Chương 4 “Tham vọng cuộc đời tôi”: Pitt và công việc chính phủ
NIỀM ĐAM MÊ CHỦ ĐẠO
Khi từ chức năm 1801, Pitt nuối tiếc vì “đã để mất chức vị, tham vọng của cả cuộc đời tôi, và cảm xúc trong trái tim tôi vẫn tiếp tục tràn đầy”. Giống như cha, Pitt coi đó là số phận lãnh đạo đất nước của ông. “Sự gắn bó đặc biệt với quyền lực và địa vị của Pitt” sau này đã được Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Burges ghi nhận và bổ sung rằng “tham vọng vinh quang và quyền lực là những nguyên tắc chủ đạo của Pitt”. Nghị sĩ Wraxall cũng đã nói đến “tham vọng nắm giữ quyền lực của Pitt”. Bạn bè đều công nhận điều đó. Pretyman nhấn mạnh: “Nếu Pitt khao khát vinh quang, thì đó là vinh quang được phục vụ đất nước với lòng trung thành, nhiệt huyết và không vụ lợi; nếu Pitt mong mỏi quyền lực, thì đó là vì quyền lực sẽ mở ra một lĩnh vực rộng lớn hơn đối với những nỗ lực và sự chuyên cần của ông. Tham vọng của ông khi là ưu điểm, khi là thiếu sót, khi là hạnh phúc, cũng có khi là tai họa, tùy thuộc vào động cơ mà nó được thực hiện, đối tượng mà nó hướng tới cũng như cách thức thực thi để thỏa mãn tham vọng đó”. Wilberforce cảm thấy “rất thú vị khi nói chuyện với Pitt về những kế hoạch mà ông đã lập ra để phục vụ lợi ích của dân chúng; hoặc chứng kiến niềm vui thích của Pitt khi ấp ủ những hy vọng mang lại lợi ích cho đất nước”. Đây là “những tiếng lòng” điều khiển hướng hành động của Pitt và phân biệt ông với các chính trị gia hàng đầu bấy giờ. Fox, đối thủ của ông, đã nghĩ “theo mọi quan điểm, đây là một nghề ưa thích trong hoạt động chính trị” và thú nhận năm 1804 rằng “quyền lực hiện giờ là một mục tiêu vô hình đối với ông”, trong khi đó Grenville khẳng định “khái niệm về sự phục vụ không giới hạn trong tình huống như của tôi không hề phù hợp với tâm trạng của tôi”. Khi nhiều mong muốn giằng xé tâm trạng thì mong muốn lãnh đạo luôn thắng thế trong con người Pitt. Ngoại trừ sự nản lòng khi lần đầu gặp thất bại tháng 1/1784, Pitt chưa bao giờ có ý niệm bỏ cuộc cho đến khi ông bất ngờ phải ra đi vào tháng 2/1801. Những ý nghĩ được kích động bởi điều sỉ nhục từ tình hình Ochakov trong năm 1791 đã nhanh chóng qua mau với lời biện minh là nó có thể ảnh hưởng đến quan điểm của Vua Anh, trong khi đó kế hoạch định thực hiện đầu tháng 6/1797 giao cho Addington chỉ được vạch ra để thuyết phục Pháp tiến tới những đàm phán hòa bình, và Pitt sẽ quay trở lại khi hòa bình được ký kết, nhưng kế hoạch đó đã nhanh chóng tan vỡ khi Pháp thể hiện mong muốn đàm phán với Pitt với tư cách là Thủ tướng.
Bước lên nắm quyền với kinh nghiệm quản lý chưa đầy 9 tháng và được bầu nhờ khả năng lãnh đạo Viện Bình dân, Pitt nhanh chóng chiếm được niềm tin của mọi người bởi ông là “con người vì công việc” đầy nhiệt huyết, điều này cũng là phần thưởng lớn cho chính phủ của Vua Anh. John Ehrman coi đặc điểm nổi trội của Pitt là tính hệ thống. Ông có thể tiếp cận các vấn đề, thận trọng tìm kiếm các sự kiện thực tế trước khi lập kế hoạch: Việc ông sử dụng những thông tin và biện pháp có tính hệ thống được coi là công cụ mang tính quyết định để đưa tinh thần hiện đại hóa và chuyên nghiệp hóa vào quy trình của chính phủ. Phong cách này đã thể hiện năng lực của ông. Ông có khả năng lĩnh hội thông tin thật phi thường. Theo Dundas thì “trí nhớ của Pitt tuyệt vời đến nỗi ông có thể nhận rõ bản chất của mọi thứ”, sự thấu hiểu vấn đề nhanh chóng đến mức “tường tận” và “tột bậc” của Pitt được nhiều người từng làm việc với ông ghi nhận. Có dịp làm việc với Pitt khi kê khai khoản tiền phải trả của Thái tử Wales, Cholmondely đã trầm trồ “thật khó tưởng tượng về khả năng tính toán rõ ràng và nhanh chóng của Pitt. Chỉ trong vài phút, ông đã tính toán và giải quyết xong tất cả các mục khiến tôi phải thán phục về khả năng của ông”. Douglas, thành viên Ủy ban Tài chính của chính phủ, khẳng định Pitt “có tài năng đặc biệt trong việc biến đổi văn bản mang tính thể thức như các báo cáo, các điều khoản luật… sang dạng ngắn gọn, tao nhã, chính xác và có chất lượng nhất”. Khả năng thẩm thấu các chi tiết được kết hợp với “trí nhớ phi thường” “chặt chẽ đến nỗi Pitt không bao giờ quên những điều đã được học”. Rõ ràng ông đã khai thác thế mạnh này. Douglas cho rằng cách thức mà Pitt nghe những lời đề nghị có vẻ “khó khăn và không mấy vô tư”, nhưng “những nghi ngờ và sự quan sát của ông thật sự là của một người tài giỏi đáng tin cậy”. Khả năng nắm bắt các chi tiết được thể hiện trong lời giải thích rõ ràng về các vấn đề quản lý và tài chính phức tạp tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về ông. Đầu năm 1785, quý bà Gower miêu tả “những người thông minh nhạy cảm” đã ngạc nhiên như thế nào khi nghe Pitt thể hiện “một vốn kiến thức quá hoàn thiện về thương mại, tài chính và chính phủ đến nỗi người ta có cảm tưởng đang được nghe một người có vốn kinh nghiệm 50 năm về những vấn đề này”.
Theo Wilberforce, tất cả những nhân vật nổi tiếng hoặc lãnh đạo của các cơ quan đều phải thừa nhận “Pitt là người… đơn giản nhất và dễ tính nhất mà họ từng trao đổi công việc”. Các bộ trưởng của Pitt cũng khẳng định tính tình nhã nhặn của ông. Pretyman ghi nhận “ông luôn bình thản, thoải mái trước những khiêu khích nặng nề, và tự kiềm chế tới mức mà tôi chưa thấy ở một người nào khác”; trong khi đó, Dacres Adams khẳng định “tất cả những lần tôi mắc khuyết điểm, chưa bao giờ Pitt có lời nói gay gắt hoặc cái nhìn khinh miệt, tất cả những gì tôi nhận được là lòng tốt và sự khoan dung”. John Fordyce là một viên chức có ấn tượng rất mạnh về “sự quan tâm trọn vẹn và khách quan mà Pitt dành cho mình”, còn Dudley Ryder đã mô tả “tài năng đặc biệt của Pitt là khiến mọi người có thể sẵn lòng đưa ra ý kiến của họ khi trò chuyện với ông, ông đã mở rộng tầm nhìn và phát triển nhận thức của họ”. Công việc đối với Pitt thật sự là một hoạt động xã hội. Ông ghét cay ghét đắng việc trao đổi qua thư từ và thích bàn trực tiếp các vấn đề với những người liên quan, tìm kiếm lời khuyên, thông tin và phổ biến những ý kiến của mình. Chẳng hạn năm 1784, Chánh án Tòa thượng thẩm được yêu cầu bàn luận 15 phút về bộ máy tư pháp của Ấn Độ. Hay năm 1788, khó xử trước một điều khoản trong cuộc đàm phán với Hà Lan, Pitt đã triệu tập Grenville với lý do “tôi không muốn tin vào quan điểm của chính mình, nó gần như là tất cả những gì mà tôi phải tin về vấn đề này trong thời điểm hiện nay. Do vậy, tôi rất sẵn lòng bàn luận vấn đề này với anh về tất cả những gì có thể”. Pitt thích làm việc càng dân dã càng tốt. Sau này, Dundas nhớ lại: “Khi giải quyết công việc của nhà nước hay lập kế hoạch… chúng tôi không bao giờ quay trở về Bộ để bàn bạc. Tất cả những vấn đề này được chúng tôi thảo luận và giải quyết hoặc là khi trên đường chạy bộ buổi sáng hoặc là khi đi dạo buổi tối ở Wimbledon. Chúng tôi đã quen với việc đi dạo buổi tối bắt đầu từ 8 giờ, cũng có khi là 10 giờ hoặc thậm chí là 11 giờ vào mùa hè”.
