TRẠNG ĐI SỨ
Sau khi nghe quan đại thần họ Lưu vừa đi sứ nước Nam về thuật lại mọi việc, vua Tàu đập tay lên long án:
- Chuyến này sứ nước Nam tới đây đáp lễ, các khanh khá vì ta tìm kế làm nhục hắn một phen cho hả.
Quan đại thần họ Lưu cúi thưa:
- Muôn tâu Thánh thượng, thần đã giao thiệp nhiều với bầy tôi An Nam quốc vương nên biết khó mà làm nhục được họ. Về tài ứng đối họ vô cùng mẫn tiệp. Lấy lễ mà xử thì họ cũng lấy lễ xử lại. Nếu mình giở thái độ giảo lá, họ vẫn giữ được điềm đạm, nhưng trả miếng tức khắc khiến mình không há miệng trách họ vào đâu được. Đến mưu trí của họ, như chuyện chọi trâu thực chẳng biết đâu mà lường 1.
Các vị cận thần khác tâu:
- Xin Thánh thượng an tâm, sứ An Nam ở nước họ khác, tới đây khác. Dù nhanh trí, dù tinh khôn đến đâu, hắn cũng sẽ bị chúng thần làm nhục.
Nghe vậy vua Tàu yên tâm, cho bãi chầu.
° ° °
Một tháng sau Trạng nước Nam tới Tràng An, vào nhà công quán, ở đó Trạng đã thấy có sứ Miến Điện, sứ Triều Tiên và sứ Mông Cổ.
Sứ Miến Điện tuy không là hòa thượng nhưng cũng sùng đạo Phật, người hiền lành, thực thà, tay luôn luôn lần tràng hạt. Sứ Mông Cổ có vẻ ngốc nghếch, bộc tệch. Duy có sứ Triều Tiên là thông minh nhưng lại quá đạo mạo. Tính tình ba sứ đều khác hẳn với Trạng.
Nghe Trạng kể những chuyện ứng đối tương tự như câu:
Trướng nội vô phong, phàm tự lập
Hung trung bất vũ, thủy trường lưu 2
Thì sứ Mông Cổ thích chí cười hô hố, sứ Miến Điện suy nghĩ một lát rồi mới mủm mỉm, còn sứ Triều Tiên vẫn trầm mặc ngồi yên một góc, chẳng nói chẳng rằng.
Ngay buổi chiều hôm sứ nước Nam tới, vua Tàu có sai một viên quan trong Viện Hàn Lâm đem đến công quán bốn chiếc bánh. Ông Hàn này đặt bánh trên bàn, chào bố sứ rồi khoanh tay ngồi từ tại trong một góc phòng. Sứ Miến Điện ngồi nguyên chỗ cũ tay lần tràng hạt; sứ Mông Cổ nhìn bánh, nhìn ông Hàn Tàu rồi nhìn các sứ thần bạn như muốn hỏi xem: “Ý họ định gì?”; sứ Triều Tiên điềm đạm cúi đầu suy nghĩ. Trạng ra ngồi bên bàn, thủng thỉnh bóc bánh ăn hết cái này sang cái khác cho kỳ hết. Ông Hàn Tàu bèn tiến tới xòe bốn ngón tay ra trước mặt Trạng. Trạng xòe hai bàn tay đưa ra tám ngón trước ông Hàn Tàu. Ông Hàn Tàu gật đầu chỉ vào bụng. Trạng liền nắm tay đưa ra phía trước mặt.
Đến đấy ông Hàn vái chào bốn sứ rồi ra về. Vua Tàu ngồi đợi ở điện Thái Hòa. Ông Hàn về tâu chuyện lên vua rằng:
- Muôn tâu Bệ hạ, khi thần đặt bánh lên bàn, sứ An Nam coi như của Bệ hạ ban nên xơi hết. Hạ thần bèn đưa bốn ngón tay ra, ý nói: “Tứ di lai triều” (Bốn giống dân đến chầu), sứ An Nam đưa ngay tám ngón tay ra đối lại: “Bát man tấn cống” (Tám giống người đến cống). Hạ thần chỉ vào bụng, ý nói người nước ta đều là “Hung trung binh giáp” (Trong bụng chứa đầy binh giáp), sứ An Nam bèn nắm tay đưa ra đối lại rằng dân nước hắn “Chưởng thượng kinh luân” (Trên tay gồm hết kinh luân). Xét ra trong bốn sứ đến triều kiến quả thực chỉ có sứ An Nam là mẫn tiệp hơn cả.
