← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Hai TRUYỆN MỘT ÔNG HOÀNG-ĐI TÌM THUỐC TRƯỜNG SINH BẤT TỬ

Cùng một lúc với thời kỳ con sói đuôi xòe tu luyện trên núi Li-biêng, tại miền bờ biển cực Nam có giòng vua Cát Hiền trị vì quần đảo Triết Mông.

Quần đảo Triết Mông cách xa nước Oa-ly-đà nhiều lắm, nên chi thời dân chúng Triết Mông bị chinh chiến hoặc gây chinh chiến sang các nước lân cận, dân chúng Oa-ly-đà tuy có biết tin mà ít chịu lây ảnh hưởng tai hại.

Khi con sói đã thành tinh hiện hình người đi trên hai chân thì Triết Mông đương ở dưới triều đại vua Cát Hiền Đệ Thất. Song vua Cát Hiền Đệ Lục anh hùng xuất sắc bao nhiêu thì vua Cát Hiền Đệ Thất ngù ngờ vụng dại bấy nhiêu. Chẳng bao lâu các nước nhỏ lân cận trước đây vẫn thần phục Triết Mông đều bỏ lệ triều cống hàng năm, mà các nước lớn thì có ý dòm ngó. Đã tưởng Triết Mông không sao tránh khỏi nạn binh đao! May sao lúc đó Hoàng tử Hạc Miên, vừa tới tuổi trưởng thành, dùng tài biện thuyết, trong củng cố được nội bộ, ngoài giữ vững được uy thế cho Triết Mông.

Tương truyền hoàng hậu đã có sắc đẹp tuyệt trần lại khôn ngoan rất mực, khi người mới thụ thai có nằm mơ thấy mình được đi thuyền trên một hồ rộng tựa biển rồi thấy một điểm trắng như tuyết từ xa lướt lại và lớn dần. Định thần nhìn kỹ thì đó là một con hạc. Chim thần sà xuống thuyền và hoàng hậu nhận thêm thấy trên lưng hạc có một tiên nữ khuôn mặt hao hao giống ngài. Nàng tiên cất tiếng thân mật nói:

- Chị đã có mang Hoàng tử, chẳng hay chị có điều gì mong ước xin cho em rõ.

Hoàng hậu mang máng nhớ trước đây mình cũng ở thiên đình với nàng tiên cưỡi hạc. Nghe nàng hỏi vậy hoàng hậu nghĩ tới những nụ cười ngớ ngẩn, những lời nói vô duyên của vua Cát Hiền Đệ Thất, bèn đáp:

- Xin người giúp tôi cho Hoàng tử ra đời với vẻ thông minh dĩnh ngộ, với tài ăn nói sắc sảo có duyên.

Con hạc vù bay, hoàng hậu giật mình tỉnh dậy, lòng lâng lâng như vẫn còn ngồi trong con thuyền lướt trôi trên hồ rộng. Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, quả nhiên hoàng hậu sinh hạ một hoàng tử mắt sáng, mũi cao, trán rộng. Hoàng hậu đặt tên con là Hạc Miên.

Hạc là giống chim lớn tụ tập rất nhiều ở quần đảo Triết Mông. Hằng năm cứ vào mùa đông thì giống chim này từ phương Bắc bay về quần đảo này nhiêu không biết cơ man nào mà kể để lánh rét.

Miên là một giống cá đặc biệt thường đi từng đôi thơ thẩn hết khoảng biển này sang khoảng biển khác, hễ gặp con cá lớn nào đương đuổi bắt đàn cá bé, lập tức chúng phun ra chất mực đen ngòm và bỏng nhẫy để đuổi con cá lớn đi nơi khác mà cứu đàn cá bé. Bởi vậy thường cá Miên tới đâu các loài cá con quây quần xúm xít quanh đấy.

Đặt tên con là Hạc Miên, hoàng hậu với một linh tính thần tiên, có ý muốn hoàng tử sau này lớn lên sẽ khôn ngoan như chim Hạc biết lúc nên ở, lúc nên đi và quả cảm bao dung như đôi cá Miên biết che chở cho lũ cá yếu kiếm ăn quanh mình.

