Hồi Thứ Ba ĐOÀN QUÂN THÁNH THIỆN-VỚI NHỮNG TẤM GƯƠNG PHẢN TỈNH
Trở lại chuyện con sói đuôi xòe sau khi uống máu hai giống người, đuôi nó biến hết. Nó hiện thành hình ông già như cũ, đi đi lại lại ngay giữa đám đông mà không còn điều gì nghi ngại nữa. Nhưng đó chỉ là bề ngoài, sự thực đuôi đó không mất, đuôi đó vẫn còn, đuôi đó chỉ thụt vào trong xuyên ngược lên bụng khiến lúc đi, lúc đứng, lúc ngồi con sói thấy vướng víu khó chịu vô cùng: nó vẫn là sói như thường và chưa hề sử dụng được chiếc đũa vạn năng.
Nó trở về động cũ trong khu rừng quế miền Bắc Oa-ly-đà, ngồi lên bệ đá tập trung tư tưởng khiến máu hai giống người nung nấu trong mạch, cái đuôi lẩn ngược trong bụng tan dần. Nó thấy bớt khó chịu nhưng đồng thời, tai hại thay, hơi nó thở trở thành hôi thối nồng nặc, vừa tanh như máu vừa khăm khẳm như mùi thịt rữa, lông nó rụng xuống hóa thành những giòi, những bọ. Uế khí xông ra sặc sụa tới năm dặm vùng quanh. Bộ hành qua đó nếu không rảo bước tất sinh nhôn ọe, đôi khi ngã xuống bất tỉnh và có thể bỏ mạng nếu không được các bạn đồng hành khác kịp thời khiêng đi. Chẳng bao lâu rừng quế cao đẹp tàn lụi đi nhường chỗ cho một giống cây lùn thấp gai góc chi chít, không có lá. Xung quanh động Sói ở giòi bọ sinh sôi nẩy nở kể hằng hà sa số; những con sống bò lúc nhúc leo lên nhau thành từng đống lớn, những con chết rữa ra thành một bãi lầy. Ánh sáng chiếc đũa vạn năng tắt ngấm. Kể từ đó mọi người bảo nhau lánh xa khu rừng yêu quái.
Con sói đâu có chịu cô độc trong rừng gai giữa bãi lầy giòi bọ! Nguyên do sau khi cảm thấy đuôi cứng tan thành máu trong người, con sói tuy biết mình vĩnh viễn không bao giờ còn sử dụng được chiếc đũa vạn năng nữa, nhưng linh tính loài yêu của nó càng thêm mẫn huệ và nẩy thêm tài lạ: Vẫn ngồi tham thiền, nó phóng tâm nghĩ đến kẻ nào lập tức biết hết những ham muốn thầm kín của kẻ đó. Nó quyết tâm biến Oa-ly-đà thành giang sơn của riêng nó, toàn thể dân Oa-ly-đà thành dân của nó. Sau một đêm tham thiền, nó tìm ra được một quỷ kế sâu độc nhất, chu toàn nhất. Thoạt tiên nó đi bắt một lũ trăn rừng biến chúng thành một bầy thiếu nữ; bắt một bầy khỉ, vượn, đười ươi, đông có hàng trăm, biến chúng thành lũ đầy tớ chuyên việc băng đèo, vượt núi đến các khu rừng lân cận kiếm hoa quả mang về, hoặc ban đêm lần vào trong dân gian ăn cắp thực phẩm và vàng bạc; sau cùng nó triệu tập một lũ sói con biến chúng thành lũ trai gái nhỏ lanh lẹ có tài nhảy múa nhào lộn.
Dân chúng Oa-ly-đà cùng các khách bộ hành từ trong đại lục phía Tây đi ra biển Đông chợt nhận thấy bao quanh phía trước khu rừng gai là một khu rừng hoa hồng. (Xa khu rừng gai thì mùi hôi thối cũng bớt, các loài hoa có thể mọc được.) Đi quanh khu rừng hoa đó người ta thấy cứ cách một dặm lại gặp một hàng nhà quay lưng vào nhau từ chân khu rừng gai đến luống hoa ngoài cùng. Có những cô gái dịu dàng da trắng mắt đen ngày ngày tỉa lá bắt sâu. Các cô rất mến trẻ con, em nào lân la vào vườn đều được các cô niềm nở ngắt hoa cho cầm.
