đã chứng tỏ được cơ sở sức mạnh của mình trong cuộc Khủng hoảng chế độ nhiếp chính, khi mà theo một trong những thành viên, ông Grant, thì 89 nghị sĩ sinh hoạt trong Câu lạc bộ kiên định biểu quyết ủng hộ Pitt. Tuy nhiên, những phương cách tương tự như vậy đã không ngăn nổi chiến tranh bùng nổ năm 1793. Sau thời điểm này, Pitt ít có mặt tại các buổi dạ hội của quý bà Gordon và sự xuất hiện của ông ở Câu lạc bộ White cũng hiếm hoi hơn.

Tuy nhiên, nhiều người thừa nhận Nội các của Pitt phải gắng tồn tại, có rất nhiều biện pháp được thực hiện để lấp đầy hố ngăn cách giữa Pitt và đại đa số các nghị sĩ. Pitt dường như quá xa vời với những đòi hỏi này, các nghị sĩ thường nhờ đến người làm trung gian giữa họ với Thủ tướng. Hai người đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc dàn xếp mối quan hệ của Pitt với những thành viên bình thường khác là Henry Dundas và Addington. Henry Dundas, một người “chân thật, thẳng thắn và vui tính” luôn có “cách xử sự nhã nhặn, khoan dung, khéo léo đi vào lòng người”. Wraxall đánh giá:

Những năm 1790, Dundas được hỗ trợ thêm từ vị Chủ tịch Viện Bình dân nổi tiếng Henry Addington. Nathaniel Dance khác hẳn với Pitt, ông hầu như không tôn trọng Addington, người lúc nào “cũng giữ phép lịch sự”. Bao nhiêu mối lo âu và giãi bày tâm sự mà mọi người muốn bày tỏ với Pitt thì Addington là người đón nhận, những báo cáo khích lệ của Pitt trong các bài diễn thuyết cũng từ Addington mà ra, và chính Pitt cũng sử dụng Addington để thu phục những ứng cử viên thất vọng về vị trí mà họ được bổ nhiệm.

Trong khi Dundas và Addington tự thể hiện mình xứng đáng nằm trong hàng ngũ những đồng sự cao cấp, Pitt vẫn đặc biệt quan tâm tìm kiếm những người có tài năng và sở thích công việc giống ông. Wilberforce ghi nhận “sự quan tâm ân cần mà Pitt dành cho việc phát triển tài năng của những người trẻ tuổi có hoạt động chính trị hứa hẹn là hợp với sự nghiệp của ông”. Những năm 1788-1789, Pitt đã ủng hộ thành lập một câu lạc bộ mới, Câu lạc bộ Hiến pháp, để ghi nhận những nguyên tắc của năm 1688, với mong muốn nó “là một mạng lưới chính trị tốt để thu hút những người trẻ tuổi vừa mới rời trường phổ thông bước vào đời” nhằm đối phó với sức thu hút của Câu lạc bộ những người theo Đảng Whig của phe đối lập.

Pitt hầu như chỉ thể hiện tài năng ở các văn phòng và ủy ban của Nghị viện, nơi ông có thể được mọi người lắng nghe, được tán dương, cổ vũ và tư vấn. Vị nghị sĩ mới đồng thời là Toàn quyền Scotland Robert Dundas được nghe Pitt định hướng sau bài diễn văn đầu tiên của ông năm 1791 như sau:

Pitt luôn xác định mình phải làm chủ trong mọi tình huống. Điều này đã được Henry Bankes, bạn ông, mô tả là “cách thức ông tiến hành sự việc với tư cách là Bộ trưởng rất quyết đoán, ông bao giờ cũng thừa nhận biện pháp mình thực hiện chứ không núp dưới bóng của người khác”. Trên thực tế, điều này đã hạn chế các đồng sự của ông có cơ hội phát biểu trước dân chúng và thường làm họ thất vọng. Tuy nhiên, cơ hội đặc biệt mà ông dành cho họ là gắn họ với những người ủng hộ độc lập trong Nghị viện về việc đề xuất hoặc ủng hộ các vị trí để đáp lại bài diễn văn khai mạc phiên họp của Vua Anh. Quan điểm của Pitt là lựa chọn vào các vị trí này những người mới, hoàn toàn chưa có chức vị và những người không liên quan đến những người đã có chức vị. Quan điểm này khác hẳn với những người tiền nhiệm, họ thường chọn những người có trọng trách hoặc họ hàng. Trong số 34 người được Pitt lựa chọn cho 17 vị trí trong Nội các đầu tiên của ông, có hai người sau này trở thành Thủ tướng (Addington và Canning), năm người là Bộ trưởng Nội các (Ryder, sau này là Bá tước Harrowby), Yorke, Castlereagh, Morpeth, Granville Leveson-Gower) và năm người giữ các chức vụ khác (Smyth, Pole Carew, Murray, Wallace và Dickinson Jr.). Những lựa chọn này hoàn toàn trái ngược với 26 người tiến cử và ủng hộ dưới Nội các của North, trong số đó chỉ có một người trở thành Bộ trưởng Nội các và tám người giữ các trọng trách khác trong chính phủ.