Trong khi đó ở nhà công quán, sứ Miến Điện vẫn lần tràng hạt, sứ Triều Tiên càng đăm chiêu suy nghĩ, sứ Mông Cổ chạy lại hỏi Trạng:
- Vừa rồi hai vị đối đáp gì với nhau vậy? Trạng điềm nhiên trả lời:
- Có gì đâu, ông Hàn Tàu thấy tôi ăn hết cả bốn cái bánh thì giơ tay ra hiệu: “Sao ông ăn cả bốn cái bánh như vậy?” Tôi giơ tám ngón để đáp: “Đến tám cái tôi ăn cũng hết nữa là.” Ông Hàn chỉ vào bụng ý nói: “Ông ăn cả như vậy không sợ vỡ bụng hay sao?” Tôi giơ nắm tay ra đáp: “Thứ bánh nhỏ bằng nắm tay như vậy thì có gì mà vỡ bụng.” Ông ta thấy tôi nói có lý nên rút lui.
Tên thị vệ Tàu đứng đấy – tiếng là để hầu, kỳ thực để do thám – bèn mật báo về triều cho vua hay. Vua Tàu lập tức triệu quan đại thần họ Lưu tới hỏi ý kiến.
Vị này đáp:
- Muôn tâu: Sứ An Nam chắc là thấy sứ Mông Cổ ngộc nghệch nên mới giải thích đùa như vậy; hạ thần e rằng trong cuộc đối đáp bằng cử chỉ đó, sứ An Nam còn có ý nói nhiều điều nữa mà chúng ta chưa hiểu hết. Biết đâu đó không là một bài thơ tiếp lời ta mà bàn về “tứ thời bát tiết”? Chẳng lẽ ta hỏi lại thì còn gì là thể thống?
° ° °
Thấm thoắt Trạng ở Tràng An vừa được một tháng. Chưa thấy vua Tàu chính thức vời bốn sứ vào để bàn về mọi nghi thức giao hảo. Tuy mới một tháng qua mà Trạng đã thêm hai lần bị thử tài.
Lần thứ nhất:
Tự nhiên có một viên quan trong Viện Hàn Lâm đến nhà công quán tìm Trạng rồi hỏi dựng đứng một câu:
- Chúng tôi được nghe nói ngài vẽ giống vật khéo và nhanh lắm phải không?
Biết là họ định thử mình đây, Trạng đáp liền:
- Dạ, khéo thì biết thế nào là cùng, nhưng nhanh thì nhất định tài tôi khó ai bì kịp.
Quan Hàn Lâm mỉm cười cáo biệt. Hôm sau Trạng được vua Tàu mời vào điện Thái Hòa, ở đấy đã có một họa sư tài ba nhất nước Tàu chờ Trạng để cùng thi vẽ nhanh. Hẳn quý vị độc giả còn nhớ kết quả: Trạng của chúng ta đã nhúng cả mười ngón tay vào nghiên mực ngoáy thành mười con giun trên tấm lụa bạch khi tiếng trống vừa dứt.
Khi Trạng trở về công quán, vua Tàu mới nói với quần thần:
- Điều hớ là mình không định trước phải vẽ con vật nào.
Quan đại thần họ Lưu – (Xin nhắc lại: tức là vị đại thần đã đi sứ nước Nam và đã từng chạm trán với Trạng) – lên tiếng:
- Muôn tâu, thì bao giờ họ chẳng nhằm đúng vào điểm hớ để mình không nói vào đâu được. Cứ như cách thức họ đem nghé ra chọi trâu khi xưa thì mưu cơ của họ chẳng biết đâu mà lường được. (Quan đại thần họ Lưu có vẻ bị ám ảnh nhiều về việc chọi trâu.)