Nhưng cả vùng bỗng xôn xao vì có rất nhiều trẻ em bị mất tích. Rồi một ngày kia chính mắt một bà mẹ thấy các cô gái chuyền tay nhau đưa đứa con của mình đến chiếc nhà trong cùng. Bà hốt hoảng chạy bổ vào, các gian nhà đều trống không, mùi hôi tanh từ khu rừng gai xông ra nồng nặc. Dân chúng tỉnh ngộ biết đó là vườn hoa yêu tinh. Mọi người tụ hội lại, kẻ vác dao búa, người vác cung tên xông vào phá nhà. Họ nhổ bật các cây hoa, mùi tanh lợm thoát lên từ lòng đất và thêm điều lạ là rễ cây hoa nào cũng thấy vương một đám lông thú ba mầu: đen, trắng và hung hung. Đoàn người nổi giận tiến sát rừng gai, dùng tên dẫn hỏa bắn vào như mưa cho đến khi họ không chịu được mùi hôi thối nữa mới ra về, để hôm sau lại tụ tập và hành động như vậy. Họ quyết làm dữ những mong cứu lấy đàn con cháu và đuổi được loài yêu cho rừng gai trở thành rừng quế.
Một buổi chiều, đúng lúc họ đương làm dữ thì vẳng nghe có tiếng trẻ con reo hò. Lũ trẻ xuất hiện ra cửa rừng. Chúng thoạt nắm tay nhau vừa la hét vừa nhảy múa. Nhận ra lũ con cháu mất tích, các bậc cha mẹ chạy đến gọi, nhưng càng gọi chúng càng reo hò lồng lộn. Khi chúng ngừng lại thì chao ôi, mọi người mạnh ai nấy chạy: lũ trẻ đã biến thành đàn sói đi trên hai chân. Ít lâu sau khoảng rừng hoa biến nốt thành rừng gai. Dân cư lại một phen lủi ra xa, khách bộ hành lại một phen tìm đường mới nối đại lục với bờ biển: họ tránh mùi hôi thối, họ tránh khu rừng yêu tinh.
Chẳng bao lâu lại một cánh đồng hoa mới xuất hiện, luống ngoài cùng sát gần những thôn làng đông dân cư. Lại một số người chưa rõ sự nguy hiểm để con trẻ lai vãng vào xem hoa rồi bị mất tích. Dân chúng lại một phen phẫn nộ hùa nhau đến phá cánh đồng hoa nặng mùi xú uế, các cây hoa nhổ bật gốc đều thấy có lông thú ba màu. Họ cũng mang tên lửa và đao búa đến để bắn phá rừng gai cho đến một chiều kia lũ trẻ đột nhiên xuất hiện quay cuồng nhảy múa rồi biến thành lũ sói đi trên hai chân. Một lần nữa khu rừng hoa mở rộng thành khu rừng gai. Một lần nữa dân cư quanh vùng dời đi nơi khác, và khách bộ hành tìm đường giao thông mới xa vùng hôi tanh. Lại cánh đồng hoa khác xuất hiện ngay bao bọc lấy khu rừng gai mà diện tích đã rộng lên gấp bội.
Mối nguy hiểm đã được truyền đi khắp Oa-ly- đà, không một ai dám để trẻ con lai vãng khu rừng hoa. Nhưng sao cứ sau mỗi đêm lại có một số khá lớn trẻ con bị mất tích? Các trai tráng phải họp lại cắt phiên nhau thức canh và đi tuần. Một đêm kia, khi thấy một cơn gió lạ thổi tới, toán người canh tắt vội đèn, nằm rạp xuống. Từ xa bóng một lũ người cao lớn dị thường, dáng đi khệnh khạng nhưng bước tiến nhanh và nhẹ vô cùng. Thì ra đó là một đoàn đười ươi! Lũ đười ươi lẹ vút qua tường, khuất sau các nhà. Chỉ một loáng đã thấy chúng nhảy ra, mỗi con dưới nách có cắp một đứa trẻ. Chúng nhảy nhẹ, chúng bắt trẻ nhanh đến nỗi lũ trẻ không kịp khóc và cha mẹ chúng cũng không hay biết chi cả.