Hơn nữa, danh sách bổ nhiệm này không có những người sau này cũng làm Thủ tướng như Grenville và các Bộ trưởng Nội các như Mornington (sau này là Hầu tước Wellesley) và Apsley (sau này là Bá tước Bathurst), những người mà Pitt có quan hệ thân mật và tiến cử trong những năm 1780, và hai người sau này cũng trở thành Thủ tướng là Robert Jenkinson (sau này là Bá tước Liverpool) và Spencer Perceval, các Bộ trưởng Nội các là Nicholas Vansittart và Bragge Bathurst − những người học việc được Pitt cổ vũ trong những năm 1790. Phụ tá lâu nhất được Pitt dạy dỗ là Bá tước Aberdeen, người đã coi Pitt là người giám hộ của ông ta năm 1795 và từ chức Thủ tướng năm 1856. Pitt đã nâng đỡ và đào tạo rất nhiều người trở thành những nhà lập pháp của Anh trong 50 năm sau đó.

Pitt thu hút được sự ủng hộ tài tình này bằng cách cho phép những người ủng hộ tham gia bí mật vào vòng nội bộ của ông. Họ được mời tới ăn tối cùng những người bạn thân cận nhất và những người vì công việc của Pitt. Họ được tiếp xúc với một ngài Pitt khác hẳn với hình ảnh thường xuất hiện trước dân chúng. Canning trẻ tuổi nhận thấy Pitt “rất hợp với tôi, ông ân cần chu đáo mà không hề gây phiền hà, ông xen vào câu chuyện mà không hề muốn chỉ đạo câu chuyện đó, ông rất hay cười và cười thật thoải mái, có nét gì thật con trẻ khi bàn về lịch sử của loài chim cổ đỏ”. Họ được phép tham dự các cuộc gặp gỡ của các vị lãnh đạo chính phủ ở phố Gowning để chuẩn bị cho các cuộc thảo luận. Hơn hết thảy, họ được tiếp xúc rất cởi mở với Pitt, đặc biệt là Canning luôn có ý nghĩ riêng tư là “Pitt rất cởi mở, dễ tính, sẵn sàng trả lời câu hỏi mà không hề dè dặt hoặc thật thà thú nhận rằng không thể trả lời ngay các câu hỏi của họ”. Canning có thể tiếp xúc với Pitt bất kể lúc nào để bàn về đối tượng của các cuộc thảo luận mà mình muốn tham gia. Granville Leveson-Gower cũng miêu tả Pitt “nói chuyện với vẻ tự tin nhất về bất kỳ vấn đề nào, tranh luận và thảo luận với chúng tôi về những điểm mà ông còn nghi ngờ, đồng thời ông cũng rất hài hước… cứ như thể ông còn đang ở độ tuổi của chúng tôi vậy”.

Nhờ sự thân thiện này, Pitt đã vượt qua được tính e ngại vốn có của mình. Nhờ vậy, những người ủng hộ được khích lệ và hết lòng với ông. Trong khi đó, đối với những người ở ngoài vòng thân mật, dường như ông “gần gũi đầy ác ý”. Burges có thể viết về “thái độ ngạo mạn lộ rõ và sự khó khăn quá mức trong giao thiệp xã hội của Pitt”. Còn Canning, khi bị mọi người cho là thiếu tôn trọng vì đã thể hiện quá lộ liễu sự thân thiện với Thủ tướng, đã phản đối rằng “trên thực tế, Pitt là người rất vui vẻ, ân cần”. Nhiều người trước đây cũng dễ bị lôi cuốn bởi thứ “bùa mê” này của Pitt. Wyvill, một người cải tổ Nghị viện, có thể dễ dàng nói: “Pitt có cách cư xử trong giao thiệp riêng tư rất dễ dãi và niềm nở; Pitt sở hữu kho tàng phong phú lòng nhân từ và bản tính thiện; thật khó cưỡng nổi tình cảm yêu mến khi tiếp xúc với Pitt thoải mái thân mật như vậy”.