Một vị lão thần khác nói:
- Muôn tâu Thánh thượng, thần đã có cách ra cho hắn một đề thơ:
Quan đại thần họ Lưu vội nói:
- Ấy chớ, thi ca là sở trường của nước họ. Vị lạo thần gạt đi một cách cương quyết.
- Xin cứ yên tâm! Xin cứ yên tâm! Tôi đã có cách.
Ngày hôm sau, lại một quan Hàn Lâm khác đến công quán đúng lúc Trạng và sứ Triều Tiên đang trổ tài họa thơ. Sứ Triều Tiên lộ vẻ thán phục Trạng lắm, không còn giữ thái độ lạnh lùng như xưa nữa.
Quan Hàn lên tiếng hỏi Trạng:
- Nghe nói, quan Trạng ngài giỏi về thi văn lắm, có thật thế chăng?
Trạng đáp:
- Chúng tôi chỉ gọi là biết làm thơ đúng niêm đúng luật một chút mà thôi.
Sứ Triều Tiên trách Trạng quá nhũn nhặn! Lại đem cả những bài thơ vừa xướng họa ra đưa cho ông Hàn Tàu xem.
Ông Hàn nói:
- Sớm mai tôi xin đến đây rước hai ngài vào điện Thái Hòa để Hoàng thượng cùng chúng tôi được dịp thưởng thức văn tài của các quý ngài.
Quả nhiên sớm hôm sau ông Hàn tới đón Trạng cùng sứ Triều Tiên tới điện Thái Hòa yết kiến vua Tàu. Khi ai nấy đã an tọa, một tên thị vệ ở trong chạy ra đánh vào chiếc trống lớn, chỉ dùi lên trời rồi lẳng lặng đi vào.
Trạng biết đó là cách ra đề, nhưng vẫn chưa hiểu ý họ định nói gì. Liếc nhìn sứ Triều Tiên. Trạng thấy ông này có vẻ hiểu, đương gật gù cấu tứ rồi viết câu đầu. Trạng chặc lưỡi ngoằng vội lên tờ hoa tiên bốn dòng tứ tuyệt rồi dâng lên vua Tàu. Lúc mang lên nộp Trạng có đi qua chỗ sứ Triều Tiên vỗ vai ông ta rồi chỉ vào bài thơ của mình cười, tỏ ý Trạng đã làm bài đó trong một lúc thi hứng sung mãn vô cùng. Nộp xong Trạng trở về, tì khuỷu lên bàn, tay đỡ lấy cằm, đôi mắt xa xôi… Hình như Trạng muốn tức cảnh nghĩ thêm một bài nữa.
Trong khi đó vua Tàu, mặt rồng hớn hở, mở tờ hoa tiên ra đọc. Nhà Vua hơi cau mày suy nghĩ rồi kín đáo vẫy mấy vị cận thần lại hỏi khẽ điều gì. Các vị cận thần cùng châu vào bài thơ, cùng nhíu lông mày, rồi cùng lắc đầu.
Vua Tàu đành cho vời Trạng lên – cùng một lúc với sứ Triều Tiên nộp bài – rồi nói:
- Chữ khanh viết thảo, trẫm không sao đọc nổi. Trạng kính cẩn tâu:
- Dạ! Tâu Bệ hạ, nếu vậy để thần xin viết lại chân phương.
Rồi Trạng viết.
Vua Tàu cùng quần thần so bài thơ thất ngôn bát cú của sứ Triều Tiên với bài tứ tuyệt của Trạng, đều nhận rằng tứ thơ vịnh “Tràng An đại cổ” vần Thiên 3 của cả hai đều sâu sắc nhưng lời thơ của Trạng bay bướm hơn nhiều.
Khi hai sứ thần đã dời khỏi điện Thái Hòa trở về công quán, quan đại thần họ Lưu chợt vỗ đùi nói lớn:
- Chúng ta lại mắc mưu sứ An Nam rồi.