Khi Pitt đang trong thời kỳ huy hoàng nhất, một ngày của ông ở London bắt đầu rất sớm bằng việc đọc hoặc viết. Ông thường dùng bữa sáng lúc 9 giờ, thỉnh thoảng với những người quen mà ông cần bàn thảo công việc. Đôi lúc, theo như lời người phục vụ, ông mải mê công việc đến nỗi quên cả bữa sáng và tất nhiên ra khỏi nhà lúc 12 giờ mà không ăn gì. Khoảng giữa buổi, ông thường chạy bộ ở công viên, phần lớn thời gian còn lại ông dành cho các buổi phỏng vấn ở các ủy ban cho đến tận bữa tối lúc 5 giờ. Đây là lúc ông muốn nghỉ ngơi sau một ngày làm việc căng thẳng. Pitt ít khi ăn tối một mình, ông thường ngồi với một số người mà ông quý mến và kính trọng, “chăm chú lắng nghe những câu chuyện của họ cho tới giờ làm việc buổi tối”. Vị khách thường xuyên của Pitt là Pepper Arden, người đóng vai trò là chú hề thường gây cười trong thời gian Pitt rảnh rỗi. Pitt hưởng ứng nhiệt tình lời mời ăn tối cùng bạn bè. Trước khi áp lực của cuộc chiến tranh cuốn hút sự chú ý của ông, ông thường tới dự những cuộc hội họp thân mật vào buổi tối do phu nhân Công tước Gordon tổ chức. Tuy nhiên, công việc lại bắt đầu vào khoảng 9 giờ tối, sau khi ông đã quay trở về phòng, tắm mát thoải mái và tiếp tục làm việc đến khuya. Thông thường, các bộ trưởng và những người có vai trò tích cực trong công việc ở các vị trí xã hội khác nhau cũng tham dự cùng ông. Bức thư mà Pitt và Grenville viết ở phố Downing lúc 11 giờ đêm ngày thứ bảy năm 1786 đã giải thích cho Jenkinson rằng họ đang cùng xem xét tỉ mỉ bản dự thảo và hướng dẫn thực hiện Hiệp ước Thương mại với Pháp, đồng thời cần sự có mặt của Jenkinson trong thành phố càng sớm càng tốt vào ngày chủ nhật để bàn thảo về những nghi ngờ phát sinh.
Khi cần nghỉ ngơi hoặc phải ẩn dật để tập trung tâm trí vào các vấn đề đặc biệt, ban đầu Pitt thuê một ngôi biệt thự gần Putney và sau này, nếu không thể đi đâu xa, ông thường xuyên lui tới nhà của Dundas ở Wimbledon Common và đôi lần đến nhà Eliot ở Battersea Rise. Mùa thu năm 1785, Pitt đã mua căn nhà Holwood, cách thành phố London khoảng 240 km, không xa ngôi nhà cũ của gia đình Chatham ở Hayes, Kent. Pretyman viết: “Pitt thường trở về Holwood mỗi khi có cơ hội, thường có một hoặc hai người bạn về cùng, một số người ở văn phòng cũng cùng ông đến đó, công việc và nghỉ ngơi có thể đan xen nhau”. Ở đó, sau bữa sáng một ngày tháng 4/1790, Wilberforce cùng Pitt và Grenville “với dụng cụ tỉa cây trên tay, cắt tỉa những lối đi mới từ một cây to cho đến những cây khác, đến hết những bụi cây trong bãi trồng cây của khuôn viên nhà Holwood“. Đây là một ngôi nhà nhỏ nằm trên nền đất rộng khoảng 200 ha, nhưng Pitt đã thể hiện nhiệt tình của mình với nhiều đường nét kiến trúc và trồng cây, đồng thời mở rộng ngôi nhà để có đủ phòng cho bốn hoặc năm người bạn và mua thêm gấp đôi đất, quay mặt nhà ra đường và thiết kế các khu đất theo sở thích. Khu nhà này cách nhà của Auckland ở Beckenham khoảng 8 km. Sự gần gũi đó đã giúp Auckland trở thành cố vấn tài chính giá trị sau khi ông trở về từ Hà Lan năm 1793. Auckland được mời đến bất kỳ khi nào thích hợp hoặc tới giải quyết công việc buổi tối, thảo luận về thuế đầu năm 1796. Sự gần gũi của gia đình Auckland suýt nữa đã giúp Pitt lấy được vợ năm 1797. Khi được bổ nhiệm làm Quản lý Cụm cảng Cinque, Pitt được ban dinh thự Warden, nơi ông có thể mời bạn bè cùng tận hưởng bầu không khí vùng biển. Cũng chính tại dinh thự Warden, tháng 9/1793, Pitt đã có dịp nghỉ ngơi gần mười ngày để tận hưởng không khí và tập thể dục với Dundas. Tháng 10/1795, ông đến Walmer “trong một tuần hoặc mười ngày”, hy vọng sẽ trở về với tài khoản chuẩn bị được mở trước lễ Giáng sinh.
Mùa thu năm 1797, Pitt phát triển luật tài chính cơ bản. Ông quyết định tiến hành thay đổi cơ bản trong phương pháp tài trợ cho chiến tranh của mình − gồm cả hướng thay đổi hiệu quả đối với thuế thu nhập theo từng mức độ trong danh mục thuế sở hữu đất đai. Giữa tháng 9, Pitt hội ý kín với Bộ trưởng Tài chính George Rose ở khuôn viên nhà Holwood để bắt đầu lập kế hoạch. Mặc dù được gọi về London do đàm phán hòa bình của Lille thất bại, nhưng Pitt đã thực hiện được những bước tiến đáng kể trước khi hết tháng để mời Auckland tới dùng bữa tối ở Holwood nhằm đưa ra và thảo luận những nguyên tắc chung, đồng thời yêu cầu phát ngôn viên Addington đến trong vài ngày để “thông báo với tất cả mọi người những gì sẽ được nói ra”. Ngày 11/10, tại dinh thự Walmer, Pitt đã soạn dự án thật kỹ lưỡng trong hai trang giấy để gửi cho những người bạn thân như Addington và các chuyên gia tài chính như Liverpool xem xét. Ngày 25/10, ông gửi đề án tài chính đến tận năm 1801 tới các đồng sự như Grenville, chỉ ra cách đề án của mình sẽ được thực thi như thế nào nhằm giảm các khoản nợ quốc gia ngày càng lớn. Sau đó, ông cũng mở rộng việc thăm dò ý kiến tới cấp dưới trẻ tuổi là Canning để khẳng định lý lẽ của mình trước khi đệ trình đề nghị tới Viện Bình dân ngày 24/11. Pitt không giữ riêng kế hoạch cho mình. Ông hăm hở tìm kiếm sự phản hồi. Ông luôn tham khảo ý kiến của các chuyên gia. Ông lôi cuốn những môn đệ trẻ tuổi bằng chính cách thức mà ông chuẩn bị thảo luận những ý tưởng và nghi ngờ của mình với họ.