Tin đàn đười ươi ma xuất hiện vào nửa đêm tới các thôn xóm bắt có trẻ em được lan đi rất chóng. Dân cư quanh vùng vội vã bỏ tất cả nhà cửa, ruộng nương của cải lại mà chạy tuốt xuống sâu miền Nam Oa-ly-đà: họ cần cứu lấy đàn con họ. Lập tức khu rừng hoa cũ biến thành khu rừng gai. Lập tức sát với các làng mạc đông dân cư xuất hiện rừng hoa đẹp mới. Không ai mắc mưu nữa. Đêm đến dân làng cắt canh, đánh trống, đánh chiêng, đánh cồng, đánh mõ nhưng đười ươi vẫn xuất hiện bất ngờ để khi vút ra đi mang theo lũ trẻ thơ vô tội.
Lại một phen dân chúng bỏ quê hương xóm cũ. Lại một phen bờ cõi rừng gai mở rộng, rừng hoa hồng mới thành hình. Ôi! Những bông hồng nhung, những bông hồng sắc đỏ như máu nay đã thành một ám ảnh kinh hoàng cho dân chúng Oa- ly-đà đáng thương! Kinh đô Oa-ly-đà xôn xao. Nhà vua thiết lập đại trào bàn mưu tính kế chặn bước tiến của khu rừng hoa giết người. Đại binh Oa-ly- đà được cập tốc cử đến vây quanh rừng hoa. Qua một đêm rừng hoa biến thành rừng gai, mùi xú uế xông ra nồng nặc, rồi chiều chiều lũ trẻ con đông hàng vạn ào ạt xuất hiện nhảy múa quay cuồng để một lát sau hiện thành đàn sói tiến lên hung hăng nạt nộ. Đoàn quân đâu có sợ vì họ vừa đông vừa có khí giới. Tuy nhiên họ cũng không hề dùng cung tên mà bắn, hoặc dùng gươm giáo mà chém mà đâm vì họ biết đoàn sói con đó là lũ trẻ vô tội. Họ chỉ lùi lại khi không thể chịu được hơn nữa mùi xú uế của khu rừng gai. (Mùi đó bao giờ cũng mỗi ngày một nồng nặc hơn.) Hễ đoàn quân lùi, khoảng đất trống đó tức khắc biến thành rừng gai.
Có một buổi sớm kia, khi bình minh vừa hé, đoàn quân thấy từ viên nguyên soái qua các hàng thượng tướng, trung tướng, tiểu tướng đến tì tướng đều mỗi người ôm một mỹ nhân cùng nằm lõa lồ giữa trời. Việc đó không phải chỉ xẩy ra có một lần mà tái diễn luôn. Lòng kính nể cấp trên mất đi, đoàn quân bắt đầu vô kỷ luật từ đấy và sức chịu đựng mùi xú uế của họ giảm đi rất nhiều. Có khi trại quân vừa thiết lập xong, họ đã tự động nhổ cọc để lùi.
Một tình trạng tương tự xảy ra tại kinh đô. Dân chúng bắt quả tang một vị đại thần nhận lễ đút vàng bạc của một người khách lạ; một vị khác bị bắt quả tang thông dâm với vợ một tên hạ quan dưới quyền mình, một bà đại thần đa dục bị bắt quả tang nằm say đắm trong tay một viên tham tán quân vụ. Kho đụn nhà vua tự nhiên hao hụt: rõ ràng có người ăn cắp! Thú tính tham vàng bạc, tham sắc dục được đà phát triển đến cực độ ở các nhà quyền quý. Trong triều, nhà vua không còn dám tin ai, các quan đại thần nghi kỵ lẫn nhau, dân chúng thì khinh các quan đại thần ra mặt. Đoàn quân tiếp tục nhường đất khiến một phần nửa Oa- ly-đà đã biến thành rừng gai. Các bậc hiền sĩ danh thần xót nước thương nòi, lòng đau như cắt mà không sao tìm được mưu kế gì khả dĩ cứu vãn tình thế nguy ngập đó. May sao, vừa lúc phương danh Thánh đế Hạc Miên tự miền cửa Nam lan tới. Một vị lão thần tới tâu trước bệ ngọc xin nhà vua kíp viết một bức thơ cầu cứu. Và – như chúng ta đã biết – vị hiền thần đáng kính đó đã lặn suối trèo đèo tìm lên được động cao, rập đầu khóc xin cầu cứu trước bệ đá của Thánh đế Hạc Miên.
