- 6 -
Bác sĩ Bái thổi vào ống tiêu lấy giọng, để cho bà chỉnh lại giàn nhạc của đờn tranh. Hai vợ chồng rao nam mấy câu ai oán, trong lúc Ulrich thử xem máy thâu thanh đã chuẩn bị xong chưa. Cầu-Lệ nói:
- Thầy tôi đã khai mào thiên phóng sự bằng lời. Lời ấy đã đủ để giới thiệu buổi phóng sự có ghi âm về nhạc Việt. Nhạc là tiếng nói của tâm hồn của mỗi dân tộc, bằng ngôn ngữ chung của loài người, ngôn ngữ của tiếng đờn, giọng ca. Phát tích ở miền Bắc, nhạc Việt có một điệu Bắc, nhanh nhẹn, lẹ làng, tuy không hùng vĩ và vui tươi, song không đến đỗi buồn thảm. Dân Việt tràn vào Nam, làm cho dân Chàm, rồi dân Miên mất nước, rồi đồng hóa hai sắc dân nầy vào đại gia đình Việt. Sự buồn thảm, vì mất nước của hai sắc dân nầy không khỏi ảnh hưởng đến tâm hồn chung của dân tộc. Tâm hồn buồn thảm, nói lên bằng điệu nhạc Nam. Đến khi bị thực dân Pháp đô hộ, tâm hồn buồn thảm của dân càng thêm déo dắt. Tánh cách chung của âm nhạc là như vậy, song mỗi tác phẩm là một huyền ngưng của một trạng thái tâm hồn. Nó nói hết về đại cương trạng thái ấy. Tuy vậy mà có được một bài, xuất hiện vào lối năm mươi năm nay, mỗi năm mỗi biến. Mà sự biến của nó tả được đường lối chung của nhạc Việt. Là càng ngày càng đớn đau, buồn thảm. Bài ấy xuất hiện, với cái tên nguyên thủy là "dạ cổ hoài lang", nghĩa là tiếng trống ban đêm làm cho một chinh phụ nhớ chồng. Cô dọng trong hai mươi câu, mỗi câu chỉ có hai nhịp, bản nhạc ấy là tất cả dòng thơ Chinh phụ ngâm tóm tắt...
Sau một tiếng nhịp, tranh, tiêu hòa với tiếng của Huệ Minh. Nàng ca rằng:
Từ đưa phu tướng,
Bảo kiếm, sắc phong, lên đàng,
Vào ra luống trông tin chàng,
Năm canh mơ màng!
Luống trông tin bạn,
Tỉnh giấc hèo, thở than!
Chàng dầu xa ong bướm,
Xin cũng đừng phụ nghĩa tào khang!
Đêm luống trông tin bạn,
Ngày mỏi mòn như đá vọng phu.
Vọng phu vọng, luống trông tin chàng...
Năm canh mơ màng,
Chàng hỡi chàng có hay?
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây,
Biết bao thuở đó đây sum vầy?
Duyên sắt cầm, tình thương?
Nguyện cho chàng,
Đặng chữ bình an,
Trở lại gia đàng,
Cho én nhàn hiệp đôi!