Wilberforce ghi nhận “nét đặc biệt trong tính cách của Pitt là ông thường có khả năng tập trung mọi suy nghĩ, sự chú ý và thời gian để bận rộn với một mục tiêu hoặc kế hoạch cụ thể mà sau đó ông sẽ nghĩ ra và mong muốn được đưa vào thực tế”. Khi phát triển kế hoạch Quỹ chìm tháng 9/1785, Pitt viết: “Tôi đam mê với dự án mà nó sẽ giúp giảm món nợ”. Nét tính cách mà nhiều người khâm phục chính là cách ông say mê một vấn đề nào đó, phát triển ý nghĩ của mình thông qua thảo luận với các chuyên gia và bạn bè, và khi đã nhìn thấy kết quả phía trước, ông nhiệt tình kéo nhiều người khác cùng vào cuộc. Wilberforce nhớ lại Pitt “thường đầy ắp những kế hoạch và trình bày chi tiết chúng cho người bạn có chuyên môn nghe với sự sôi nổi và khả năng bột phát của ông trong trường hợp đó”. Sự nhiệt tình của Pitt và niềm lạc quan không thể kìm được trong ông, những cái mà Dundas gọi là “sự háo hức hoặc tin tưởng thuộc về tâm tính”, đã khiến Pitt tiến sâu vào các lĩnh vực quản lý, thương mại, chế tạo hơn các vị thủ tướng khác, vào các lĩnh vực mà Wilberforce chán ghét và mô tả là “những vấn đề có chất lượng tầm thường và thấp kém như đánh thuế thuốc lá, rượu…”. Burges viết: “Tài năng, sự nhanh trí, sự bình tĩnh và cả tính chuyên cần đã hội tụ trong con người Pitt đủ để ông trở thành một Thủ tướng với đúng nghĩa”.
CHỈ ĐẠO PHỤC HỒI NỀN KINH TẾ ĐẤT NƯỚC
Mặc dù khi mới bước lên nắm quyền Pitt còn thiếu kinh nghiệm, song ông đã nhận thức được đầy đủ những vấn đề quản lý mà mình phải đối mặt. Ngay lập tức ông soạn thảo một Dự luật Ấn Độ thay cho dự luật của Fox-North. Ông đã sử dụng những đề nghị mà Dundas đưa ra năm trước nhằm củng cố hướng chỉ đạo tập trung của Ban Giám đốc Công ty Đông Ấn, chống lại phiên tòa về chủ sở hữu và hướng chỉ đạo tập trung của Toàn quyền và chế độ chính phủ do Thủ tướng điều hành để chống lại các ủy ban. Bây giờ Pitt cũng đưa công ty ra Ủy ban Kiểm soát do Vua Anh chỉ định, phụ trách các vấn đề của chính quyền quân sự và dân sự cũng như doanh thu của các vùng lãnh thổ Đông Ấn. Trong giai đoạn sự nghiệp này, Pitt thích tìm một phương sách mau chóng hơn là một giải pháp mang tính tổng thể. Trong khi dự luật đang được ban hành, Pitt sẵn sàng chấp nhận những sửa đổi của công ty vào tháng 1 và của phe đối lập vào tháng 7/1784. Bản thân ông cũng tự sửa đổi dự luật trong năm 1786 nhằm củng cố quyền lực của Toàn quyền do Vua Anh chỉ định và cố gắng đưa dự luật đi xa hơn năm 1788, làm cho mọi người hiểu rõ hơn quyền của Ủy ban Kiểm soát nhằm chỉ dẫn việc thanh toán những chi phí mà công ty phải chịu để bảo đảm an ninh của Ấn Độ. Trên thực tế, chính phủ của Pitt cũng như chính phủ của những người tiền nhiệm đều xâm phạm các quyền của Công ty Đông Ấn. Các vấn đề của Ấn Độ vẫn mang màu sắc chính trị − Bộ Liên minh của Pitt bị chia rẽ do cách chỉ đạo của cựu Toàn quyền Warren Hastings, và Đạo luật Giải thích năm 1788 của Pitt đã bị chỉ trích gay gắt ở Viện Bình dân, nhưng bản chất thỏa hiệp của dự luật năm 1784 và cách sửa đổi không theo thể thức sau đó đã làm lắng dịu vấn đề Ấn Độ vẫn được coi là vấn đề chính trị trọng tâm. Cá nhân Pitt rất ít quan tâm đến Ấn Độ. Chỉ trong khoảng những năm 1787-1789 và 1791, ông mới tham dự hơn một nửa các cuộc họp của Ủy ban Kiểm soát. Ông tạm bằng lòng nhường quyền điều hành Ủy ban cho Dundas, và quyền lực của Dundas được khẳng định khi ông này trở thành Chủ tịch thứ nhất của Ủy ban Kiểm soát năm 1793.
Khi Dự luật Ấn Độ của Pitt được thông qua, ông nhận thấy tình hình ở Ireland “là quan trọng và tế nhị nhất mà giờ đây chúng ta phải tham gia”. Trong suốt thời gian ngừng họp nghị viện, Pitt đã có thời gian để tìm kiếm một giải pháp mang tính hệ thống. Cần phải thiết lập các nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối với Ireland để làm cơ sở cho một hệ thống cố định. Pitt đã bày tỏ với Quan đại diện nhà vua ở đây “mong muốn vĩ đại” của ông là “tất cả những vấn đề đáng lưu tâm phải được xem xét riêng với tư cách là mắt xích của một hệ thống tổng thể, phải được Nội các quyết định rất lâu trước khi Nghị viện của một trong hai nước nhóm họp”. Các đề xuất thương mại ở Ireland của Pitt năm 1785 đã cố gắng đưa ra câu trả lời làm thế nào phục hồi lợi ích của Anh và Ireland để sau này có một khu bán tự trị trong thời gian Chiến tranh Hoa Kỳ. Tuy nhiên, kế hoạch chính của Pitt đã thất bại khi ông làm nó trở nên quá phức tạp. Grenville than vãn: “Chẳng sáng sủa hơn chút nào. Pitt đã cố gắng xóa bỏ mọi nghi ngờ, dự đoán bằng cách lập thành điều khoản tất cả những điểm còn lúng túng trên thực tế để sau đó có thể sẽ dẫn đến một sự sắp xếp lớn, ông nỗ lực dàn xếp mọi vấn đề dù bản chất xung khắc, đó là hợp nhất các điều luật thương mại và phân chia quyền lực tối cao”. Tất cả mọi người đều tìm thấy một điều gì đó để phản đối trong những điều khoản được soạn thảo chi tiết − những điều khoản nhằm cố gắng đáp lại sự phản đối của tất cả mọi người.
Giải pháp đầu tiên về Ấn Độ chỉ thành công một phần, còn giải pháp đối với Ireland lại thất bại, nhưng cuối cùng Pitt vẫn chiếm được uy tín điều hành nhờ giải quyết thành công vấn đề lớn thứ ba, đó là khôi phục niềm tin của dân chúng đối với nguồn tài chính quốc gia. Bộ Tài chính là nơi mà Pitt có kinh nghiệm, nhưng ông vẫn phải trải nghiệm đủ để chuẩn bị xử trí mọi vấn đề ngay lập tức, và ông đã lao vào những vấn đề đó với nghị lực dồi dào của tuổi trẻ. Pretyman cho rằng sự quyết đoán và khả năng tiềm tàng là một phần nổi bật trong tính cách của Pitt. “Khi ở giai đoạn sung sức, ông không bao giờ nản lòng trước bất kỳ mối nguy hiểm nào, dù cho đó là sự đe dọa hoặc trước những xáo trộn nào dù là đau buồn, ông đều hành động nhất quán với sự nhiệt tình và quyết đoán được suy xét tỉ mỉ để đẩy lùi hoặc giảm bớt tai ương. Pitt đã vượt qua mọi khó khăn với danh dự đáng tự hào và uy tín ngày càng nâng cao”.