Thánh đế lên đường tức khắc. Tới nơi ngài không rẽ vào kinh đô Oa-ly-đà mà đi thẳng ra trận tuyến. Ngài trèo lên một ngọn núi cao gần đấy, chọn một phiến đá phẳng giữa giòng suối ngồi tham thiền. Và ngài đã biết hết nguyên ủy! Trong khi mải suy cứu cách đối phó với sói, ngài cúi nhìn dòng nước trong suốt và giật mình thấy khuôn mặt thẫn thờ của mình hiện bên dưới như khuôn mặt của kẻ khác. Chính vì vậy ngài chợt tìm ra được một diệu kế… Trở về kinh đô Oa-ly-đà, ngài yêu cầu nhà vua cho triệu hồi ngay tất cả cấp tướng ngoài trận tuyến về để cùng hội họp với bách quan trong một buổi đại triều. Khi đã đông đủ, nhà vua lo lắng hỏi Thánh đế nguyên do tai nạn của Oa-ly- đà. Thánh đế giải thích:
- Đây là hành vi tác quái của con sói tu luyện thành yêu. Nó đã từng uống máu hai giống người để biến cái đuôi đi. Mùi hôi thối trong khu rừng gai xông ra chính là mùi lông của nó rữa nát thành giòi bọ.
Một viên đại tướng hỏi:
- Cây hoa nào nhổ lên cũng thấy có túm lông ba sắc, dám xin Thánh đế cho biết đó phải chăng là lông sói?
Thánh đế gật đầu đáp:
- Chính thị! Con yêu quỷ quyệt này biết thừa không ai có thể nhất đán vào sống ngay trong rừng gai, nó bầy ra rừng hoa vừa để trang điểm phía ngoài vừa để vực dần cho nạn nhân quen với mùi hôi thối. Đó, công dụng những túm lông sói ba mầu nhét dưới gốc hoa!
Một vị đại thần khác hỏi:
- Dám xin Thánh đế chỉ giáo cho biết quỷ kế con yêu và chuyện nó bắt cóc các trẻ con.
- Nó dự định biến dần toàn thể Oa-ly-đà thành khu rừng gai. Nó dự định bắt cóc dần hết các trẻ Oa-ly-đà. Nó biết không thể hóa người thành sói có đuôi nhưng nó tin rằng sau khi những người già và những thanh niên Oa-ly-đà hoặc chết đi, hoặc trốn đi thì bầy trẻ đó lớn lên với bầy sói, nhảy múa với bầy sói, rồi tâm tính cũng chắc khác gì sói. Khi đó đời đời nó sẽ là chúa tể một tiểu thế giới người sói.
Vua và bách quan rùng mình. Một vị đại thần khác hỏi:
- Dám xin Thánh đế cho biết vì sao lũ trẻ quay cuồng nhảy múa một lúc thì biến thành sói?
- Con sói đã khiến lũ trẻ quay cuồng theo lũ bộ hạ của nó để lũ trẻ không kịp nhận ra cha mẹ. Lũ trẻ quay cuồng cho đến khi tâm thần thác loạn thì bị Sói phù phép cho hiện thành đàn sói con nạt nộ cha mẹ, cô, dì, chú, bác. Sói muốn những người ngày vì vậy hoảng sợ mà hết hy vọng cứu đàn con cháu, có biết đâu chỉ một lát sau lũ trẻ trở lại nguyên hình, tuy tâm hồn còn u mê vì nhiễm uế khí khu rừng gai.
Vua Oa-ly-đà quỳ xuống trước Thánh đế, giọng nói gần như khóc:
- Xin Thánh đế ra tay tế độ cứu nước kẻ bạc đức này khỏi hiểm họa diệt chủng; Xin Thánh đế rủ lòng thương cứu lấy những trẻ nhỏ vô tội bị u mê trong uế khí.