Huệ Minh tuy đã già, song giọng hãy còn thanh tao, lãnh lót, cảm động và não nề. Ngọ Thu quen nghe hò hát ở sông Hương, cũng phải nhận rằng giọng "dạ cổ hoài lang" cũ xưa có phần ai oán hơn nhiều. Cầu-Lệ trình bày tiếp:
- Huyền thoại truyền rằng bài nầy xuất hiện ở Bạc Liêu vào năm 1919. Lúc ấy, có nhiều nhà ái quốc bị giam ở thành nầy, và vợ con lao nhao đến tìm thăm. Song không được nhà cầm quyền thực dân cho phép. Các bà chỉ đứng xa xa khám đường mà nhìn, rồi rơi lụy. Một ngục quan, người Việt, thấy việc thương tâm, nên thuật lại cho một thi sĩ kiêm nhạc sĩ ở Vĩnh Trạch. Thi sĩ lấy cái cảnh vợ một nhà cách mạng, ngồi xa xa khám, mong tin chồng, đêm đến mà không hay, nghe tiếng "trống ban đêm" của khám khắc hồi canh, mà "nhớ chồng", để làm tứ, hầu đặt lời thơ và phổ nhạc. Tuy nhiên không thể nói lộ liễu rằng người chồng đây là một nhà cách mạng sa cơ, nên dùng từ ngữ "sắc phong" mơ mơ màng màng. Sắc ở đây không phải là sắc của vua. Sắc ở đây là sắc của đảng cách mạng, là lịnh của đảng ái quốc. Tinh thần ái quốc của lời thơ, phả bằng một điệu nhạc ai oán não nề, là hai yếu tố cho bài "dạ cổ hoài lang" từ miệng nầy sang tai kia, trong vài năm đã lan truyền khắp miền Nam. Vì nó nói đúng được hồn của dân tộc, một dân tộc khổ vì nhục mất nước và luôn luôn nghĩ việc phục thù, não nề vì thất bại nhiều, mà bi đát tiến theo con đường của định phận... Từ năm 1924, phong trào quần chúng, do Nguyễn An Ninh đốt ngòi, càng to lên, càng rộng ra. Hồn dân tộc mạnh lên, lớn ra mà thực chất vẫn giữ. Đứa bé lớn lên, cần may áo mới cho rộng hơn cho nó mặc mới vừa. Bài "dạ cổ hoài lang" mỗi câu hai nhịp, không biết nhạc sĩ nào canh cải, mỗi câu gấp đôi nhịp lên. Và tên là bài "vọng cổ", cô động bốn chữ "vọng phu văn cổ", nghĩa là "nàng trông chồng nghe tiếng trống" của ban đêm mà nhớ nhung. Từ đây, tên nầy được giữ luôn, để miêu tả tâm hồn của người Việt, chớ chẳng phải riêng của vợ một nhà cách mạng sa cơ.
Tranh, tiêu và ca lại khởi lên để trình bày một bản "vọng cổ" tả sự chia ly của đôi "nhạn đành kêu sương nơi biển bắc, én cam khóc hạn ở trời nam". Đờn ca vừa dứt, thì Cầu-Lệ nói vài lời, trình bày phong trào cách mạng năm thất bại và chìm trong bùn lầy của một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Sự buồn thảm gia tăng. Sau tám nhịp, lên mười sáu. Từ đó bài nhạc trở nên trường thiên. Nên người ta chọn sáu câu tiêu biểu nhất, mà làm khổ cho nhạc, cho lời ca. Mười sáu nhịp, gấp đôi lên thành sáu mươi bốn nhịp. Và hiện nay, đang vươn lên một trăm hai mươi tám nhịp. Mỗi khi trình bày một giai đoạn, thì Cầu-Lệ dừng lại, nhường lời cho nhạc, cho ca, trình bày một bài vọng cổ tiêu biểu nhất của giai đoạn.
Chỉ có một bài vọng cổ, từ hai nhịp, đến một trăm hai mươi tám nhịp, buổi phóng sự thâu thanh choán nhiều thời giờ.
7
Bác sĩ Trần Nghĩa Trọng được điện văn, mở ra đọc, mới hay rằng chính là đứa con trai mình là Hayashi từ Tokyo mới vừa đến. Một cuốn phim được rọi lên trong ký ức của chàng. Chàng vốn là đảng viên của đảng Hắc Long, ở vào cánh tả, chia xẻ cái chủ trương rằng muốn cho dân tộc Nhựt được một địa vị rực rỡ trên bàn cờ thế giới, thì không nên mang hia của các đế quốc xâm lăng và bóc lột, mà dẫm theo vết của các cường quốc thực dân. Trái lại, dân tộc Nhựt phải cầm đầu cho các dân tộc Á Châu đương thức tỉnh bằng phương tiện của xã hội chủ nghĩa, của cách mạng văn hóa. Ở Tokyo, chàng học y khoa, dan díu cùng một nữ sanh viên mà có một đứa con trai. Chàng vừa tốt nghiệp, thì vợ chàng qua đời, bỏ đứa con trai lại cho bà nội nó nuôi. Và chàng bị nhập ngũ. Bởi chàng là đảng viên của đảng Hắc Long, nên chàng được bổ sung vào ngành do thám. Đổi họ, đổi tên làm một người Cao Ly, tên Chungil, sang miền nam nước Việt mà đi khắp đó đây, để bề ngoài bán cao ly sâm và mua thuốc sống do nông dân hái ở các rừng, bề trong là lặn lội để vẽ bản đồ các miền rừng núi và giao thiệp với các nhà cách mạng Việt.