Nhà vua và các vị đại thần khác thẩy đều ngạc nhiên nhìn Lưu công. Ông này nói:
- Muôn tâu Thánh thượng. dù thông minh đến mấy cũng không thể nghe dứt tiếng trống mà hiểu ngay đầu đề rồi lại làm xong ngay bài tứ tuyệt. Cách viết thảo đó chẳng qua là hoãn binh chi kế để tìm tứ thơ của sứ An Nam.
Lúc đó quần thần mới ngẩn người tỉnh ngộ và vua Tàu khen mãi quan đại thần họ Lưu tinh ý.
Tới một sớm kia khi Trạng thức dậy thấy công quán có vẻ nhộn nhịp khác thường. Ra bao lơn nhìn xuống, quanh nhà công quán đều có lính ngự lậm mặc quần áo đỏ, nẹp xanh, vây kín. Lát sau, viên hành tẩu bộ Lễ tới đệ lên một phong thơ trong đó đại ý nói: Xin bốn sứ thần hãy chuẩn bị tiếp quan Đại thần bộ Lễ, có lẽ sắp tới. Lính thị vệ vẫn canh gác nghiêm chỉnh mà bốn sứ chờ mãi chẳng thấy quan Đại thần bộ Lễ tới. Trạng nghi rằng họ lại định giở trò gì để thử thách mình đây.
Ngồi xếp bằng tròn ngay ngắn, mặt nhìn thẳng, dáng thực nghiêm chỉnh, Trạng cất giọng sang sảng ngâm thơ. Giọng Trạng lúc bổng vút như ngọn trúc đêm trăng, lúc trầm trầm mang mang buồn như suối vang lên từ đáy vực, nhiều lúc giọng ngân dài ngậm ngùi kiên nhẫn. Các sứ lắng nghe và nhìn Trạng chan chứa cảm tình. Sứ Miến Điện ngừng lần tràng hạt, bâng khuâng. Sứ Triều Tiên lắng nghe rồi cúi xuống suy nghĩ như muốn phân tích giọng ngâm để tìm hiểu ý nghĩa bài thơ và tâm trạng của Trạng. Sứ Mông Cổ sán lại gần gạn hỏi ý nghĩa bài thơ. Trạng chỉ cười.
Có gì đâu, tiếng là bề ngoài đọc thơ trang trọng, kỳ thực phần nội dung chỉ là bài thơ cũ của Trạng ỡm ờ đùa cô hàng bánh. Số là, hồi vừa thi rớt Trạng nguyên, Trạng có ghé vào nghỉ chân ở một quán bánh vùng kế cận kinh đô. Cô hàng đon đả mời chào. Trạng ngồi xuống ăn liền, vì đang khi đói bụng. Ăn xong đứng dậy cám ơn rồi đi thẳng. Bị cô hàng níu áo lại đòi tiền, Trạng làm bộ ngạc nhiên:
- Chết chưa, tôi cứ yên chí là cô có lòng tốt mời nên mới dám ăn. Trong túi tôi hiện nay không có một đồng nào thì lấy gì mà trả cô bây giờ? Thôi thì xin làm một bài thơ tạ ơn vậy.
Đoạn ứng khẩu đọc liền:
Đang khi nắng cực 4 đói lòng thay,
Thiết đãi ơn cô có bụng này.
Giờ biết lấy gì mà tạ lại,
Xin quỳ hai gối chống hai tay.
Chính là bài thơ mà vừa rồi Trạng ngồi rất nghiêm chỉnh cao giọng ngâm vang công quán. Bị xứ Mông Cổ gạn hỏi mãi Trạng nói thực:
- Bài này ông không thể thưởng thức nổi. Sứ Mông Cổ ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao vậy?
Trạng đáp:
- Vì ngôn ngữ nước tôi có điểm đặc biệt là cách nói lái. Ngôn ngữ nước nào không có cách nói đó thì không sao thông cảm nổi cái hay của loại thơ văn trên.