Thánh đế ôn tồn đáp:
- Tôi đến đây cũng chỉ để giúp Ngài có vậy. Hiện tôi có đủ cách đánh bại mưu kế hiểm độc của con sói, nhưng riêng tôi không đủ mà phải chính Ngài cùng toàn thể bách quan văn võ của ngài cùng giúp tôi.
Bách quan cúi đầu kính cẩn:
- Xin Thánh đế cứ truyền để chúng tôi được tuân lệnh!
Thánh đế tiếp:
- Tôi cần nói rõ hơn về con sói.
Vua và triều thần im lặng chờ nghe. Tiếng Thánh đế tuy vẫn giữ được êm đềm mà nghe sao thấm thía:
- Các vị có biết vì đâu các vị không chống nổi con sói? (Ngài im lặng nhìn mọi người giây lâu mới tiếp.) Nguyên do ngoài tài bầy mưu thân chước quỷ con sói còn một phép lạ: Nó có thể ngồi nguyên trong rừng gai, phóng tâm đi mà biết được địch thủ ham muốn gì, rồi nó dùng phép thần thông cho địch thủ được thỏa mãn những ham muốn đó giữa công chúng. Những vị hiếu sắc được ôm những mỹ nữ lõa lồ giữa trời. Các vị có biết đâu những mỹ nữ đó thuần là giống trăn rừng? Những vị khác ở kinh đô được thỏa lòng dục với vợ các viên hạ quan. Việc đó chính là do sói sai đười ươi nửa đêm vượt từng bắt cóc mỹ nhân đem đến dâng cho. Những vị khác thích vàng ngọc châu báu thì được dịp vơ vét vàng ngọc chấu báu có biết đâu vàng ngọc châu báu đó đều do đười ươi lấy cắp trong kho vua rồi hiện thành khách lạ đem đến biếu. Các vị có biết chăng Ngọc hoàng Thượng đế khi cho loài người xuống trần, Ngài chỉ có một bát máu để phân phát đều cho tất cả. Máu đó chính là hoa màu ngoài đồng, vàng bạc châu báu trong kho. Các vị có biết chăng nếu máu tụ lại nhiều ở một người thì ngàn vạn người khác thiếu máu. Những người nhiều máu tưởng mình hồng hào tươi đẹp, rực rỡ, có biết đâu qua con mắt thiếu máu của ngàn muôn triệu kẻ khác họ chỉ là những hình ác quỷ đứng giữa một thế giới vàng vọt, ghê tởm.
Cả triều thần bẽ bàng cúi mặt. Mấy viên tướng mím chặt miệng, răng cắn vào môi máu chảy ròng ròng mà không biết. Thánh đế tiếp:
- Bởi vậy tất cả những người có chút tà tâm đều bị con sói làm nhục trước dân chúng và đánh bại. Lòng các vị, nhiều người cũng muốn thành lang sói thì làm sao mà diệt được nó là loài lang sói thật đã thành tinh? Trái lại, con sói vẫn phóng tâm đi mà không hại được các vị mảy may, nếu các vị giữ được lòng thánh thiện. Khi đó việc diệt con sói lại dễ dàng như cầm giáo mác đến đâm chém một con vật mù, tứ chi vụng dại. Điều đó rồi đây các vị sẽ có dịp chứng kiến!
Cả triều thần bách quan văn võ vẫn im lặng, nhưng khuôn mặt mọi người đều hơi ngẩng lên, hy vọng. Giọng Thánh đế dịu dàng hơn:
- Xin các vị tướng sĩ trở về trận tuyến, giữ cho lòng thánh thiện và dạy cho ba quân biết giữ lòng thánh thiện. Các vị sẽ thấy tự nhiên mùi hôi thối của khu rừng gai không bợn đến các vị và con sói không chiếm thêm được một tấc đất nào nữa của Oa-ly-đà. Tại kinh đô, xin các vị đại thần hành sự trong thánh thiện để chiếm lại lòng mến phục của muôn dân. Xin Đức vua mở kho đem hết lụa là, kim ngân, châu báu giúp đỡ các gia đình nghèo lập nghiệp. Xin Đức vua thu xếp cho một nơi tĩnh và rộng, đưa tới đó ba chục nhạc sĩ cùng ba trăm trẻ em: nửa trai nửa gái. Xin Đức vua cho làm ngay ba trăm tấm đồng đánh bóng như gương, bề cao bằng đứa trẻ. Qua một tuần trăng nữa chúng ta có thể đuổi được con sói ra khỏi Oa-ly-đà.