Nếu vua Cát Hiền Đệ Thất càng về già càng ngu độn thì trái lại hoàng tử Hạc Miên càng trưởng thành càng thông minh dĩnh ngộ và tài ăn nói hoạt bát tưởng có một không hai trong lịch sử các đấng anh quân. Mặc dầu hoàng tử chưa lên ngôi cửu ngũ mà linh hồn của triều đình Triết Mông hầu như quy tụ cả nơi người. Nhờ tài biện thuyết của hoàng tử mà các lão thần đem hết tài trí ra gìn giữ giang sơn Triết Mông. Nhờ tài biện thuyết của hoàng tử mà các thần tử trẻ tuổi khác không dám tính chuyện nổi loạn cướp ngôi báu, trái lại đồng lòng phù tá các vị lão thần để cùng đối phó với các nước lớn bên ngoài đương nuôi dã tâm xâm lăng.

Đúng năm hoàng tử đến tuổi trưởng thành, Trời làm hạn hán. Đồng mạ cùng các hoa màu khắp nơi phơi mình khô xác. Lửa trời gay gắt ngay từ vừng đông vừa rạng. Qua ba tháng liền trời trong xanh thăm thẳm không gợn một sợi mây. Nhiều vùng đã thấy từng đàn chuột đói hàng ngàn con nhô ra khỏi các cống rãnh hang hốc, ngơ ngác đi tìm thức ăn. Một nạn đói khủng khiếp trùm lấy đe dọa dân chúng Triết Mông. Các nước cừu địch nắm lấy thời cơ đó, cùng nhau liên kết, chuẩn bị gây chiến. Nạn can qua tới độ nguy kịch nhất, không biết bùng ra lúc nào. Hoàng tử Hạc Miên cho lập đàn cầu đảo giữa trời. Văn võ triều thần đứng ở hai bên tả hữu. Dân chúng vòng trong vòng ngoài nắm tay nhau rất có thứ tự quây lấy đàn tràng. Hoàng tử đã ăn chay nằm mộng từ ba ngày trước, tới hôm đó, người tắm rửa sạch sẽ rồi đăng đàn ba lần vào các buổi sáng, trưa, chiều, ứng khẩu đọc ba bài văn khác nhau kêu gọi thần linh. Giọng người sang sảng thiết tha, lời người lâm ly thành khẩn đến nỗi bách quan và dân chúng đứng dưới đều thấy mủi lòng. Rừng cây xung quanh cũng như rủ lá.

Tới chiều có cơn gió mát từ ngoài khơi thổi vào. Khi bóng tối bảng lảng đổ xuống thì bắt đầu thấy những tia chớp loang loáng về phía trời Đông. Một điểm đen xuất hiện vào đúng khoảng phân cách trời và nước. Gió thổi ngày một mạnh, điểm đen đó bủa rộng ra khắp trời như một cái lưới khổng lồ mà các thần linh tung ra để chụp lấy quần đảo Triết Mông. Từ tất cả mọi điểm ở chân trời, những đợt sóng nhấp nhô ào tới. Đúng nửa đêm, trời đổ cơn mưa. Mua rơi tầm tã trong bảy ngày liền. Rừng cây như được tắm gội cho sạch bụi bặm, nõn lộc xanh mướt trổ ra. Đồng mạ, hoa mầu hồi sinh cùng dân chúng. Tới ngày thứ tám, khi những tia nắng vàng óng đầu tiên le lói tỏa ra thì cây cỏ cũng như sinh lực của thần dân Triết Mông tựa hồ đua nhau vươn mình lớn gấp.

Các nước cừu địch không dám tính chuyện xâm lăng quần đảo Triết Mông nữa. Cũng kể từ đây, uy danh hoàng tử Hạc Miên nổi dậy như sóng cồn. Hoàng tử bèn dùng tại biện thuyết khích lệ thần dân thành lập một đạo quân quyết tử, rồi dùng đoàn quan quyết tử đó đi chinh phục mấy nước nhỏ lân cận để thị uy. Đạo quân quyết tử tới đâu, địch thủ tơi bời đến đấy. Thực là đạo quân bách chiến bách thắng!

Đã có lần hoàng hậu cho triệu hoàng tử vào cung. Ngài giảng lại hai chữ "Hạc Miên" rồi khuyên hoàng tử đừng nên hành động ngược với ý nghĩa đẹp của tên đó. Đương đà hiếu thắng, hoàng tử tâu lại:

- Kính xin Mẫu hậu yên lòng, nước nhà vừa thoát cơn nguy nan, con cần chinh phục một vài nước nhỏ để dùng làm phòng tuyến tự vệ. Khi đoàn quân quyết tử chiếm xong nơi nào, chúng đều phải tuân theo nghiêm lệnh không hề làm điều gì hại đến dân chúng nơi đó. Như vậy tưởng Mẫu hậu chẳng phải lo ngại điều chi nữa.