Mornington cũng xác nhận “Pitt là người trìu mến, bao dung, nhân ái và dễ tiếp xúc nhất mà ông được gặp”, không còn phân biệt địa vị trong mối giao thiệp riêng tư, “hoàn toàn ý thức về uy quyền của chính mình và thường có khuynh hướng ngồi nghe nhiều hơn là nói”. Quý bà Stafford cũng cho rằng “tính khiêm tốn của Pitt hấp dẫn mọi người cũng như chính trí tuệ siêu phàm của ông”. Wilberforce nhớ lại “trong giao thiệp, Pitt rất vui vẻ và thân mật, hóm hỉnh và khôi hài… Pitt sẵn sàng nghe những gì người khác nói cũng như suy ngẫm về những điều đó”. Ông rất trung thành với những người bạn thuở ban đầu. “Bạn bè hiểu nhau trong hoạn nạn” – Wilberforce nhớ lại. Sự nghiệp của Wilberforce cũng được Pitt thúc đẩy khi Pitt cổ vũ ông tham gia lãnh đạo phong trào chống buôn bán nô lệ trong Nghị viện suốt thời kỳ suy thoái đạo đức, sau những cải cách tôn giáo của ông. Đổi lại, Pitt tiếp tục nhận được sự ủng hộ và có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiều người.

Những nhà hoạt động xã hội tận tụy nòng cốt rất cần thiết đối với việc quản lý Nghị viện của Pitt. Ông sử dụng họ để phán đoán cảm nhận của Nghị viện và gây ảnh hưởng trong các buổi thảo luận. Chúng ta đều biết trước các buổi thảo luận phải có sự chuẩn bị rất công phu. Pitt có thói quen gửi giấy báo của Bộ Tài chính tới tất cả những người ủng hộ để nhắc nhở về ngày khai mạc Nghị viện, cùng một vài lời giải thích về nguyên nhân tại sao số lượng người tới dự là đặc biệt cần thiết nếu thời gian khai mạc không như kế hoạch. Buổi tối trước ngày khai mạc phiên họp mới, Pitt gặp gỡ những người ủng hộ của mình tại Cockpit ở Whitehall và đọc cho họ nghe hai lần bài diễn văn mà Vua Anh sẽ đọc vào ngày hôm sau cũng như bài diễn văn mà ông đáp lại, giới thiệu trước những người đóng góp ý kiến và ủng hộ những bài diễn văn này. Các phiên họp diễn ra đều có vận động bỏ phiếu sơ bộ về các ý kiến, chẳng hạn trước đề nghị cải tổ Nghị viện của Pitt năm 1785 và đề nghị thăng chức trong Bộ Hải quân của đại tá Bastard năm 1788. Trong các trường hợp đặc biệt, ý định của Pitt được trao đổi trước với những người ủng hộ, hoặc bằng cách viết thư cho những nhân vật có ảnh hưởng (như trước kỳ vận động hành lang cho đề nghị cải tổ Nghị viện năm 1785), hoặc bằng lời nói (như khi ông muốn phủ nhận những nỗ lực bãi bỏ các Dự luật Thử nghiệm năm 1787), hoặc tổ chức buổi gặp mặt đông đảo (như khi bắt đầu cuộc tranh cãi ở Viện Bình dân về chế độ nhiếp chính tháng 12/1788, để trả lời một số đề nghị mà những người bạn tốt trong Viện Bình dân gửi, ông đã tổ chức một cuộc họp đặc biệt gồm những người ủng hộ ông ở Cockpit, nói rõ đối tượng mà Vua Anh có ác cảm và nêu ra những bước có thể đề nghị ở Nghị viện ngày hôm sau). Những lá thư của Bộ Tài chính như lời hiệu triệu mọi người ủng hộ, mặc dù không hề hứa hẹn một sự bù đắp về vật chất nào từ phía Pitt. Pulteney cho rằng đó là điều lợi bất cập hại. Pitt tự tay viết thư đề nghị những nhân vật có ảnh hưởng lớn có mặt. Khi chính phủ gặp phải vấn đề nào đó, nhiều người nài nỉ triệu tập khẩn cấp những người ủng hộ có khả năng. Như trường hợp Dự luật Giải thích về Công ty Đông Ấn năm 1788 và khi nghị sĩ − tướng James Grant giải thích về quy mô quân đội: “Ngài Pitt chưa bao giờ phải chịu những áp lực chống lại ông như thế, nhiều người nghĩ rằng cần phải triệu tập quân ở tiền đồn và quân bổ sung được gửi từ Scotland đến”.

Các cuộc thảo luận chính đều được lên kế hoạch r?