Thấy sứ Mông Cổ có vẻ tiếc hận, Trạng vỗ vai an ủi:
- Thôi để kiếp sau tiên sinh xin với Ngọc Hoàng cho đầu thai sang nước Nam chúng tôi, tự khắc được dịp thưởng thức lo gì.
Lúc đó vẻ mặt sứ Mông Cổ mới vui vui lên được một tí.
Mặt trời đã đứng bóng. Quan Đại thần bộ Lễ vẫn chưa thấy tới, mà cơm nước cũng chẳng thấy gì. Bốn sứ đói cồn ruột.
Lát sau viên hành tẩu bộ Lễ tới xin lỗi, nói có lẽ đến chiều quan Đại thần mới tới được.
Theo sau viên hành tẩu là ba tên thị vệ, một tên cầm cái trống khẩu, một tên cầm cuộn giấy – thứ giấy bồi dầy – và tên thứ ba bưng mâm cơm.
Khi mở lống bàn ra… Chà! Cơm muộn là phải, toàn những sơn hào hải vị xếp chật mâm. Tên thị vệ mở cuộn giấy ra trước bốn sứ để xin ý kiến. Trên tờ giấy trắng rộng đó có ghi bảy chữ nét mực rất đậm:
“Chỉ hắc, mặc bạch, hữu thị phù?” 5
Dùng giấy, trắng mực đen để hỏi điều ngược đời “giấy đen, mực trắng” thì ai mà chịu!
Cả bốn sứ đọc xong cùng lắc đầu. Viên hành tẩu lẳng lặng đi khỏi.
Lập tức tên thị vệ cuộn tờ giấy lại cùng tên cầm trống ra theo và tên thứ ba bưng mâm đi nốt.
Trạng gật gù biết ý vua Tàu định thử gì rồi.
Kể ra thì cả bốn sứ cùng đói meo, nhưng Trạng vốn ở đất nghèo nhịn đói quen nên nằm khoèo ngâm thơ trân, giọng vàng vẫn sang sảng. Toàn là những bài của Trạng làm, nào bài “Chơi phố Hiến”, nào bài “Đề tượng Bà Banh”, nào những bài “Lỡm cô hàng nước”, “Ghẹo cô hàng cau”, “Giễu quan thị” v.v… Trạng không quên ngâm cả bài sỏ thầy giáo thụ:
Này lời giáo thụ gửi về quê
Nhắn nhủ bà bay chớ ngứa nghề…
Được cái ở nơi đất nước non người này vì ngôn ngữ bất đồng nên kể cả những bài “nhảm” nhất, ở bên nước nhà chỉ dám đọc thầm, Trạng cũng lớn tiếng ngâm tràn cung mây. Cao hứng đến quên cả đói. Trạng tự nhận là ít khi ngâm thơ hay và được ngâm “hả” đến thế. Lũ lính canh, bỗng giạt sang hai bên – lúc đó trời đã về chiều – viên hành tẩu bộ Lễ tới xin lỗi rằng: Quan Đại thần còn bận việc triều chính nhưng thế nào ngày mai cũng sẽ tới, không biết lúc nào.
Theo sau viên hành tẩu vẫn ba tên thị vệ, vẫn mỗi tên phụ trách một thứ như ban trưa.
Khi tên thị vệ mở cuộn giấy hỏi ý kiến Trạng “chỉ hắc, mặc bạch, hữu thị phù?” Trạng gật đầu đồng ý.
Viên hành tẩu tỏ vẻ vui mừng mời Trạng ra ngồi bên mâm tiệc.
Sứ Mông Cổ gật đầu theo sứ nước Nam và cũng được mời ra ngồi bên mâm tiệc.
Sứ Miến Điện tự tại lắc đầu, còn sứ Triều Tiên lắc đầu một cách công phẫn hơn. Cả hai cùng quay lưng về bàn tiệc tỏ vẻ khinh bỉ.