Kể từ đấy hoàng tử càng dùng lời nói khéo để đoàn quân quyết tử xả thân trong những trận chinh phục khác.

Có ba vị hoàng tử của ba nước nhỏ bị bắt về Triết Mông làm con tin. Có những nàng công chúa không coi hoàng tử là kẻ quốc thù, trái lại quá mê say lời nói cùng phong độ hiên ngang của hoàng tử, các nàng còn nguyện xin theo về cung hầu hạ. Tại những nước này, hoàng tử thường dùng lời nói khéo mua chuộc vài vị cận thần, mật ước với họ nếu triều đình nước đó sinh lòng kia khác thì họ lập tức cho người mang mật thư đến Triết Mông báo tin. Nhờ vậy hoàng tử đã nhiều lần đem quân rất kịp thời đến trừng trị những nước mưu toan thoát khỏi nền đô hộ Triết Mông. Hoàng tử lại kết liên với một nước lớn nhất rồi dùng kế ly gián nước lớn này với các nước lớn khác. Hoàng tử lại giả danh đi thăm thân thiện các nước lớn xa hơn, tới nước nào, dùng tài nói của mình gây chia rẽ nội bộ tại nước đó. Hoàng tử đã thành công khắp nơi. Uy thế thống trị Triết Mông vì vậy thêm vững mạnh bội phần. Các đồ tiến cống lụa là châu báu hàng năm mang đến Triết Mông không biết bao nhiêu mà kể. Các thiếu nữ Triết Mông được tuyển làm cung nữ, cùng các công chúa ở các nước khác theo về đều hết lòng phụng thờ hoàng tử. Tuy nhiên hoàng tử chưa hề sủng ái ai đến mức quyết định ngôi hoàng hậu sau này.

Tới ngày kia, trong một buổi họp văn võ bá quan, không hiểu sao hoàng tử nghĩ đến ngày mình chết. Ngài tự hỏi: “Ta chết đi, hàng bầy tôi nghiêm kính kia cùng chết theo ta ư?”

Buổi trưa hôm đó, ngài đi qua kho tàng, nhìn từng dãy nhà lụa là gấm vóc, từng dãy nhà kim ngân châu báu. Ngài tự hỏi: “Ta chết đi lụa là, gấm vóc, vàng bạc, châu báu chết theo ta ư?”

Chiều tối hôm đó vì mải suy nghĩ, ngài đi lạc vào Huyền Cung, nơi các mỹ nữ của ngài ở. Bầy cung nữ vẫn ước mơ vua, nhan sắc chợt rực rỡ như sao băng, nụ cười mừng đón, khóe mắt ân tình. Ngài tự hỏi: “Ta chết đi, cung tần mỹ nữ cùng chết theo ta ư?”

Hôm sau hoàng tử dậy từ sớm ra vườn Ngự Uyển. Vừng Đông ửng hồng, mây trời man mác, gió sớm nhẹ nhàng, hương hoa thanh khiết… Ngài muốn thét lớn: “Ta chết đi, trời đất cùng chết theo ta ư? Sự nghiệp ta sụp đổ tan tành ư?”

Một vị quan đại thần nội cung bước tới sụp lạy vấn an.

Hoàng tử hỏi:

- Khanh biết chăng nơi nào tìm được thuốc tràng sinh bất tử?

- Tâu Hoàng Tử, thần không hề được nghe nói đến nơi nào có thuốc tràng sinh bất tử - Viên đại thần đáp.

Hoàng tử thẫn thờ suy nghĩ. Vị đại thần nói:

- Tâu Hoàng tử, thần biết tại ngọn núi cao nhất miền Tây có một đạo sĩ tu hành đắc đạo, xin Hoàng tử tới đó tìm hỏi may ra đạo sĩ biết cách luyện linh đan tràng sinh bất tử.

Ngay hôm đó, hoàng tử đem theo một số bộ hạ tới miền Tây, hỏi thăm đường thổ dân, tìm được tới ngọn núi cao nhất, khi lên đến gần đỉnh thì trời vừa tối. Thấy một dòng suối trong, lấp lánh có ánh sáng dưới đáy, hoàng tử bèn một mình lội ngược dòng… Đi được một quãng khá xa, suối bỗng mở rộng thành hồ, trên bờ thấp thoáng bóng một thảo lư, ánh sáng thần tiên từ đáy nước bốc lên chập chờn soi sáng cả vùng. Lần bưới tới thảo lư nhìn vào, hoàng tử thấy một cụ già tiên phong đạo cốt đang ngồi xếp bằng tròn trước một chiếc kỷ nhỏ chăm chú đọc sách. Thấy người lạ vào, đạo sĩ điềm nhiên ngẩng nhìn, khuôn mặt thực phúc hậu.