Nhờ đó mà chàng giao thiệp được gia đình của ông thầy thuốc Bắc, không có con trai nên nuôi chàng làm con nuôi, và đổi tên họ chàng lại lần thứ hai là Trần Nghĩa Trọng. Chàng cưới đứa cháu vợ của cha nuôi và sanh được một đứa con gái, đặt tên là Trần Nghĩa Phương Nữ vào năm 1940. Thừa việc chàng có quốc tịch Việt, bộ tham mưu Nhựt hạ lịnh cho chàng đi học lại và đi thi vào đại học, để len lỏi trong giới sanh viên để sách động, tổ chức, điều khiển họ. Chàng đã có học thuốc ở Nhựt rồi, nên bây giờ học lại, không tốn thì giờ. Chàng nhờ có nhiều thì giờ, sẵn có kinh nghiệm tổ chức, và có nhiều phương tiện tài chánh do bộ tham mưu Nhựt bí mật cung cấp, cho nên đảng Hưng Việt do chàng thành lập phát triển rất mau lẹ.
Năm 1945, sau khi Ý đã hàng đầu Đồng Minh, Đức sắp bại trận, và Nhựt đang kiệt quệ về đủ mọi mặt, Nghĩa Trọng gởi về cho đảng Hắc Long một số kế hoạch vĩ đại, để nhờ đảng chuyển đạt lên Nhựt hoàng. Kế hoạch nầy là kế hoạch Hayashi, mượn tên Nhựt của chàng mà đặt, và đại ý là "dân tộc Nhựt thua chiến tranh, âu là phải thắng hòa bình". Chính là kế hoạch nầy ảnh hưởng rất mạnh đối với đường lối của nước Nhựt và đã khiến Nhựt hoàng hạ lịnh cho quân đội Phù Tang thi hành cuộc đảo chánh ngày 9 tháng III năm 1945, để gài cho dân tộc Việt Nam vào cái thế đương đầu với quân đội Pháp trong cuộc chiến tranh kéo dài hàng chục năm, mở màn cho một cuộc tranh hùng giữa khối cộng và Hoa Kỳ, với dụng ý là khi hai khối mâu thuẫn nhau đến triệt để, mà đánh nhau thì e đổ vỡ tất cả, thì nước Nhựt đứng ra giải hòa, trước mua chuộc tình cảm của tất cả loài người, ấy gọi là chính thuật "chinh tâm". Kế là giữ cái thế trọng tài giữa đôi bên tranh hùng, mà vươn lên ấy gọi là chiến thuật "chinh giao"; sau là dựa vào hai thành tích trước mà mở các thị trường Á Phi cho kỹ nghệ và thương mãi Nhựt, làm cho dân Nhựt phú cường lên, ấy là chính thuật "chinh lương". Không cần lục quân hùng hậu, hải quân đông đảo, không quân ào ạt, mà chỉ nhờ thông minh, khôn khéo, mưu kế và nhẫn nại, mà dân tộc Nhựt thắng hòa bình. Kế hoạch nầy, Hayashi đặt tên là kế hoạch "tam phân thế, lưỡng tranh hùng", mượn nơi thủ đoạn của Khổng Minh gài cho Châu Du và Tào Tháo đánh nhau ở Xích Bích mà đoạt lấy Kinh châu.
Sau khi quân đội Nhựt bị áp lực của bom nguyên tử mà hàng đầu Đồng Minh không điều kiện, binh lính Nhựt thảy bị đưa về đất Phù-Tang, thì Trần Nghĩa Trọng vì có giấy tờ là người có quốc tịch Việt Nam, ở lại xứ nầy, hoàn tất sự học của mình ở trường thuốc mà ra mở phòng mạch ở Tây Ninh, sống giản dị, bình dân, dân chúng ai cũng mến yêu. Và bởi chàng mất hẳn giọng nói của Nhựt, nên không một ai nghi ngờ gì gốc tích của chàng cả. Trừ có vợ chàng, trừ có con gái chàng là Phương Nữ mà chàng dạy dỗ kỹ lưỡng, nên nói tiếng Nhựt rất rành. Nàng cũng bắt chước cha mà học thuốc, và năm nay học năm thứ năm ở trường thuốc Sài Gòn...