Khi Trạng cùng sứ Mông Cổ bắt đầu cầm đũa thì tên thị vệ thứ hai đánh trống khẩu vừa nhảy cẫng quanh phòng như muốn “hổ huê” người ăn. Sứ Mông Cổ gắp đều, mặc kệ. Trạng thì vừa nhấm nháp vừa gật gù nghe trống có vẻ “thú” trò chơi đó lắm. Tên thị vệ vừa nhẩy vừa gõ trống được một lúc thì mệt, tự thấy chán nên thôi. Trạng cũng vừa ăn xong. Có mấy quả lê, quả đào dùng làm đồ nước, Trạng không ăn nhưng nhón cất vào túi.
Sứ Mông Cổ sau khi cơm no, tửu say lên giường ngủ liền. Trong khi sứ Miến Điện ngồi lần tràng hạt, sứ Triều Tiên tiến đến trách Trạng:
- Ông gật đầu nhận là “giấy đen mực trắng” rồi ra ngồi hưởng tiệc như vậy, có phải là thái độ của đại nhân quân tử chăng?
Trạng đáp:
- Nếu tiên sinh hiểu đạt nhân là người thấu suốt lý lẽ, quân tử là người lãnh nhiệm vụ dìu dắt, giáo huấn thế nhân thì tôi quả là đại nhân quân tử. Tôi sẽ dạy cho vua Tàu sáng lẽ “còn mất, được không”.
- Tiên sinh gật đầu nhận là giấy đen, mực trắng rồi ngồi dự tiệc mà là dạy vua Tàu sáng lẽ “còn mất, được không”?
- Chính thị!
- Xin tiên sinh chỉ giáo cho ngu này được rõ điều đó.
Trạng ân cần cầm tay sứ Triều Tiên mời ngồi xuống bên mình rồi hỏi:
- Tiên sinh hẳn biết truyện quân Nguyên trước đây ba lần bị thảm bại ở nước tôi?
- Điều đó tôi có biết.
- Như vậy có phải người nước tôi “uy vũ bất năng khuất”chăng?
- Đúng!
- Sau ba lần chiến công oanh liệt như vậy mà vua nước tôi, khi viết thơ cho Nguyên Thế Tổ, vẫn dùng lời lẽ cực kỳ nhũn nhặn.
Trạng rút ra một tờ hoa tiên, chấm bút vào nghiên, thảo vội mấy dòng, đưa cho sứ Triều Tiên rôi nói:
- Đây là mấy câu mở đầu tờ Quốc thư đó.
Sứ Triều Tiên cầm lấy, đưa mắt đọc và hơi nhíu lông mày. Nguyên mấy dòng đó Trạng nhớ được và ghi lại như sau:
“An Nam thế tử vi thần Trần Nhật Tuyên hoàng khủng bách bái, muội tử phục tội, thưởng ngôn vu thượng thiên quyến mệnh, Hoàng đế bệ hạ thánh chỉ…” 6
Giọng Trạng hơi đượm buồn – đó là lần đầu tiên sứ Triều Tiên nhận thấy thế – Trạng nói:
- Xin tiên sinh chú ý, Đức vua nước tôi không xưng là “tiểu thần” mà nhũn hơn xưng là “vi thần”.
Sứ Triều Tiên lắc đầu:
- Tôi thực không hiểu.
- Số là tiên sinh không rõ hết những cảnh tàn ác man rợ của quân Nguyên mỗi lần kéo sang trả thù. Có những làng chúng vây kín rồi giết hết đàn ông từ đứa trẻ sơ sinh đỏ hỏn đến cụ già tám, chín mươi gần kề miệng lỗ. Ở nước tôi, vua và trăm họ thương yêu nhau như cha con. Khi nguy biến, vua tôi và thần dân cùng nằm gai nếm mật chịu đổ máu mà giữ gìn xã tắc. Đến khi có thể hòa hoãn thì vua chịu nhẫn nhục để thần dân sớm được yên ổn làm ăn. Lẽ kinh quyền đó đã khiến một nước nhỏ như nước tôi đương đầu với một nước lớn gấp trăm lần là Trung Quốc mà vẫn không bị họa diệt vong. Lúc cần chết, chúng tôi sẵn sàng liều chết, nhưng không bao giờ chúng tôi chịu chết uổng.