Tới đây bách quan theo gương vua cùng sụp xuống lạy trước Thánh đế. Nước mắt nhà vua thấm đẫm vạt áo bào. Nước mắt quan văn thấm đãm vạt áo xanh, nước mắt quan võ rơi lên bộ giáp rồi lăn tuột xuống nền đá hoa cung điện.
°Tại Minh Viễn Lâu - (lầu cao để Vua tới ngắm phong cảnh) - rộng và tĩnh, Thánh đế yêu cầu ba mươi nhạc sĩ dạy cho ba trăm trẻ em hát đều những khúc ca dịu dàng thanh thoát mà trước đây các em vẫn được nghe mẹ ru. Được Thánh đế giảng dạy cho biết nghĩa lý cao xa của lời thơ giản dị, giọng các em nức nở khi hát những đoạn gọi cảnh cha già,mẹ yếu và lũ con thay phiên nhau hầu hạ sớm hôm.
Một tuần trăng qua…
Tới ngày dự tính, ba trăm em nhỏ mặc toàn đồ trắng – Đoàn quân thánh thiện của Thánh đế – dời kinh đô đi bốn ngày liền thẳng tới trận tuyến. Cùng đi với các em là số đống gấp năm những bậc phụ mẫu có con cháu nạn nhân ở khu rừng gai. Quân lính trấn thủ được lệnh rút lui, nhừng chỗ cho đoàn người mới. Các bậc phụ mẫu thoạt được xếp hàng đầu đối diện với khu rừng gai.
Buổi chiều, theo như thường lệ, đoàn trẻ con xuất hiện với vũ khúc ma quỷ. Chúng ngoắt quay tả, ngoắt quay hữu, ào ạt tiến lên phía trước, lùi lại phía sau, tung mình lên cao, cong người nhào lộn… thoắt biến thành sói đi trên hai chân. Theo lệnh Thánh đế các bậc cha mẹ lùi về phía sau. Đoàn quân thánh thiện tiến bước với những gương đồng và lời đồng ca nổi lên. Đoàn sói con đứng sững trước một thành dài gương đồng bóng loáng. Chúng nhìn hình ảnh sói phản chiếu trong đó, thoạt ngơ ngác… Chúng quay nhìn phía sau: khu rừng gai. Chúng quay nhìn bên hữu: núi chiều nhuộm ánh hồng. Chúng quay nhìn bên tả: gần đấy màu xanh óng ả của con sông gợn sóng, xa hơn màu tím xẫm của mặt biển chập chùng. Tiếng đồng ca như hòa vào ánh sáng rồi tỏa rông ra…
Lũ sói con nhìn lại gương đồng, rùng mình hiện thành hình người như cũ. Có tiếng reo vui đằng xa. Gương đồng không xếp liền hàng ngang mà xoay lại thành hàng dọc, chiếc nọ sau chiếc kia với những khoảng cách đủ cho đứa trẻ có thể lách qua mà chạy về phía cha mẹ. Nhưng dáng chúng vẫn còn bỡ ngỡ. Chúng cúi đầu suy nghĩ rồi lại nhìn cảnh vật xung quanh. Sương đã bắt đầu nhẹ tỏa trên mặt sông mặt biển, ánh hồng cuối cùng của ngày tàn còn nhuộm đỉnh trời cao. Lúc đó lũ trẻ mới bớt vẻ bàng hoàng và chú mục về phía cha mẹ đương vẫy chúng ở bên kia hàng gương đồng. Lời đồng ca cũng vừa đến đoạn vang lên nức nở:
Tình mẹ rộng như biển cả Tình mẹ sáng như sao trời Con hỡi, nhìn về đây phía mẹ Con nhìn đi đâu xa xôi?!
Tiếng hát thiết tha phiêu phiêu theo gió chiều… tỏa rộng ra khơi… vút lên cao gặp mây ngàn… vút lên cao nữa gặp mấy vì sao vừa mọc… Lũ trẻ bỗng khóc òa, lao mình qua Đoàn quân thánh thiện, lách giữa những gương đồng chạy miết về phía có những cánh tay đương dang rộng chờ đón chúng.