Hoàng tử kính cẩn xưng danh và ngỏ ý xin đạo sĩ chỉ giáo cho cách luyện thuốc trường sinh bất tử. Đạo sĩ nói:

- Nếu người đến hỏi về nước biển, về chim rừng, về những kho báu chứa trong lòng núi, về các vì tinh tú trên cao thì lão trả lời được; còn về linh dược tràng sinh bất tử lão không rõ lắm. Lão chỉ biết tại dãy núi Yến Tử ngoài biển Đông có một đạo sĩ đã hai trăm năm mươi tuổi, sống trong hốc đá với chim yến; vị đó lúc tham thiền có thể giao cảm với trời đất, người thử tìm tới đó hỏi xem.

Hoàng tử kính cẩn cảm tạ và từ giã đạo sĩ xuống núi, trở về kinh đô lấy thêm tùy tùng. Mấy người thuyền chài già thuộc đường được vời tới làm hướng đạo. Rồi hoàng tử cùng đoàn người thẳng tới biển Đông, dùng hai chiến thuyền lớn vượt sóng ra khơi. Qua ba ngày sóng êm hoàng tử tới dãy núi Yến. Hoàng tử phân thành từng khu chỉ định cho từng toán. Sau đó lũ người hăm hở sục sạo khắp các hang hốc xa gần. Đã ba ngày nhọc công tìm kiếm, vào động nào họ cũng chỉ thấy chim yến sào sạc bay ra, tịnh không thấy bóng một đạo sĩ nào cả. Sang ngày thứ tư cuộc tìm kiếm vẫn vô hiệu quả. Đêm hôm đó hoàng tử nằm thao thức đến khuya lắm, đắn đo chưa biết sớm mai nên về hay nên ở. Từ quanh núi mơ hồ vọng lại tiếng sóng dạt dào xô vào thành đá. Chợt có tên quân đến báo tin lạ: tại phía Đông Nam mãi tít trên ngọn núi cao nhất dẫy Yến Tử, mặc dầu khuya khoắt, vẫn có tiếng chim bay ra bay vào đều đều. Hoàng tử vội cùng bộ hạ đi ngay.

Tới nơi, lắng nghe tiếng vỗ cánh, hoàng tử thấy như có hai đàn chim yến bất tận: một từ ngoài khơi bay vào, một từ hang núi bay đi. Người bèn cho đốt đuốc rồi dẫn đầu toán tùy tùng lần theo tiếng chim yến leo mãi lên, cắm cúi leo mãi lên… Đường càng cao càng hiểm hóc. Tới điểm kia thấy có luồng gió lạ hút ánh đước xuống dưới, không ai tiến thêm được một bước nào nữa. Định thần nhìn kỹ ai nấy rùng mình: đã mạo hiểm leo lên một mỏm đá cheo leo nhô hẳn ra biển. Ánh đuốc bùng lên rực rỡ, nhưng ánh sáng chỉ tỏa xuống tới nửa chừng. Tít thẳm bên dưới là đáy vực một mầu đen ngòm. Triều biển theo dòng hẻm xô vào rồi bị cuốn xoáy hun hút, tiếng nước vật vã mãnh liệt và nghẹn ngào. Hơi lạnh bốc lên quấn lấy đoàn người như tấm vải liệm. Tất cả ánh đuốc vụt tắt ngấm! Rừng, núi, biển, trời chìm trong bóng tối. Vạn vật tựa hồ sắp bị hút xuống đáy vực hết cả. Mọi người bám chặt lấy mỏm đá, rễ cây rồi ai nấy nằm phục xuống đợi sáng. Hơi lạnh và sức hút bớt dần, họ thiếp đi trong tiếng cánh vỗ nhẹ lướt, tiếng chiêm chiếp êm đềm của đoàn chim yến vô hình bay ra bay vào đâu đây.

Hoàng tử thức giấc đầu tiên với gió sớm. Khoảng vực cùng mặt biển mênh mông ở tít dưới xa hơi gọn sóng, rất mực thanh bình. Từng con chim yến từ ngoài khơi bay vào, lẹ như lá rụng, mỏ xinh có ngậm một cái gì. Rồi cứ mỗi khi một con đậu xuống lại có một con bay đi. Cảnh đó vừa ngoạn mục vừa kỳ lạ. Hoàng tử đoán chắc phía ngoài cùng phải có một hốc đá nhỏ nào. Trời rạng dần. Các kẽ đá, rễ cây trông đã rõ. Hoàng tử tìm lối leo ra đầu mỏm. Cách đi tuy nguy hiểm nhưng không đến nỗi khó khăn như khi còn đêm tối.