Nghĩa Trọng lái chiếc xe ô tô của mình mà xuống Sài Gòn, đến khách sạn mà tìm Hayashi rồi dắt chàng đi tìm em gái là Phương Nữ. Vừa gặp em, chàng nói:
- Lịch sử đặt cho hai dân tộc Nhựt và Việt cái thiên chức mà bảy thế kỷ trước, hai dân tộc đã cùng chung giải quyết. Hồi thế kỷ thứ XIII, quân Mông Nguyên ồ ạt, chinh phục Âu Châu và Á Châu. Chiến thuyền của chúng bị trận bão nhận chìm, chúng đổ bộ qua Nhựt không được. Bộ binh của chúng ba lượt bị quân nhà Trần đánh bại. Nhuệ khí của chúng bị mòn mà nhà Nguyên sau đó bị lật đổ. Nay vào thế kỷ XX, chủ nghĩa độc tài cộng sản lại đe dọa hoàn cầu. Hai dân tộc Nhật Việt lại phải chận làn sóng chinh phục đỏ. Số phận đã tượng trưng cho sự đồng thiên chức ấy bằng cách là cho chúng ta khác mẹ mà cùng một cha. Anh có mẹ Nhựt, em có mẹ Việt. Nước Nhựt và nước Việt là nước mẹ của riêng mỗi chúng ta. Mà chúng ta thờ chung một cha là nhân loại.
Phương Nữ đáp:
- Cá nhân anh, đối với em, có tình máu huyết, nên anh thấy vấn đề như vậy. Liệu cả dân tộc Nhựt đối với dân tộc Việt, nhìn lịch sử, có cặp mặt của anh chăng? Thế kỷ XIII, ở xứ nầy có Trần Quốc Toản, có quân nhà Trần có toàn dân Việt, cùng một dạ chống xâm lăng của quân Mông Nguyên. Còn vào thế kỷ XX nầy, đứng trước sự xâm lăng ý thức hệ, thì trong hình ảnh tượng trưng mà anh vừa nêu ra, đại diện cho dân tộc Việt là em Phương Nữ, một đứa gái yếu mềm. Làm sao đứng đầu cho nổi cái phong trào quật khởi được?
Nghĩa Trọng gật đầu nhè nhẹ, tỏ ý tán thành lời của con gái, mà mắt nghiêng nhìn Hayashi, chờ chàng đáp thế nào. Hayashi trầm ngâm rất lâu, chậm chậm nói:
- Hai năm trước đây, cả dân tộc Nhựt rung động vì cái tin Phật Giáo Việt Nam tranh đấu chống bạo quyền và cảm xúc mãnh liệt khi được nghe các vị tăng tự thiêu để động viên tinh thần phản kháng của thế giới. Làn sóng chinh phục đỏ thuộc về một ý thức hệ. Phải dùng một lực lượng tinh thần mới chận đứng nó được, mới đánh bại ý thức hệ ấy nổi. Lực lượng tinh thần vị tất phải nằm trong thân mình của một lực sĩ. Sáng tạo ra ý thức hệ có khả năng đánh lui được thuyết độc tài đó, vị tất phải là một dân tộc hùng cường. La-Mã chinh phục cả thế giới quanh Địa Trung hải mà bị chinh phục lại bởi cái đạo thương người của một dân nhỏ bé là dân Do Thái... Xưa vào thời đại mà người ta đánh nhau bằng mộc, bằng giáo, thì người Việt ba lần đánh lui quân của Mông Nguyên. Nay, thế kỷ XX, mà sự thành bại định phân trên trận tuyến của tinh năng trí thức, anh không tin rằng sự thắng trận của người Việt sẽ do một Trần Quốc Toản mới lãnh đạo. Anh lại tin rằng kẻ phất cờ thắng trận là một vị thủ lãnh tinh thần, một giáo chủ...
Phương Nữ mắt mơ màng nhìn trong xa xăm, chậm chậm nối lời anh:
- Làm người phàm, khó thế làm vị giáo chủ ấy. Họa may là có Maitreya tái lâm, như Phật Thích Ca đã báo hai ngàn năm trăm năm trước.