Đằng xa đời ươi, khỉ, vượn, trăn… lũ lượt theo nhau bỏ khu rừng gai, cùng tiến về dãy núi cao, mãi đằng xa… xa tít phía Tây. Tiếng đồng ca vẫn vang lên tưng bừng giữa vùng ánh vàng huyền ảo của một buổi chiều hiền và rộng để ca ngợi sức sống nhiệm mầu. Khi ánh vàng tắt đi núi, sông, biển chìm dần vào bóng tối… Lời ca trở lại êm ả như dòng thời gian man mác đến gột rửa một lần cuối cùng những buồn tủi của người con, những nhớ nhung của cha mẹ. Lời đồng ca vừa rứt, trời bỗng tối sầm. Một tia chớp lóe ra cùng với đám mây đen kịt xuất hiện sừng sững trên đỉnh núi Tây. Thánh đế ra hiệu cho Đoàn quân thánh thiện quỳ xuống theo mình. Sau đó ngài đứng dậy quay lại nói cho tất cả mọi người rõ:
- Thượng đế vẫn dung tha Tật Ác. Bởi là Đấng Chí Tôn. Ngài biết Tật Ác trong đời chỉ làm tăng thêm các vẻ đẹp của điều Thiện và khuyến khích con người càng ham noi theo điều Thiện. Lần này Thượng Đế nổi giận vì Tật Ác muốn tranh quyền Ngài cai quản nguồn thiêng.
Thánh đế ra lệnh cho Đoàn quân thánh thiện xếp những gương đồng theo rìaa khu rừng gai rồi tất cả mọi người lui ra thật xa… thật xa… Mây đen đã tỏa ra để phủ nặng xuống khu rừng. Nước trút xuống thành thác… muôn ngàn tia chớp sáng lóe như những nhát búa thần bổ xuống, như những đường gươm thần xiên ngang. Sấm sét xé màng tai, sấm sét gầm thét lời thịnh nộ, sấm sét như núi trời lở xuống để lấp biển. Cơn lôi đình của Thượng Đế càng hùng vĩ uy nghiêm càng gieo niềm tin vững chắc vào lòng người, tin ở lẽ chí công, chí minh của Đấng Chí Thiện. Sớm hôm sau, khi thức giấc, mọi người thấy khoảng rừng gai chiếm nửa Oa-ly-đà biến mất. Người ta đi ngược lên tìm khu rừng quế cũ và dẫy núi đá xưa. Cả khoảng đó bị sét đánh hoắm xuống thành vực, có chỗ sâu tới mười trượng; rồi mưa ngàn đổ xuống nước ngập thành hồ.
Một trăm năm sau xung quanh hồ mọc thuần một giống thùy dương, vì vậy người Oa-ly-đà gọi là Hồ Thùy Dương.
Những đêm trăng sao vằng vặc, hồ biến thành tấm gương lớn phản chiếu cả vòm tinh tú; ngay cả những đêm trời tối đen như mực, mặt hồ cũng lấp loáng bốc lên những đợt hào quang. Người ta bảo đó là ánh sáng của những mảnh vụn chiếc đũa vạn năng. Những lúc đó, mặt hồ có sức hút kỳ thú đến nỗi du khách, trong một khoảnh khắc xuất thần nhập hóa, tưởng như vừa được rót hồn mình vào vũ trụ.
*Đó là khúc nhạc thi ba hồi kể lại sự tích Hồ Thùy Dương giữa khoảng núi non trùng điệp, rừng cây sầm uất miền Bắc xứ Oa-ly-đà. Dân chúng lặng yên nghe lời ca… nghe tiếng dân… cùng vỗ tay giữ nhịp đồng ca với thi sĩ hoặc đứng lên làm điệu bộ phù hợp với lời thơ.
Đêm dài thành ngắn! Khi câu chuyện vừa chấm dứt, dân chúng ra về thì trăng Rằm thường cũng vừa kịp lặn, vừng đông hơi ửng hồng, cỏ hai bên đường đẫm sương.
Những hình ảnh đó như nhắc nhở dân chúng nhớ lại biết bao nhiêu… biết bao nhiêu tình tiết trong câu chuyện kể thâu đêm vừa qua.