Lát sau tới đích, nhìn xuống quả nhiên hoàng tử thấy ngay bên dưới có một động nhỏ, lối vào khá phẳng. Lũ chim yến thay nhau tới lui như thoi dệt. Chúng thấy có bóng người mà không hề xao động. Bây giờ thì hoàng tử nhận thấy rõ: từng con bay vào mỏ có ngậm hoặc một thứ quả rừng nhỏ, hoặc một bông hoa xinh, hoặc một nhánh cỏ thơm và những con bay đi thường ngậm những thứ gì như cỏ rác vàng úa.

Hoàng tử men xuống… Vừa đặt chân tới cửa động, mắt người bỗng sáng lên vì vui mừng: bên trong người thấy một vị đạo sĩ râu tóc trắng như tuyết đương ngồi trên một bệ đá tham thiền. Những con chim yến bay tới đặt hoa quả trước mặt đạo sĩ hoặc thả nhánh cỏ thơm vào một chiếc lư đồng đen nhỏ trong đó bốc lên những ánh lửa xanh rất đều ngọn. Tĩnh tọa ở vị trí này, đạo sĩ quả là ngồi đối diện với cái bao la của vũ trụ và ở trên cả cái thanh bình lẫn cái phong ba của đại dương.

Đạo sĩ hé mở mắt. Hoàng tử vội xụp xuống lạy mà rằng:

- Kẻ phàm tục này đến quấy rối ngài thế này thực là quá bạo, chỉ dám mong ngài mở lượng ban cho linh đơn trường sinh bất tử.

Đạo sĩ cất giọng êm ả trong khi mớ tóc chòm râu của người phơ phất theo cơn gió thoảng từ ngoài lùa nào:

- Ta không có linh đơn trường sinh bất tử. Đã sinh vào cõi sống chết sao lại muốn vượt khỏi luật tồn vong?

Hoàng tử buột miệng thở dài. Đạo sĩ khẽ gật đầu:

- Phải, ta biết, chỉ vì người quá nghĩ đến uy quyền và ngọc ngà châu báu nên thèm khát trường sinh bất tử. Ngươi hãy trông cỏ thơm cháy trong lư đồng. Cỏ thơm từng nhánh cháy đi… lửa còn mãi mãi…

Hoàng tử tần ngần chẳng biết nói sao.

Đạo sĩ cúi đầu suy nghĩ, ngẩng nhìn, rồi lại cúi đầu.

Hoàng tử hồi hộp chở đợi.

Đạo sĩ bỗng gật gù ngẩng nhìn hoàng tử một lần nữa chăm chú hơn rồi chỉ về phía góc động nói:

- Ngươi hãy rót lấy một bát nước mang lại đây. Hoàng tử vội vã làm theo lời. Khối nước nhỏ lẫn vào màu bát ngọc cũng trở thành vàng lộng như ráng chiều. Mang bát nước lại đặt trên bệ đá, hoàng tử hồi hộp nhìn đạo sĩ mở nắp một chiếc bình nhỏ xíu cũng một màu ráng chiều. Đạo sĩ thận trọng nghiêng tay như để trút thuốc vào bát nước. Đã đứng gần lại chăm chú nhìn mà hoàng tử cũng không nhận thấy gì.

Thấy đạo sĩ thận trọng đậy nắp bình lại, hoàng tử đành rụt rè nói:

- Dám thưa đạo sĩ, bình ngọc của ngài đã hết thuốc.

Đạo sĩ mỉm cười:

- Ngươi muốn tìm mầu sắc của thuốc ư? Thuốc cùng màu với Trời Đất nên nhìn không ra! Ngươi muốn chính tay cầm được thuốc ư? Thuốc nhỏ và tinh vi nên lọt khỏi tay người. Hãy bưng bát nước lên rồi uống một hơi!

Hoàng tử ngoan ngoãn làm theo lời. Đạo sĩ tiếp:

- Gặp nhau đây âu cũng là tiền duyên! Uống linh dược của ta người có thể ngồi tham thiền lâu bao ngày củng được. Nếu bỏ được tư dục thì ngồi như vậy ít lâu sẽ có lúc hồn ngươi giao cảm với hồn vạn vật; ngươi sẽ thông suốt lẽ sống chết huyền bí của Đất Trời mà biết tu lấy thánh đức, như vậy có khác chi bất tử? Thôi ngươi khá rút lui, thành đạt hay không từ nay là do ngươi.