Tình hình tài chính phù hợp lý tưởng với khả năng của Pitt. Ông thu thập được rất nhiều ý kiến và thông tin từ các buổi thảo luận cải tổ đã diễn ra ít nhất là trong một thập kỷ. North, người mà Pitt rất xem thường, nay đã là một nhà lãnh đạo tích cực của Bộ Tài chính. Ông ta từng bước phát triển khả năng của các nhân sự trong Bộ, bắt đầu các kế hoạch củng cố thuế xuất nhập khẩu, thuế đánh vào các mặt hàng trong nội địa và lệ phí chứng từ, rồi năm 1780 thiết lập Ủy ban Nghị viện do luật pháp quy định nhằm kiểm tra các khoản chi công cộng. Tính đến năm 1787, ủy ban này đã công bố 15 báo cáo. Báo cáo thứ 11 được công bố hai tuần trước khi Pitt nhậm chức, thông báo sự cần thiết phải giảm khoản nợ quốc gia, được mô tả như một văn bản mà chính sách kinh tế và tài chính của Pitt phải căn cứ vào đó. Pitt đã hỗ trợ Shelburne trong đợt phát động chung nhằm tăng sự kiểm soát và quản lý tiền cũng như khả năng của chính phủ. Thậm chí Liên minh Fox-North vốn hay bị chỉ trích cũng thành lập một Ủy ban Nghị viện để thẩm tra tình hình buôn lậu.
Tất cả những điều này Pitt đều biết rõ. Ông cũng tham khảo ý kiến của một số nhà chức trách ngoài chính phủ như Tiến sĩ Price, Adam Smith và các chuyên gia trong chính phủ. Ví dụ, đối với dự án Quỹ chìm, Pitt đã có báo cáo thứ 11 của Ủy ban Kế toán Công cộng của North thay thế và ba cuốn sách của Tiến sĩ Price, người vẫn trao đổi và cung cấp cho Pitt bốn kế hoạch thay thế, cùng một loạt các đề nghị được gửi tới Bộ Tài chính và kế hoạch ngắn đối với Pháp năm 1785. Những đề nghị của Price đã được hoàn thiện qua các buổi thảo luận với bạn bè và các cố vấn như Pretyman (sau này là thư ký của ông), Grenville và tất nhiên, trong số những người bạn trước đây có cả Mahon, còn sau này có Jenkinson − người đã gửi bản sao tháng 1/1786 đề nghị Pitt cân nhắc và tòa án phải có một lệnh nhằm duy trì tính bảo mật tối đa, George Rose ở Bộ Tài chính, Richard Frewin ở ngành Hải quan, hay nhà toán học của trường Đại học Cambridge là George Atwood cũng được mời đến để “sửa đổi kế hoạch… cho hệ thống và trật tự”.
Những vấn đề tài chính Anh đã buộc Pitt phải hành động nhanh và quyết liệt. Năm 1783, ông nhậm chức khi thu nhập quốc gia là 12,7 triệu bảng và lượng chi tiêu trong nước là 23,5 triệu bảng. Khoản nợ quốc gia dài hạn đã tăng mạnh từ 124,3 triệu bảng trước khi bắt đầu Chiến tranh Hoa Kỳ lên tới 213 triệu bảng, khoản vay ngắn hạn cũng hơn 19 triệu bảng. Ưu tiên trước mắt của Pitt là thanh toán những khoản tiền thiếu hụt hiện tại để tránh mắc nợ thêm, thanh toán hoàn toàn những món nợ ngắn hạn và xây dựng số thặng dư giữa thu nhập và chi tiêu để giảm bớt số nợ dài hạn.
Những nỗ lực tăng nguồn thu nhập giới hạn trong sự ưu đãi của nhà nước là đánh thuế gián tiếp đối với các hạng mục hàng hóa tiêu thụ chứ không đánh thuế trực tiếp vào thu nhập. Pitt tin tưởng rằng những giới hạn có thể chấp nhận được về việc đánh thuế gián tiếp sẽ có thể đạt tới được. Ông tiếp tục thực hiện các phương pháp truyền thống là đánh thuế nhẹ đối với lợi ích của người tiêu dùng trong những năm 1784 1786, triển khai thành công việc đánh thuế bằng phương pháp thử và sai, nhưng vì thực hiện điều đó, ông đã mất đi sự ủng hộ của dân chúng. Ông đã quyết định hủy bỏ một số loại thuế do vấp phải sự phản đối của dân chúng (như thuế đánh vào mặt hàng dây ruy băng của các quý bà, thuế đánh vào người trồng cây hublông, thuế đánh ở cổng mỏ của các mỏ than năm 1784 và thuế đánh vào mặt hàng bông sợi năm 1785). Pitt đã thu thêm được 900.000 bảng cần thiết để sung công quỹ, vừa khắc phục được những khoản thiếu hụt năm 1784, vừa trang trải được hầu hết các khoản nợ ngắn hạn còn tồn đọng. Một quyết định mạo hiểm hơn mà ông thực hiện là theo sát các cuộc điều tra trước đây về các mặt hàng thường bị buôn lậu, giảm thuế hải quan các mặt hàng này với hy vọng bảo đảm việc tăng lâu dài khoản lợi tức từ buôn bán hợp pháp. Hình thức này đã được thử nghiệm thành công với mặt hàng chè nhờ Đạo luật Tiền thế năm 1784, mở rộng đối với rượu rum năm 1785, đối với rượu thường và rượu mạnh trong Hiệp ước Thương mại với Pháp năm 1786.
Kể từ khi triển khai thu lợi nhuận từ việc đánh thuế hiện có, Pitt cũng tìm kiếm giải pháp tăng ngân sách quốc gia bằng việc tăng hiệu lực thu thuế. Thuế hải quan được củng cố bằng Đạo luật Hovering năm 1784, mở rộng quyền tìm kiếm các tàu ngoài khơi của ngành Hải quan bằng Đạo luật Kê khai hàng hóa trên tàu năm 1786 và đơn giản hóa các thủ tục của ngành hải quan năm 1787. Một quyết định gây nhiều tranh cãi chính trị nữa là việc Pitt chuyển một số loại thuế sang danh mục thuế đánh vào các mặt hàng sản xuất trong nước, bắt đầu từ rượu thường và rượu mạnh năm 1786. Việc chuyển từ danh mục đánh thuế các mặt hàng sản xuất trong nước và lệ phí chứng từ năm 1785 đã tập trung việc thu thuế định mức ở danh mục thuế đánh vào các mặt hàng rẻ tiền. Cùng năm đó, trong thời gian ngắn ở Bộ Tài chính, Pitt đã tổ chức lại việc thu thuế địa phương, tiến hành xem xét chặt chẽ lai lịch, chuyên môn và đào tạo nhân viên thuế quan, cấm sử dụng người đại diện (cấp phó), mở rộng số lượng các giám sát viên nhằm bãi bỏ chế độ tổng thanh tra, thiết lập một hệ thống xúc tiến và bảo đảm giám sát bằng một ban giám sát mới thuộc Cục thuế của London. Tất cả các biện pháp này đã giúp tăng nguồn ngân sách quốc gia, mà theo Pitt là tăng khoảng 4 triệu bảng kể từ năm 1783 (những tính toán sau này là gần 6 triệu bảng). Theo Pitt, trong số này có trên 1 triệu bảng là do tăng thu thuế các mặt hàng mới, khoảng 1 triệu bảng là nhờ các biện pháp chống buôn lậu và gian lận, 2 triệu bảng là khoản tăng chung trong nền kinh tế đất nước. Pitt đã khiêm tốn nói giảm vai trò của mình trong việc thiết lập lại niềm tin tài chính khi đề cập đến Hiệp ước Thương mại năm 1786 với Pháp. Tuy nhiên, ông đặt niềm tin vào sự phát triển nhanh chóng không ngờ của ngành mậu dịch ở Anh sau Chiến tranh Hoa Kỳ, khi mọi người đều có tinh thần dám nghĩ dám làm và hệ thống tín dụng, tích lũy tư bản của Anh ngày càng lớn mạnh không ngừng, được khuyến khích bởi sự ổn định trong nước và tuân thủ theo một hiến pháp đúng đắn.
Bên cạnh nỗ lực tăng nguồn thu nhập, Pitt cũng tìm kiếm các giải pháp cắt giảm chi tiêu mà không gây nguy hại cho chính phủ nhằm đạt được số thặng dư, đáp ứng được ưu tiên cơ bản của ông lúc này là giảm các khoản nợ quốc gia. Số tiền tiết kiệm thu được rất nhanh từ việc giảm bớt lực lượng vũ trang sau Chiến tranh Hoa Kỳ, mặc dù Pitt đã có một quyết định can đảm là không cắt giảm đến mức có thể phải xây dựng lại hạm đội. Năm 1786, Pitt thành lập Cơ quan Phụ trách đồ dùng văn phòng nhằm xóa bỏ con số 40.000 bảng mà theo ông là các cơ quan chính phủ để lãng phí trong lĩnh vực này. Ông cố gắng tăng khoản cho vay năm 1784 với lãi suất càng thấp càng tốt bằng cách đề nghị các nhà đầu tư cạnh tranh không được công bố công khai, một hệ thống mà cả North và Shelburne đều khao khát. Pitt cũng thực hiện tiết kiệm bằng cách giảm bớt những chức vụ được trả lương cao và giảm tiền trợ cấp lương hưu, mặc dù ông cũng sớm nhận ra như vậy sẽ phải chịu trả giá quá đắt cả về kinh tế lẫn chính trị.