Sứ Triều Tiên lộ vẻ bàng hoàng, nhưng vẫn chưa hiểu thái độ Trạng trong việc gật đầu nhận “giấy đen mực trắng”, bèn ướm hỏi:
- Vậy lẽ kinh quyền ấy tiên sinh dùng để dạy vua Tàu suốt lẽ “còn mất, được không” ra sao?
Trạng đáp:
- Hẳn tiên sinh thừa hiểu họ bày trò vừa rồi là muốn xem mình đối phó có ngang tàng không. Họ đâu có đợi ở mình thái độ “Bá Di, Thúc Tề bất thực Chu túc” 7 như vậy. Nước chúng tôi nghèo, thiên tai nhiều, hạn hán, lụt lội xảy ra luôn. Những năm mất mùa đói kém, có khi hàng tháng chúng tôi chỉ ăn cháo cầm hơi mà đạo lý vẫn nghiêm minh. Sở dĩ lúc nãy tôi ngồi vào ăn là đã có ý sẽ đối phó như thế này… (Trạng ghé bên tai sứ Triều Tiên nói thầm.)
Sứ Triều Tiên vùng đứng dậy chắp tay vái Trạng:
- Tôi đã quá thô thiển mà hiểu lầm tiên sinh, dám xin tiên sinh thứ lỗi cho.
Sứ Miến Điện ngừng lần tràng hạt. Trạng tiến tới dịu dàng nói:
- Bên nước chúng tôi cũng sùng đạo Phật như bên quý quốc. Hẳn tiên sinh nhớ truyện Thái tử Tất Đạt Đa sau ba lần hỏi đạo bèn bắt đầu tu khổ hạnh?
Sứ Miến Điện gật đầu. Trạng hỏi tiếp:
- Hẳn tiên sinh nhớ chuyện: vì Ngài hành xác thân quá đáng mà rồi chết ngất. Khi tỉnh dậy Ngài mới nhất định ăn uống như thường để giữ thân mà tìm đạo giải thoát?
Sứ Miến Điện gật đầu. Trạng hỏi tiếp:
- Hẳn tiên sinh nhớ chuyện: khi ấy có một thiếu nữ thấy Ngài nằm dưới gốc cây liền đem sữa đến dâng. Ngài dùng sữa xong, sức lực bình phục, rồi xuống sông tắm rửa sạch sẽ. Chính vì vậy Ngài giác ngộ thành đạo dưới gốc Bồ Đề?
Sứ Miến Điện gật đầu liền mấy cái. Trạng tiếp:
- Tiên sinh thử nghĩ xem, để thân chết đói thì đạo có còn không? Đức Phật có nói “Tàng thức của người ta ai câu thúc nổi.” Tiên sinh còn sống thì vua Tàu cấm sao được tiên sinh nghĩ trong tàng thức rằng: “Giấy vẫn trắng, mực vẫn đen?” Hãy nói tiên sinh quyết nhịn đến chết đi nữa, lão vua Tàu hắn cần gì? Sao tiên sinh không điềm nhiên gật đầu ngồi vào mâm ăn rồi chúng ta sẽ làm như thế này… (Trạng ghé vào tai sứ Miến Điện nói thầm.) Thế có phải vua Tàu phục chúng ta biết mấy!
Tới đây, sứ Miến Điện cũng vội vàng đứng dậy vái Trạng rồi nói:
- Chính tiên sinh đã soi sáng cho tiểu đệ. Dám mong tiên sinh xá cho tôi ngu muội ban chiều.
Trạng thò vào túi lấy ra hai quả lê, hai quả đào dùng làm đồ nước ban nãy đưa biếu hai người và nói:
- Xin hai tiên sinh dùng tạm mấy thứ này cho đỡ đói lòng rồi chúng ta bắt tay vào việc.