Hoàng tử sụp lạy rồi rút lui. Ngoài cửa động không còn bóng một con chim yến nào nữa. Hoàng tử nhẹ nhàng leo lên đỉnh mỏm đá, lần theo lối cũ. Đoàn tùy tùng đương xôn xao hốt hoảng, họ tưởng người đã rơi mất tích xuống đáy vực. Người tươi cười ra lệnh quay về.

Khi xuống tới chân núi, mọi người ngẩng nhìn lên chỉ thấy cây đá chấp chùng vòi vọi, chịu không thể định rõ mỏm cao ở về phía nào. Chính hoàng tử cũng không hiểu sao mọi người đã leo lên rồi lại trở xuống bằng đường ấy được.

Kể từ lúc xuống thuyền, suốt ba ngày liền trên biển, hoàng tử không hề chợp mắt ngủ mà tinh thần dường như minh mẫn thêm lên bội phần. Nhìn mây bay, hoàng tử tưởng như mình đương đứng trên bè mây đó và trôi ngược lên Thiên Đình. Nhìn xuống biển, hoàng tử tưởng như mình đương rẽ nước đi thẳng xuống Thủy Cung.

Khi đã về tới kinh đô, mấy lần hoàng tử leo lên đỉnh ngọn tháp cao nhất hoàng cung định ngồi tham thiền theo lời khuyên của đạo sĩ, nhưng mỗi khi hé mắt, ánh lấp lánh của những chòi vàng mái bạc quanh hoàng cung xói tới khiến người thấy lòng bàng hoàng, dạ bứt rứt, ngồi không yên.

Sau cùng hoàng tử quyết định đi kinh lý khắp nước chư hầu một lần nữa rồi sẽ về tham thiền.

Đúng vào năm hai chàng thi sĩ và tráng sĩ mắc mưu con sói đuôi xòe giết em, giết cha rồi tự vẫn, Hoàng tử Hạc Miên tuần du tới nước láng giềng Bàng Quận và lần này được nghe tiếng đồn về sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Huyền Phương công chúa. Hoàng tử định tiện đường thẳng sang Bàng Quận du thuyết, chẳng may bị viên võ tướng trấn biên ải nước đó cương quyết khước từ. (Bàng Quận cách Triết Mông quá xa nên uy tín của hoàng tử tới đây không đủ để tướng trấn ải kia phải nể sợ.)

Lập tức Hoàng tử Hạc Miên trở về nước và mặc dầu đã sắp tới ngày vua cha làm lễ chính thức truyền ngôi báu cho, người vẫn cương quyết đem đoàn quân quyết tử ngày đêm vượt đèo cao, rừng sâu, sông rộng đến đánh phá Bàng Quận. Đoàn quân tiến vào tận kinh đô bắt sống được toàn thể hoàng gia trong đó có Huyền Phương công chúa. Ôi! Buổi gặp gỡ đầu tiên đó làm sao nói hết được mối tình thăm thẳm như trời cao, dài như sông, rộng như biển của hoàng tử trước sắc đẹp mê hồn của Huyền Phương công chúa. Hoàng tử đã tự nghĩ thầm – y hệt thi sĩ dạo nào: “Dù thân ta sau này có tan ra khói ra nước thì khói nước đó cũng phải được rót vào đôi mắt của Công chúa Huyền Phương mới siêu sinh đi được.”

Vốn đã biết lệ kén chồng của công chúa, hoàng tử ngầm sai người thân tín nhân lúc hỗn quân hỗn quan mang thịt tẩm thuốc độc ném vào hầm nhốt lũ hổ đói và mang bột thuốc độc rắc xuống hồ thuồng luồng. Kế đó Hoàng tử tỏ thái độ rất vồn vã với hoàng gia Bàng Quận, nói rằng mình sở dĩ đem quân đến chỉ cốt trừng trị tên võ tướng vô lễ ngoài biên ải chứ thực không có lòng thù oán nào khác.

Mấy tên cận vệ hốt hoảng chạy lại báo tin với vua Bàng Quận là lũ hổ đã chết gục trong hầm và lũ thuồng luồng đã chết nổi trên hồ.