8
Trời oi bức. Quạt máy treo nơi trần quay hết tốc độ mà không đem mát mẻ lại. Basu uống ly sô đa thứ ba để nghe nốt câu chuyện mà hai người Việt đương cãi nhau. Basu là người Ấn lai Anh. Cha chàng rời nước Anh năm 1939, lúc chàng mới năm tuổi. Ông về Ấn Độ, theo Chandra Bose, kêu gọi thành lập đạo quân giải phóng nước Ấn, rồi đến năm 1945, sang qua Việt Nam. Gặp lúc quân đội Nhựt đầu hàng, ông cùng Chandra Bose cỡi một phi cơ sang Nhựt, rủi bị tai nạn giữa Thái Bình Dương mà cả thảy mất tích... Basu lớn lên, được mẹ, là một nhà văn xã hội, dạy tôn kính cha, dạy tôn kính những cao vọng nhân đạo, và tập tành cho chàng viết văn, làm báo. Từ khi bước chơn vào đại học, chàng đã nuôi chí viết một thiên khảo cứu về những ngày cuối cùng của nhà đại ái quốc Ấn Độ là Chandra Bose, mà nếu còn sống, ắt được dân chúng phụng thờ chẳng thua Gandhi. Vì lẽ ấy mà chàng học thêm tiếng Việt tại trường đại học Luân Đôn, và trong mấy năm, ngày nào chàng cũng nghe đài BBC về phần Việt ngữ. Nên chàng nói tiếng Việt rành lắm.
Càng moi sâu những tài liệu nói về Chandra Bose, Basu càng thấy hiện một vấn đề. Vào những năm cuối cùng của thế chiến thứ hai, mấy trăm triệu người Ấn đã quyên rất nhiều tiền, vơ vét vàng bạc, châu báu, đem ra xứ ngoài giao cho Chandra Bose để mua khí giới mà tuyển mộ binh lính cho đạo quân giải phóng nước Ấn. Số tiền kếch sù nầy chưa dùng, là Nhựt đã bại trận. Bây giờ nó ở đâu?
Theo hai người Việt đương cãi nhau, mà Basu nghe lóm được, bởi họ tưởng chàng là Ấn Độ, không nghe được tiếng Việt, nên không dè dặt, thì người ta tìm được gần Krongpha một cái hầm vàng. Và những biến cố chánh trị và quân sự trong thời gian gần đây là do sự các lực lượng đang tranh nhau để làm chủ cái hầm vàng ấy. Một nghi vấn nảy ra trong đầu óc của Basu. Biết đâu hầm vàng nầy không phải là của quân đội Nhựt dấu, như hai người Việt lập luận như vậy, mà lại là của Chandra Bose và bè đảng đã chôn? Nếu quân đội Nhựt đã dấu, thì trong hai mươi năm nay, các tổ chức của họ đã lập thế mà moi lấy rồi. Đâu có bỏ quên như vậy được? Chỉ có cái giả thiết là hầm vàng nầy do Chandra Bose dấu, rồi cả bọn bị tai nạn máy bay mà chết hết, thì hầm vàng trở nên vô chủ và bỏ lại đó đến nay. Basu đang miên man trong những tư tưởng nầy, thì một nhà báo Việt đến nói chuyện với chàng bằng tiếng Việt, làm cho hai người kia ngơ ngác, kêu bồi trả tiền rồi đi.
Nhà báo Việt, tên Thượng sĩ, cho Basu hay:
- Đánh lớn ở Krongpha. Bên nầy mở cuộc hành quân lớn. Bên kia đem hai trung đoàn bao vây lại. Kịch chiến suốt 24 giờ rồi. Đoàn pháo đài bay, từ Guam bay sang dội bom mãnh liệt, cứ cách mười thước là có một quả bom rơi xuống...
Basu nghĩ. Tại sao Krongpha? Phải chăng rằng cuộc hành quân lớn đã mở ra để yểm hộ cho một số người đến tìm tông tích của kho vàng của Chandro Bose?
Phải chăng rằng cộng sản cũng hay được tin ấy, đến tìm cách giành làm chủ kho vàng? Mà kho vàng có thật cùng chăng? Hay là nó chỉ là do óc tưởng tượng xây dựng? Rồi người ta giành nhau, chết hàng ngàn để tranh làm chủ một cái ảo vọng?