Khi hai sứ ăn xong, Trạng truyền thị vệ đi lấy cho Trạng một tấm nhiễu bạch lớn, một bút đại tự và mực tàu.
° ° °
Sáng hôm sau viên hành tẩu lại tới báo tin quan Đại thần bộ Lễ sẽ tới trong ngày. Vẫn ba tên thị vệ theo sau, mỗi tên phụ trách một thứ.
Khi tên thị vệ mở cuộn giấy với dòng chữ “Chỉ hắc, mặc bạch, hữu thị phù?” ra, tuần tự bốn sứ cùng gật đầu rồi cùng vui vẻ ra ngồi bàn tiệc.
Viên hành tẩu toan đưa mắt cho tên thị vệ đánh trống “hổ huê” bốn sứ thì cũng vừa nhận thấy có một bức trướng lớn bằng nhiễu trắng treo trong cùng. Ông ta tiến vào mấy bước đọc rõ hai dòng lớn nét chữ vừa gân guốc, vừa sắc góc, vừa bay bướm, chữ của Trạng:
Tàng thức mang mang, Thùy năng câu thúc. [8]
Viên hành tẩu vái dài bốn sứ rồi rút lui. Tên thị vệ không dám đánh trống nữa.
Viên hành tẩu đi thẳng về triều tâu rõ mọi việc. Vua Tàu đưa mắt nhìn quan Đại thần họ Lưu.
Vị này khẽ cúi đầu cung kính rồi lại nhìn Vua, ý nói:
- Thần đã đoán trước kết quả như vậy!
Nhà Vua suy nghĩ một chút rồi quay sang quan
Lễ bộ Đại thần phán:
- Khanh khá đến nhà công quán thăm bốn sứ thần, cùng họ định nghi thức giao hảo và báo rằng ngày mai Trẫm thết yến bốn sứ ở điện Thái Hòa trước khi để bốn sứ về nước.
Phán xong, nhà Vua đưa mắt nhìn quan Đại thần họ Lưu lần nữa.
Vị này lại cúi đầu cung kính rồi ngẩng nhìn
Vua, ý muốn tâu lại:
- Thần vẫn nghĩ như vậy là thượng sách!
Chú thích:
(1) Sứ Tầu mang theo sang một con trâu đực cực lớn, cực khỏe, cực dữ, thách ta tìm trâu chọi lại. Trạng cho vạch một vòng tròn giữa bãi, hẹn hễ trâu nào chạy khỏi vòng đó là thua. Rồi Trạng cho “xuất quân” một con nghé đói sữa mẹ. Chú nghé chạy ra cứ nhè háng con trâu đực húc mà tìm vú khiến con này phải cố chạy ra khỏi vòng để tránh. Trạng vỗ tay reo: “Trâu Tàu thua rồi!”
(2) Đây là truyện Trạng lẻn vào nằm trong mùng bà Thị Điểm. Vế trên của bà Điểm giiễu Trạng: “ Trong màn không gió sao cột buồm dựng?” Vế dưới của Trạng lỡm lại: “ Trong bụng không mưa sao nước chảy hoài?”
(3) Tên thị vệ đánh vào cái trống lớn ý nói đầu đề là: Tràng An đại cổ (cái trống của Tràng An), chỉ dùi lên trời ý nói: thơ vịnh lấy vần Thiên.
(4) Nắng cực: tiếng nói lái.
(5) Nghĩa là: “Giấy đen mực trắng, có thế chăng?”
(6) Dịch nghĩa: Thế tử nước An Nam, vi thần là Trần Nhật Tuyên sợ hãi, trăm lạy xin cam tội chết, dâng thơ tâu Hoàng đế bệ hạ chịu mệnh trời xét cho…
(7) Bá Di, Thúc Tề phản đối nhà Chu dùng bạo lực diệt Trụ, không thèm dùng thóc nhà Chu, trèo lên núi Thủ Dương hái rau vi ăn, rồi cũng chết đói ở đó.
(8) Nghĩa là: Tàng thức người ta mênh mang, Kẻ nào mà câu thúc nổi.