Tất cả những việc làm này là sự chuẩn bị cần thiết cho kế hoạch lập Quỹ chìm. Tháng 4/1785, Pitt có thể phát biểu trước Viện Bình dân rằng ông mong đợi có khoản tiền thặng dư là 1 triệu bảng vào năm sau và dự định sẽ dùng số tiền đó vào mục đích giảm khoản nợ quốc gia dài hạn. Nếu từ trước đến giờ ông có thể nghĩ ra một hệ thống chi phối hướng chỉ đạo trong tương lai của mình thì hệ thống đó chính là Quỹ chìm. Việc khôi phục và duy trì hệ thống tín dụng, thông qua sự tin tưởng vào khả năng của Quỹ chìm để kiềm chế và cuối cùng là thanh toán nợ quốc gia đã trở thành cơ sở cho chính sách kinh tế và tài chính của Pitt. Khi đưa ra kế hoạch của mình năm 1786, Pitt tuyên bố rằng tất cả mọi hy vọng của dân chúng “về sự thịnh vượng và an ninh công cộng, nhân tố tạo niềm tin và động lực trong buôn bán và thương mại, tạo tiền đề cho sự phát triển của đất nước” sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự thành công của kế hoạch này. Niềm tin vào một hệ thống tín dụng công cộng an toàn là yếu tố quyết định đối với niềm tin vào tín dụng tư nhân như ông khẳng định khi mở rộng kế hoạch năm 1792: “Về cơ bản là hướng tới việc tăng cường tính ưu việt trong thương mại của đất nước”.
Ý tưởng thành lập Quỹ chìm để giảm các món nợ được Walpole đề xuất năm 1716, nhưng Pitt đã biến đổi nó theo hai cách. Trong khi Walpole và những người kế nhiệm ông ta sử dụng quỹ cho những mục đích khác thì Pitt lại thực hiện những đề xuất của Price mà gần đây người Pháp đã thử nghiệm, đó là giao quỹ cho một ủy ban quản lý với cam kết pháp lý là chú ý đến mục tiêu xây dựng quỹ. Thứ hai, Pitt chấp nhận ý kiến mà Price thúc ép từ năm 1772 là tái đầu tư số tiền lãi vào quỹ để trang trải nợ, tạo khả năng phát triển quỹ vì mục đích chung (Pitt tuyên bố, đầu tư hàng năm của ông là 1 triệu bảng sẽ tích lũy đến 4 triệu bảng mỗi năm trong 28 năm), do đó, quỹ tăng nhanh sẽ đáp ứng được yêu cầu trả hết nợ. Niềm tin của dân chúng đối với tài chính trong nước sẽ được khôi phục nhờ nợ quốc gia được trả đúng theo luật. Triển khai thực hiện trong tháng 5/1786, biện pháp này đã giúp ông nhận được sự ủng hộ rộng rãi của dư luận. Ông tiếp tục thực hiện vào tháng 4/1787 với việc đơn giản hóa hệ thống thanh toán của kho bạc nhà nước. Pitt đã lập một danh sách ưu tiên số tiền phải trả từ quỹ chính phủ cho việc trả lãi công trái quốc gia, với mục đích đầu tiên là thanh toán nợ quốc gia, tiếp đến là thanh toán tiền mà Nghị viện cấp cho Vua Anh, và cuối cùng là thanh toán những khoản chi tiêu hàng năm của Nghị viện. Đạo luật gồm 2.357 điều khoản riêng do Pitt đưa ra được thông qua. Tính chất quan trọng của nhiệm vụ đã khiến các bộ trưởng tài chính trước đây nhụt chí, nhưng ý chí và uy thế ngày càng tăng của Pitt trước Nghị viện đối với các vấn đề tài chính đã bảo đảm một vị trí vững chắc cho ông.
NGƯỜI MANG TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH HAY NGƯỜI BẮT BUỘC PHẢI CẢI TIẾN?
Tuy nhiên, sau đó, đà phát triển của Pitt lại bắt đầu chậm lại. Trong số 15 báo cáo của Ủy ban Kế toán Công cộng, Pitt đã đáp lại 3 báo cáo năm 1785, thay thế các kiểm toán viên bằng Ủy ban Pháp lý phụ trách kiểm tra sổ sách của Kế toán Công cộng, quy định vị trí Thủ quỹ của Hải quân Anh và thiết lập một Ủy ban Hội đồng Cơ mật nhằm giám sát tất cả các văn phòng công cộng. Năm 1786, Quỹ chìm của Pitt đã đáp lại báo cáo thứ 11 của Ủy ban, nhưng sau khi hoàn tất báo cáo thứ 15 của mình năm 1787, Ủy ban đã không thực hiện thêm báo cáo nào nữa và phải giải tán. Ủy ban phụ trách các khoản lệ phí đã kiểm tra 10 trong số 24 văn phòng trước khi nó bị giải tán năm 1789 và các báo cáo đã hoàn tất của ủy ban này bị xếp xó. Sau khi Pitt lên nắm quyền, không có các cuộc tấn công chính diện về vị trí ngồi mát ăn bát vàng. Nhưng thực tế, do thiếu những bước thực thi luật pháp mạnh mẽ sau chính sách cải tổ kinh tế ban đầu và sau những dự luật cải tổ Nghị viện của mình, Pitt đã bị chỉ trích về cam kết cải tổ. Liệu ông có phải là người từ bỏ tư tưởng cải tổ để duy trì sự ủng hộ của Vua Anh và nắm giữ vị trí của mình như Fox nghĩ? Liệu những ý tưởng cải tổ của ông có bị vẩn đục do liên kết với “những chính trị gia thương mại” về cách suy nghĩ và hành động như Wilberforce tin tưởng? Phải chăng tư tưởng cải tổ của ông có chiều hướng phản động từ Cách mạng Pháp, như Henry Brougham, John Russell và Macaulay − những người theo Đảng Whig thế kỷ XIX khẳng định?
Những cách suy diễn này đều bắt nguồn từ việc mọi người lầm tưởng về thời kỳ đầu của Pitt. Họ tập trung xoáy vào hành động của ông đầu những năm 1780 (Pitt ủng hộ cải tổ Nghị viện), và điều mà họ hiểu sai là Dự luật Thương mại mà Pitt tán đồng. Vấn đề đối với những người theo Đảng Whig thế kỷ XIX và các sử gia là họ thường phán xét Pitt ở góc độ những nhà cải cách thế kỷ XIX. Tuy nhiên, Pitt là sản phẩm của những truyền thống thế kỷ XVIII. Pitt cùng chung tư tưởng của một người yêu nước thực thụ được mô tả trong bài luận Essay on Patriotism (Bàn về chủ nghĩa yêu nước) năm 1768, với “những cố gắng vừa phải để sửa đổi những gì được coi là lộn xộn và thối nát có thể len lỏi vào luật pháp hoặc hiến pháp”. Đây không phải là viễn cảnh tiến tới những thay đổi triệt để. Pitt vẫn thường tin tưởng rằng hiến pháp của Anh là tốt nhất trên thế giới. Nó đã mang lại cho nước Anh sự thịnh vượng trước thời điểm Chiến tranh Hoa Kỳ, giúp đất nước hồi phục tăng trưởng sau những nỗ lực thoát khỏi cuộc khủng hoảng. Với sự cân bằng hợp lý các thành phần chống đối, nó là khởi nguồn của sức mạnh và sinh lực để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, được nuôi dưỡng và quý trọng. Trong bài phát biểu năm 1792, theo Pitt: “Vì chúng tôi hiểu hiến pháp của chúng tôi thực tế đã bảo vệ được hòa bình và sự thịnh vượng của các cá nhân cũng như tập thể, nó vượt khỏi khuôn khổ của bất kỳ một chính phủ đã tồn tại nào, bảo đảm mục tiêu thực tế và hữu dụng của chính trị xã hội”. Mục tiêu của Pitt, như ông đã trình bày trước Nghị viện khi ủng hộ cải tổ Nghị viện năm 1783, “không phải là đổi mới, mà đúng hơn là làm mới và tiếp sinh lực cho tinh thần của hiến pháp, không đi chệch hướng cốt yếu so với thể thức hiện tại”. Năm 1791, Pitt vẫn ”giữ quan điểm cho rằng hiến pháp của Anh có thể được cải thiện và sửa đổi từng bước ở một vài điều khoản”, nhưng mọi sự đổi mới hiến pháp như vậy phải được trù tính nhằm giữ cân bằng quyền lực và có thể tiến xa hơn hoặc chậm phát triển ở những mặt mà sự cân bằng quyền lực đó bị đe dọa nhiều nhất.