Công chúa Huyền Phương ôm ngực lảo đảo rồi khuỵu xuống, Hoàng tử Hạc Miên hết lời ngọt ngào khuyên giải công chúa cùng toàn thể hoàng gia. Người giải thích đấy là điềm Trời muốn nhà vua từ nay bãi bỏ lệ kén phò mã cổ truyền. Rồi người ngỏ ý xin cưới công chúa Huyền Phương để nàng lên ngôi hoàng hậu Triết Mông. Vì cảm phục tài dũng của hoàng tử, công chúa Huyền Phương ưng thuận, tuy nàng tự cảm thấy sức khỏe sa sút đi nhiều. Ngày hôm sau hoàng tử cho rút đoàn quân quyết tử về nước. Công chúa Huyền Phương sụp lạy từ biệt vua cha cùng hoàng hậu rồi lên ngựa với hai hàng nước mắt ròng ròng.

Hoàng tử thúc ba quân ngày đêm đi gấp để kịp về thụ lễ đăng quang và tấn phong Công chúa Huyền Phương làm hoàng hậu. Ngày đó sẽ chói lòa vinh quang và tràn ngập hạnh phúc. Ngày đó phải là một ngày huy hoàng vào bực nhất trong đời hoàng tử và trong lịch sử Triết Mông. Nhưng nhan sắc Công chúa Huyền Phương sao mong manh và ủ ê như cây hoa bật rễ? Càng xa xứ Bàng Quận, công chúa càng lả dần. Tới Triết Mông, nàng mê man bất tỉnh. Sang ngày hôm sau, ngày Hoàng tử Hạc Miên thụ lễ đăng quang với đế hiệu Cát Hiền Đệ Bát, thì nàng công chúa bạc phước cũng hồn lìa khỏi xác. Cái chết của nàng có sức nặng làm xiêu đổ ngai vàng. Nhìn thi thể Công chúa Huyền Phương liệm bằng lụa nõn đặt gọn trong quan tài trầm hương, hoàng tử thấy tất cả sự nghiệp, tất cả bá quan văn võ, tất cả người đẹp ở Huyền Cung cùng vĩnh viễn khuất sau nắp trầm hương. Còn lại chỉ là cái trí thuật đơn bạc, gian ác, tàn nhẫn của người khi dùng đoàn quân quyết tử chinh phục nước này, dùng xảo mưu chia rẽ nước nọ.

Ôn lại những lời tung hô hàng ngày của đoàn quân quyết tử, của văn võ bá quan, hoàng tử thấy đấy chẳng qua là tiếng rống của đàn bò, tiếng la của đàn cừu. Ôn lại những lời xưng tụng của các vua chư hầu, hoàng tử thấy đấy chính là những lời rủa trá hình.

° ° °

Chịu lễ thọ phong xong vua Cát Hiền Đệ Bát trở về ngồi trong thâm cung tịch mịch. Khi gà vừa gáy sáng, ngài chợt thấy sống trong một cảnh đất trời nghi ngút và có tiếng Thần Linh giảng dạy:

“Cái chết của Huyền Phương với người giờ đây rầm rộ tựa núi lở cát bay! Mai đây ngươi sẽ thấy núi lở cát bay lôi cuốn theo cả cỏ cây muôn thú để mở rộng lối cho tầm mắt ngươi được gặp cả biển lẫn trời.”

Vua Cát Hiền Đệ Bát biết rẳng mình còn có thể kịp thời hành động theo lương tri. Vừng đông vừa rạng, ngài quỳ xuống trước nguồn ánh sáng, tự nguyện từ nay ngài chân thành chỉ biết tuân theo lời dạy của lương tri. Để cởi mở hết mọi dây oan khiên, ngay hôm đó ngài thả ba hoàng tử con tin về nước. Ngài miễn lệ triều cống cho tất cả các nước chư hầu. Ngài hạ lệnh triệt thối binh đội Triết Mông ở khắp các nơi về, và giải tán đoàn quân quyết tử. Đoàn quân này là điểm tội lỗi nặng nề sỉ nhục theo lời tự phán quyết của ngài.