Thượng Sĩ nhâm nhi ly quít ki sô đa, do bồi bưng tới, nghe rượu mạnh chạy trong máu, nói hăng lên:
- Năm 1945, tôi đã là cán bộ bí mật chống Nhựt và chuẩn bị cướp chánh quyền của Việt Minh. Ngày cướp chánh quyền, tôi vác cờ đi đầu. Mấy tháng sau, tôi lại đi đầu trong cuộc biểu tình, tổ chức tại bờ hồ Hoàn Kiếm, để chống với việc Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ. Năm 1954, tôi di cư vào Nam, biết trước rằng tôi không thế nào sống dưới ách thực dân mới là ách của Trung Cộng. Tận trong xương tôi, tôi ghét Tàu. Không biết cái đó có phải ông cha từ ngàn đời truyền lại không. Nhưng từ khi quân đội Lư Hán kéo qua, mà Việt Minh dạy dân cắn răng mà chịu những tai họa của lính Tàu, tôi đâm ghét lây Việt Minh, tôi bỏ hàng ngũ của họ, tôi chống lại họ. Vì tôi thấy trước rằng họ sẽ hàng đầu Tàu, họ sẽ làm nô lệ cho Tàu. Cộng sản Tàu lên nắm chính quyền, bọn nô lệ mới nầy lấy áo ý thức hệ mà khoác lên, để che cái xác của chúng. Tôi biết rõ cái ấy, từ ngày mà họ lấy vàng gom góp của dân trong "tuần lễ vàng" để đánh khối lại mà lo cho thằng Tiêu Vân. Anh Basu, anh có biết Tiêu Vân chăng?
Basu lắc đầu. Thượng Sĩ hớp thêm một ngụm nói tiếp:
- Tiêu Vân là một cộng sản, trá hình Cu mìn tảng, làm ủy viên chánh trị trong đạo quân của Lư Hán. Cộng sản và cộng sản với nhau, đồng chí và đồng chí với nhau, mà đồng chí cộng sản Tiêu Vân đã nuốt của đồng chí cộng sản Hồ Chí Minh mấy tấn vàng mới chịu che chở cho khỏi bị Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam đảo chánh. Ý thức hệ là tấm tã lót đít cho trẻ con ỉa vào đó. Chỉ có quyền lợi là thiết thực, chỉ có tính dân tộc là thiêng liêng. Anh Basu, tôi dám cá với anh điều nầy. Nếu mấy trăm tấn vàng ở Krongpha mà lọt vào tay cộng sản, thì tất cả sẽ chở tận Bắc Kinh. Không có một gờ ram nào dính tay Hà Nội.
Thượng Sĩ nốc hết hai phần ba ly rượu đặt mạnh ly xuống bàn, nói tiếp:
- Mấy tháng nhập đoàn vào Việt Minh, tôi rành cái biện chứng pháp của họ. Cán bộ của họ sẽ giải thích. Chia chi cho Hà Nội, để rồi xây cất ra cái gì, thì bị oanh tạc mất đi cái nấy? Nhiệm vụ của Cộng sản Việt Nam là trường kỳ cầm chơn cho quân đội Mỹ lún sình ở đây, mười năm, hai chục năm... Mấy trăm tấn vàng à? Thì chở hết về Tàu, để cho các nhà bác học của Trung Hoa vĩ đại sử dụng mà chế ra những khí giới bí mật, hầu khi hồng quân Tàu xuất trận là nắm ngay thắng trận. Biện chứng pháp giải thích nghe có xuôi rót lỗ tai không?
Basu cười tủm tỉm đáp:
- Kế hoạch, họ tính rất là chặt chẽ, rất là khoa học. Họ có đầu óc tranh đấu, thì họ phải có kế hoạch tranh đấu.
- Nhưng tôi không thể chấp nhận sự thành công của kế hoạch ấy. Năm nay tôi năm mươi tuổi. Ngày mà Trung cộng tung khí giới bí mật để chinh phục thế giới, có lẽ tôi sẽ đếm được bảy mươi. Tôi phiêu lưu từ nhỏ, đến 1954 vào Nam mới lập gia đình. Tôi nay góa vợ, song có được một trai tám tuổi. Chừng ấy, chắc tôi sẽ có ít đứa cháu nội, tuổi dưới mười tuổi. Tôi liệu tôi còn đủ sức mà ẵm từ đứa lại lu nước mà dộng đầu nó vào nước. Tôi giết chúng nó hết, rồi tôi tự cắt cổ tôi. Tôi không muốn dòng họ tôi bị Tàu đô hộ lần thứ hai. Lần trước, chúng tôi mang ách một ngàn năm. Lần nầy, thì diệt chủng luôn.