Một đêm không ngủ đã khiến ông thấy cần phải thực hiện những nỗ lực sửa đổi lại toàn bộ hệ thống hiến pháp. Đây cũng là nét tính cách của ông. Trong thời gian rảnh rỗi, công việc yêu thích của Pitt là kiến trúc và nghệ thuật xây dựng vườn hoa, công viên − niềm đam mê mà ông được thừa hưởng từ người cha, ông chính là “một nhà cải tiến” có xu hướng bắt buộc. Sau này, Pretyman, giảng viên trường Cambridge, nhớ lại, ngay từ khi còn rất nhỏ, Pitt đã thích “giải trí bằng việc vẽ thiết kế ngôi nhà tốt nhất có thể”, và sau chuyến tham quan những tòa nhà vĩ đại của Norfolk thế kỷ XVII, “Pitt đã nhớ lại và vẽ thiết kế của một ngôi nhà lớn nhất mà chúng tôi đã đến tham quan với ý tưởng sửa chữa nó”. Về sau, bà Hester Stanhope hồi tưởng, khi “nghe Pitt nói rằng cậu ấy chưa bao giờ nhìn thấy một tòa nhà, một ngôi nhà tranh hay một khu vườn mà cậu thích, nhưng ngay lập tức cậu nghĩ ra phương án cải tiến chúng trong đầu mình”. Những nét tính cách này không hề mất đi khi ông lãnh đạo chính phủ và nó còn được áp dụng trong mọi vấn đề đến trước mắt.
Tuy nhiên, việc đưa những ý tưởng cải tiến đó vào thực tế lại là một vấn đề khác. Khi áp lực bắt buộc phải có những hành động cải tiến để khắc phục hậu quả Chiến tranh Hoa Kỳ giảm xuống và bắt đầu hồi phục đất nước, thì Pitt lại dễ bộc lộ những mặt trái trong nét tính cách của ông, ngăn cản những nhận thức thực tế về kế hoạch phát triển của chính ông. Burges thừa nhận “Pitt mau lẹ và có quyết định này từ thời điểm đầu tiên nhìn nhận vấn đề”, nhưng “ông cũng rất dễ bị chệch hướng”. Sau này, Thư ký Viện Bình dân Hatsell phàn nàn: “Thật là tai họa trong nét tính cách của Pitt, ông hăng hái và nghiêm túc đưa ra các biện pháp, và chẳng bao lâu lại xóa bỏ nó”. Trong con người Pitt có hai tốc độ đối nghịch nhau, nhanh hoặc chậm, và hai tâm trạng đó là nhiệt tình lạc quan hoặc chần chừ, không dứt khoát.
Pitt phải đối mặt với những cản trở đối với “sự cải tiến”: những thành kiến của thế kỷ XVIII nhuốm đầy cách làm việc theo phong tục tập quán và vẫn không được thay đổi khi tiến hành cải tổ thiết thực trong thế kỷ XIX; sự trì trệ của bộ máy quan liêu theo kiểu quý tộc được xây dựng trên sự bảo trợ và bổng lộc; có ít nhân vật tích cực lãnh đạo đất nước, do vậy, bộ máy chính quyền êm ả có thể bị xâm phạm bởi những thay đổi lộn xộn và phản ứng của người dân đối với những thay đổi đó; Thủ tướng thiếu quyền lực trực tiếp để chỉ đạo những người đứng đầu các bộ − những người được Vua Anh bổ nhiệm và hy vọng đáp ứng được mong đợi của ngài, họ có thể điều hành các bộ theo cách mà họ thấy là phù hợp. Đây là những trở ngại ghê gớm, và đối với Pitt, nó còn khó khăn hơn rất nhiều khi ông muốn khắc phục những điều đó.
Mục tiêu đầu tiên và cao nhất của Pitt là bảo đảm được số thặng dư ngân sách nhằm giảm và sau đó là thanh toán hoàn toàn món nợ quốc gia. Tất cả những mục tiêu cải tổ khác đều gắn với những cam kết đầu tiên này. Những thay đổi về chính quyền cũng phải hướng theo mục tiêu đó và sẽ không được đẩy nhanh nếu nó mâu thuẫn với mục tiêu. Cụ thể, một số địa vị bổng lộc được ban bởi giấy môn bài của Vua Anh và được coi là tài sản không thể được lấy đi tùy tiện. Việc sa thải hai nhân viên kiểm toán năm 1785 do Ủy ban Kế toán Công cộng đề xuất cũng tốn 7.000 bảng để bồi thường cho mỗi người, và phải tốn thêm 10.000 bảng để trả lương cho các nhân viên ở ban thay thế họ. Khi Ủy ban Kế toán Công cộng chuyển sang ngành hải quan và năm 1786 đề xuất hủy bỏ 180 vị trí ngồi mát ăn bát vàng nhằm tiết kiệm 31.430 bảng, Pitt đã chọn phương án ít tốn kém hơn là làm tiêu hao dần. Đến cuối năm 1792, chỉ có một vị trí bị hủy bỏ và 28 vị trí khác bỏ trống do những người giữ chức vụ đó từ chức hoặc chết. Một ủy ban được thành lập năm 1789 để điều tra về khoản chi trả lệ phí cho các nhân viên hải quan năm 1791 cũng được đề nghị giải tán và thay vào đó là trả lương bồi thường, nhưng với chi phí lên tới 127.247 bảng. Với khoản thặng dư tài chính lúc đó, năm 1792, Pitt soạn thảo dự luật chấm dứt trả tiền công cho những nhân viên ở cảng ngoài với kinh phí là 45.000 bảng, nhưng khi Pitt phải chi cho chiến tranh vào năm sau (1793), dự án đó đã bị xếp xó.
Pitt không phải là một nhà lý luận cố chấp, cũng không phải là một nhà cải cách có hệ thống và tập trung. Ông sẵn sàng có cách nhìn tiến bộ đối với bất kỳ vấn đề nào trước mắt, và khi niềm tin của ông được nâng cao, ông bắt đầu can thiệp vào nhiều công việc của chính phủ hơn trong những năm 1780, do đó, những mối quan tâm của ông được mở rộng và củng cố. Năm 1784, Charles Middleton, một nhà quản lý hải quan có tư tưởng cải cách, đề nghị Pitt can thiệp với Bộ trưởng Hải quân, Pitt đã phản ứng rằng “từ những gì tôi cảm nhận khi đứng ở địa vị của Howe cũng như từ niềm tin cá nhân đối với những gì ông ấy được quyền làm, tôi không thể can thiệp theo cách mà anh mong muốn”. Tuy nhiên, đến năm 1787, Pitt lại rất quyết đoán khi ngăn cản Howe cách chức Middleton. Năm sau, Buckingham nói Pitt là “quá mải mê với tất cả các công việc của chính phủ” và tất nhiên là can thiệp vào công việc của các chức vụ chính. Giải thích về sự cần thiết phải để một đồng sự gần gũi của ông là Dundas, người đứng đầu Bộ Chiến tranh năm 1794, Pitt tuyên bố với đồng minh mới thay thế của mình là Portland rằng “tôi không thể hài lòng khi để Bộ đó được đặt dưới cách quản lý riêng của anh ta”.