Ít lâu sau, Thượng hoàng băng hà, ngài bèn xin phép Mẫu hậu nhường ngôi báu cho một vị đại thần hiền đức; ngài quyết xa cảnh hoàng cung chòi vàng mái bạc, lên núi cao, kiếm một hốc trông ra biển rồi xếp đá thành bệ ngồi tham thiền. Triều thần biết vậy có sai mấy tên thị vệ đến thường xuyên chầu hầu nhưng tuyệt nhiên cựu đế không hề sai bảo điều gì. Có một sớm tinh sương kia, thấy một lão thần hấp tấp leo lên động, cựu đế nhắm mắt tĩnh tâm biết lão thần đến báo tin Mẫu hậu từ trần. Ngài còn rõ hơn nữa là Mẫu hậu đã từ trần trong hoan hỷ vì thấy con mình đã biết bỏ đường tà, noi theo đức sáng. Ngài xuống bệ ra ngoài cửa động quỳ bái vọng về hoàng cung và khấn rằng:

“Trăm lạy Mẫu hậu, xin Mẫu hậu xá tội bất hiếu trước đây cho con. Giờ đây con mới xứng đáng với tên người đặt.”

Từ đấy ngài lấy hiệu là Hạc Miên Đạo sĩ. Qua một tuần trăng ngồi tham thiền, người thấy linh hồn thoát khỏi ngục xác thịt để có thể trong giây lát đi vào một đường mây trắng xóa có hàng ngàn vạn vì sao châu tuần. Ngài đương mải vui vì biết mình sắp đạt đạo thì một vị lão thần khác hốt hoảng tới quỳ lạy dưới bệ đá mà tâu với ngài là hầu hết các nước lớn xa gần Triết Mông đều thi nhau chiêu binh mãi mã, chỉnh đốn ba quân dự bị, chiếm các nước nhỏ mà tranh ngôi bá chủ để thế chân Triết Mông. Sau cùng, vị lão thần tha thiết thỉnh cầu ngài hạ sơn ngõ hầu cứu thiên hạ và xã tắc Triết Mông.

Ngài xuống núi, đi suốt ngày đêm tới các nước bất kỳ lớn nhỏ, chủ chiến hay chủ hòa. Ngài trở lại dùng tài du thuyết thuở xưa, nhưng lời nói và mục đích có khác nhiều. Tới nước nào ngài cũng thực tình bầy tỏ hết những mưu cơ của ngài trước đây nào khi dùng đoàn quân quyết tử để chinh phục, nào khi dùng kế liên minh để chia rẽ. Ngài kết luận: "Mình đi chiếm nước người thì cũng có khi người đến chiếm nước mình, nhưng con cháu bao giờ quên được ông cha dòng giống, bao giờ quên được tiên tổ? Cứ suy mình mà hiểu người: Khi địch còn mạnh, mình nguyền rủa bằng tiếng tung hô, khi địch suy yếu mình không bỏ lỡ thời cơ dành lại giang sơn của tiền nhân. Rút cục còn để lại chăng trên đất nước nhau chỉ là đống xương trắng của lũ quân quyết tử chết xa quê hương." Lời ngài nói không đanh thép như xưa nhưng nồng nàn chân thực đi thẳng vào lương tri người nghe. Không một vị quốc vương nước lớn cũng như nước nhỏ nào nghe qua mà không tỉnh ngộ và ra lệnh bãi binh tức khắc.

Mọi việc xong xuôi ngài trở về động đá. Qua một tuần trăng nữa, người thấy hồn mình đôi khi được ngợp trong một biển ánh sáng. Có lần ngài định thần chú mục nhìn tên cận vệ ở tít cánh rừng xa vung rìu đốn cây; người bỗng thét lên một tiếng. Tên cận vệ gần đấy vội chạy lại thì thấy lưng ngài ngập vết búa nhưng không chảy máu, trong khoảnh khắc vết búa đó liền lại.

Qua ba tuần trăng nữa, ngài thấy núi, sông và biển cả nhỏ xíu dưới chân, linh hồn như hút được những ánh sáng vòi vọi của tinh tú trên trời. Thính giác của ngài như bắt được những thanh âm diệu huyền của Thiên Đường và những nghẹn ngào u uất của Địa Ngục. Ngài thấy rõ hồn mình đã giao cảm được với hồn Vũ Trụ. Lời nói của thế nhân bỗng lạc hẳn âm thanh khiến ngài không thể dùng chúng để diễn tả nguồn thiêng linh diệu đó. Quanh động, cỏ cây gỗ đá thẩy đều tràn đầy sức sống để cùng ngài giao cảm. Muôn dân lành ngàn dặm quanh miền bờ biển Cực Nam được vui trong thanh bình để phát triển tình giao hảo, đều nhớ ơn cứu sống của ngài. Họ đồng tình suy tôn ngài là: Hạc Miên Thánh đế.

Vừa lúc đó vị lão thần sứ giả nước Oa-ly-đà đến rập đầu khóc xin cầu cứu trước bệ đá của ngài.