Tuy nhiên, việc Pitt có thiên hướng ngày càng thích can thiệp như vậy đã khiến ông bất đồng quan điểm với lãnh đạo của các bộ: với Bộ trưởng Bưu điện khi năm 1784 Pitt buộc Bộ Bưu điện chấp nhận hệ thống toa chở thư của John Palmer, một hệ thống có thể tạo khả năng giúp ông tăng ngân sách nhờ tăng lệ phí thư; hay bất đồng với Bộ trưởng Hải quân khi ông ủng hộ đề xuất cải tổ Bộ Hải quân và các xưởng sửa chữa đóng tàu của hải quân. Bất đồng thứ nhất khiến ông phải sa thải Bộ trưởng Bưu điện hay gây cản trở nhất, người đã trả đũa Pitt bằng cách kêu gọi Nghị viện điều tra những hành động mập mờ của Bộ Bưu điện mà Pitt đã cố lảng tránh năm 1787. Bất đồng thứ hai khiến Howe phải từ chức năm 1788, sau đó là Middleton phải từ chức năm 1791.
Năm 1785, Pitt thành lập Ủy ban Kiểm soát các khoản lệ phí, với thẩm quyền chủ yếu là thực hiện theo Dự luật Văn phòng công cộng năm 1783 của Pitt, vốn đã chết yểu, nhưng chịu trách nhiệm trước Hội đồng Cơ mật chứ không phải trước Nghị viện. Điều này được coi là một dấu hiệu đáng tin cậy cho thấy Pitt đang cố gắng kiểm soát việc cải tổ chứ không hề có ý định từ bỏ sáng kiến cải tổ Nghị viện kể từ khi những đề nghị cải tổ Nghị viện trước đây của ông bị thất bại. Đây là chiến thuật mà ông sử dụng để hạn chế buôn bán nô lệ sau khi những nỗ lực hợp lệ của ông bị đánh bại ở Nghị viện những năm 1790. Ủy ban này cũng lưu ý đến những đề xuất không gây phát sinh nhiều chi phí, do vậy Pitt sẵn lòng đổi mới ủy ban trong hai năm tiếp theo, với ý định là thu được những báo cáo tổng thể theo đánh giá của Hội đồng Cơ mật. Tuy nhiên, báo cáo của Bộ Bưu điện đã thay đổi tất cả, và Pitt đã xếp xó nó cùng với một số báo cáo khác, ông cho phép ủy ban giải tán.
Những dự án khác nhau được Pitt tán đồng, giữa chúng dù không có những bất đồng chính trị nhưng chắc chắn là có xung đột về nhu cầu. Như đã thấy, Pitt thích đắm chìm vào một vấn đề ở một thời điểm và khi Nghị viện đang họp có chiều hướng ủng hộ. Điều này có thể gây nên những ảnh hưởng tai hại. Điều tra của Viện Bình dân đối với các tầng lớp xã hội cấp tiến tháng 4/1794 đã trì hoãn việc chi trả khoản đầu tiên trong số tiền trợ cấp cho nước Phổ. Các cuộc tranh cãi hòa bình ở phiên họp đầu tháng 1/1795 đã khiến Pitt rối bời do cuộc khủng hoảng của Fitzwilliam nổ ra ở Ireland. Windham, người cố gắng theo đuổi một quyết định về chế độ quân chủ ở Pháp, cuối năm 1797 cầu xin “Pitt chú ý trước khi kết thúc phiên họp Nghị viện”, và những cuộc thảo luận gay gắt tiếp theo về các loại thuế, như Dundas khẳng định, đã dẫn đến một sự lơ là đáng buồn của Pitt đối với tất cả các vấn đề khác, trong đó có cả việc lập kế hoạch phòng thủ đất nước. Các bộ trưởng và các quan chức thì tranh giành nhau sự chú ý của Pitt. Con gái của Rose nhớ lại cha cô đã giận dữ như thế nào khi “ông không thể khiến Pitt chú ý đến công việc mà ông trực tiếp quản lý ở Viện Bình dân”. Tuy nhiên, ngay cả khi đã được Pitt chú ý, thì cơ hội mà ông đã làm với Dundas và Charles Grant ở Wimbledon mùa hè năm 1792 là đóng cửa trong mười ngày để nghiền ngẫm vấn đề về khoản thu trên đất liền ở Bengal cũng hiếm khi gặp – tất nhiên là chỉ một hoặc hai lần trong năm.
NHỮNG HẠN CHẾ CÁ NHÂN CỦA PITT – CON NGƯỜI VÌ CÔNG VIỆC
Phương pháp quản lý của Pitt cũng rất riêng, nhịp nhàng uyển chuyển khiến công việc diễn ra rất suôn sẻ. Có rất nhiều điều ông thực hiện không theo quy định. Những lá thư thì vẫn chưa được trả lời, tài liệu của ông thì vứt bừa bộn. Anh họ của ông, Grenville, đã làm một cuộc cách mạng về cách thu nhận thông tin ở Bộ Nội vụ và sau đó là ở Bộ Ngoại giao nhờ sử dụng một người viết tóm tắt thông tin, nhưng theo như Douglas được biết, Pitt “sẽ không chịu để ai sắp xếp các chồng tài liệu của mình và lưu ý những điểm quan trọng cho ông”. Đặc phái viên người Nga Vonrontsov khi cho phép Grenville chỉ những tài liệu bí mật cho Pitt xem đã đề nghị Grenville không để chúng ở chỗ Pitt vì “ông ấy không thể tìm lại chúng chỉ sau một ngày, giữa những chồng giấy tờ khổng lồ ngổn ngang trên bàn ghế được gửi đến từ mọi nơi”. Pitt thích giải quyết công việc trực tiếp hơn là qua thư từ, nhưng lại không lưu giữ biên bản của các buổi làm việc. Phần lớn rắc rối trong vụ Fitzwilliam là do ông không lưu lại những cam kết của cuộc họp ngày 15/11. Douglas phàn nàn rằng Pitt không có một biên bản nào về các cuộc họp không chính thức mà ông đã triệu tập để vạch ra hướng liên minh với Ireland, ông không bao giờ coi việc làm đó là thủ tục chính thức mà Ủy ban Hội đồng Cơ mật yêu cầu, thậm chí ông chưa bao giờ nhận thức được sự tồn tại của ủy ban này trong Nghị viện. Pitt làm mọi việc vì lòng nhiệt tình. George III quan sát thấy “Pitt có khuynh hướng để những việc khó nhọc, không mấy thú vị đến cuối cùng, nhưng sau đó khi buộc phải giải quyết nó, ông đã giải quyết nhanh chóng đến lạ thường, dạng pha trộn không bình thường giữa sự chậm chễ và vội vã là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sức khỏe của ông kém”.
Cũng có thể ông là người chưa hoàn thiện khi bước lên nắm quyền quá sớm – như một số người cùng thời tranh luận. Ông hội tụ ý chí, nghị lực và cả trí tuệ minh mẫn của tuổi trẻ, nhưng cũng có ba điểm bất lợi được thừa nhận. Thứ nhất, ông không có kinh nghiệm trong công việc. Điều này khiến ông phải chuẩn bị thực hiện công việc nhờ những mối liên hệ thân mật, nó cũng khiến ông gặp rắc rối. Cuộc dàn xếp đầu tiên với Palmer được chấp nhận bằng lời do Pretyman, đại diện Pitt, thực hiện. Hậu quả là, có một cuộc tranh cãi kéo dài trong Bộ Bưu điện về vị trí cũng như tiền thù lao cho Palmer, và không có một tuyến trách nhiệm rõ ràng nào được thiết lập. Palmer hiểu rằng ông trực tiếp chịu trách nhiệm trước Bộ Tài chính, điều này đã gây ra nhiều vấn đề đối với cá nhân Palmer lẫn Bộ Bưu điện, khiến ông bị sa thải năm 1793. Pitt phải đảm bảo 3.000 bảng tiền trợ cấp mỗi năm để bồi thường cho ông ta. Hơn nữa, theo Burges, do Pitt không để ý đến cả cốt lõi lẫn thể thức của công việc khi lên nắm quyền, nên ông đã rơi vào tay những người “không lấy gì làm đứng đắn”. Ông đã phải nhờ đến những người thông thạo công việc để đưa ý kiến của mình ra thực tế: Dundas, người thường tự hào chưa bao giờ để một lá thư cần phải trả lời nào đến ngày hôm sau, và George Rose, người nhanh chóng ảnh hưởng đến Pitt, và sau này là Grenville, một người có phương pháp hơn, anh họ của ông. Burges cho rằng “Pitt đã bị Grenville và Dundas điều khiển”.
Thứ hai, Grenville cho rằng việc sớm lên nắm quyền đã khiến Pitt có ít cơ hội mở rộng kiến thức bằng việc nghiên cứu những nguyên tắc triết học chung, mà cùng với kinh nghiệm sẽ giúp ông trở thành một chính khách có tài quản lý nhà nước. Còn theo Addington, rất ít khi ông nhìn thấy Pitt cầm cuốn sách trên tay kể từ khi lên nắm quyền. Pitt đọc sách để giải trí, và những cuốn sách đó “thường được tìm thấy trên bàn giữa một mớ những tài liệu tài chính và chính trị”, hoặc rải đầy trong căn hộ của ông ở Holwood hoặc Walmer, hoặc bắt buộc phải mang theo khi đi du lịch, thường là những cuốn sách thời cổ đại Hy Lạp và tiếng Latinh, đặc biệt là của các tác giả Homer và Horace. Thay vào đó, những gì được trải nghiệm đã có ảnh hưởng lớn nhất đối với ông, khiến ông trở thành một người “siêu thực dụng”. Năm 1794, Pitt đã nói với Sheridan:
Theo lời Ehrman, Pitt tiến tới quyền lực “hăm hở với tất cả sức trẻ, vì những đề xuất lớn và những chính sách cải tổ đáng khâm phục”. Ông đi tìm những hệ thống chung và những giải pháp tổng thể cho các vấn đề. Nhưng rất ít kế hoạch của ông được thực hiện thành công. Khi các đề xuất thương mại ở Ireland mà Pitt đưa ra gặp rắc rối, ông đã phải dùng đến nhiều thủ đoạn. Grenville cảm thấy “sự ưa thích tìm ra những thủ đoạn phức tạp trong khó khăn − cảm hứng nảy ra và kết hợp với khả năng giải quyết vấn đề không ai sánh kịp, là những nét khiếm khuyết cuối cùng trong tính cách của Pitt”. Ireland, như ông buộc phải thừa nhận năm 1794, “cho đến nay và mãi mãi về sau vẫn là một chính phủ của những thủ đoạn”. Pitt đã đọc cuốn Wealth of Nations (Sự thịnh vượng của các quốc gia) của Adam Smith, nhưng năm 1800, trước sự phản đối của Grenville, ông vẫn áp dụng sự can thiệp của chính quyền nhằm cải thiện tình trạng khủng hoảng lương thực. Trong một buổi tiệc tối năm 1796, Pitt tuyên bố rằng sẽ là không sáng suốt khi thiết lập các nguyên tắc và luật lệ chung trong chính phủ hoặc trong chính sách. Chủ nghĩa thực dụng kiểu như vậy thường giúp ông vượt qua được những khó khăn trước mắt, nhưng nó cũng hạn chế khả năng duy trì một hướng chiến lược phù hợp đối với các vấn đề ông phải đối mặt.
Thứ ba, mọi người đều nhất trí rằng Pitt lên nắm quyền trước khi ông có thể hiểu đủ về con người. Windham cảm thấy Pitt vì thế mà mất “cơ hội nhìn nhận con người và cách cư xử, trừ khi là Bộ trưởng, theo cách đáng phải nhìn nhận nhất”. Nghị sĩ Nicholl cho rằng “đầu óc của Pitt chỉ bó gọn trong những chi tiết công việc, lẽ ra ông phải đủ năng lực để bắt quen với việc làm chính trị hoặc làm người, cả hai điều đáng ra ông phải nghiên cứu”. Còn theo Sinclair, Pitt “tiến tới quyền lực quá sớm, trước khi ông có thể có được những kiến thức và kinh nghiệm chính trị, mà không có nó không ai có thể trở thành một bộ trưởng thành công, càng đặc biệt hơn là trong những thời điểm khó khăn”. Chắc chắn Pitt sẽ gặp phải những khó khăn trong mối quan hệ riêng bên ngoài vòng thân mật. Richmond phàn nàn “tính Pitt quá rụt rè, đến nỗi khi gặp một chút khó khăn ông thậm chí còn không biết sắp xếp các vấn đề lại theo đúng trật tự”. Điều này càng khiến Pitt khó khăn hơn trong việc đối phó với những người bất đồng với phương pháp quản lý của ông. Windham cho rằng thời gian Pitt trong quân ngũ, giống như cha mình, đã cho ông rất nhiều kiến thức về thực trạng thế giới. Burges lại tranh luận, sự ngây thơ đã khiến Pitt quá hào hứng đón nhận những lời tâng bốc và “sự đánh giá quá cao về bản thân đã khiến ông mù quáng trước những trò bịp bợm của các vị cố vấn đầy mưu mô”.
Những hạn chế trong phương pháp quản lý chỉ với lòng nhiệt tình đã khiến ông phải vất vả hơn để giữ vững được lòng nhiệt tình đó khi hàng loạt khó khăn kéo dài nổi lên. Ông cố gắng dự đoán và giải quyết trước tất cả các vấn đề có thể xảy ra, nhưng sự nhiệt tình đôi khi lại ngăn cản ông đến với thực tế. Wilberforce ca tụng “sự rõ ràng trong nhận thức và thấu hiểu sự việc chính xác đến ngạc nhiên” đã khiến ông có sức nặng hơn so với tất cả những tranh luận đối lập, nhưng ông này cũng bổ sung: “Bạn thường tìm ra những điểm khác biệt so với Pitt và luôn cố trả lời câu hỏi tại sao. Điểm khác là ở chỗ, tinh thần lạc quan đã giúp Pitt có được niềm tin với những thông tin mà người khác khó có thể tin được, khiến ông luôn hy vọng sẽ có những vấn đề có lợi mà người khác không dám mạo hiểm nghĩ tới”. Tất cả những khẳng định trên đều cố gắng nhấn mạnh một thực tế là Pitt không muốn nghe những gì ông không thích. Chính quyền Ireland một lần nữa nhấn mạnh tính nhạy cảm trong các đề xuất thương mại, nhưng Pitt một mực khẳng định ông tin tưởng tất cả mọi việc có thể được giải quyết ổn thỏa nếu Nghị viện Ireland chấp nhận các nguyên tắc và dành cho nhau những đặc quyền mà “tôi không thể cho phép mình nghi ngờ”. Năm 1797, Windham than phiền rằng “sự chế nhạo là một phần rất xấu của hệ thống hiện nay, và khi bất cứ điều gì bị đem ra chế nhạo thì nó bị coi là cần tống khứ”. Còn nữa, Pitt có thể đột ngột đánh mất nhiệt tình với những việc mình làm, trở nên không kiên định và không có phương hướng. Theo Wilberforce, “sự chậm trễ và chần chừ là những nhược điểm lớn nhất của Pitt”. Việc Pitt đưa ra phương pháp thăm dò ý kiến cũng khiến nhiều người có cơ hội ngăn cản và làm ông chệch hướng. Burges đã viết về “sự thiếu suy xét của Pitt khi đẩy nhanh hoặc từ bỏ những vấn đề nghi ngờ”. Theo Camden, Pitt đã “chịu ảnh hưởng quá nhiều từ người khác, đặc biệt là Dundas”, trong khi sau này Spencer nói với Dundas: “Bằng kinh nghiệm, anh có thể biết Pitt đã bị ảnh hưởng lớn như thế nào bởi những cái đầu không đủ mạnh và thông thái để điều khiển người như Pitt”. Tuy nhiên, Pitt không bao giờ cảm thấy quá lo lắng vì sự chậm trễ như Wilberforce nghĩ. Ông sẵn sàng chấp nhận trì hoãn và sử dụng nó như một thứ vũ khí chứ không bao giờ coi đó là dấu hiệu của sự thất bại.
Việc Pitt mong muốn tham gia tất cả các lĩnh vực của chính phủ đ?