Basu cười, khuyên ngăn:
- Anh say rồi! Bỏ ly rượu đi, đừng uống nữa! Chuyện anh nói làm tôi nhớ sực lại một công chức Việt Nam, ôm mấy đứa con đi trấn nước, rồi tới phiên mình tự cắt cổ lại không dám, để bị bắt, bị lôi ra tòa và bị kết án tử hình. Bị kết án tử hình, nhưng không bị hành quyết. Người ta cố ý nhắc là chớ nên nghĩ dại. Anh lúc ấy già đã bảy mươi, mà còn nghĩ dại. Anh giết bầy cháu nội của anh. Nhưng thằng con trai anh còn sống. Nó sẽ có vợ khác. Nó sẽ sanh con khác. Dòng họ anh sẽ sống dưới ách của công sản. Vấn đề không phải là đến lúc ấy rồi chọn một biện pháp bi đát. Vấn đề là làm sao tránh cho không thể xảy ra cái lúc mà anh có thể nghĩ đến sự bi đát.
Basu vừa dứt lời, vừa bưng ly rượu của Thượng Sĩ mà đổ xuống sau ghế. Chàng trả tiền cho bồi, nắm tay đồng nghiệp mà dắt ra ngoài. Một tắc xi trống vừa trờ tới, chàng ngoắt lại, mở cửa xô Thượng Sĩ vào, leo lên sau và nói một địa chỉ cho tài xế.
9
Sau mấy tiếng gõ cửa, một câu trai ló đầu ra nói:
- Bố tôi ốm. Không tiếp khách được...
Thượng Sĩ chận ngang nói:
- Biết rồi! Từ mấy năm nay, ai cũng biết bố cháu chán đời, chưỡi đổng cả. Ai cũng biết bố cháu vào đại học văn khoa, xách chai bia theo uống cho đầy bong bóng, rồi đáy giữa lớp, để cho đám sinh viên thấy rằng thầy mình điên về thời cuộc. Rồi ai cũng biết bố cháu lộng giả thành chơn, giả điên hàng chục năm, rồi hóa ra điên thiệt. Nhưng cháu vào nói với bố rằng có chú Thượng Sĩ dắt một người khách ngoại quốc đến hỏi thăm về cha, là một người bạn thân của bố cháu.
Thiệu Đà nằm ở trong, nghe giọng quen, nói vọng ra:
- Vào đây! Vào đây! Ai đâu hỏi thăm về cha?
Basu bước theo Thượng Sĩ, tiến vào căn phố hẹp, ngổn ngang những kiện hàng, chất đầy phòng trước. Vào phòng sau, chàng thấy một ông già sồn sồn, mình ở trần và vấn xà rông, vừa đưa tay bắt chào, vừa nói:
- Thằng Ngô Đình Diệm đưa nước nhà đến cảnh thế nầy. Nó đã chết gần hai năm nay, mà nguy cơ chưa gỡ nổi. Tôi tập làm Cao miên, để khỏi tủi hổ làm thằng Việt Nam trí thức mà cứu nước khỏi quốc nhục không được...
Thiệu Đài nói tới đây, nức tiếng khóc, lệ tuông ra, lăn tròn trên hai má, chậm chậm ngâm bài thơ chữ:
Thế sự du du nại lão hà?
Tá cuồng tùng thử vịnh bi ca.
Đắc thời mãi quốc vi anh tuấn,
Vận khứ anh hùng tắc quỉ ma!...
Thượng Sĩ chận ngang hỏi:
- Anh nói ai là kẻ mãi quốc mà làm anh tuấn?
Thiệu Đài thôi ngâm thơ đáp:
- Tao nói thằng nào bán nước cho Bidault, lãnh trách nhiệm thi hành cái chánh sách thả sâu vào quả, để cho miền Nam Việt Nam nầy như trái bị đục khoét ở trong, mà rụng vào tay của Trung Cộng. Mầy biết thằng bán nước đó chớ!
- Còn anh nói ai là kẻ anh hùng mà phải làm quỉ làm ma?
- Tao đây chớ còn ai nữa! Bị vần nó buộc, tao phải dùng chữ quỉ ma. Chớ tao còn tệ hơn bọn quỉ ma nữa! Quỉ ma còn có kẻ sợ mà cúng cho con gà luộc, cho cái nọng heo. Còn tao điên cuồng như thế nầy, có ai xem bao bằng cái chi chi đâu? Con vợ tao dung tao sống, vì nó sợ ở tù nếu nó giết tao cho chết phứt rồi. Chớ nó chán có thằng chồng điên cuồng, từ sáng đến chiều chưỡi không ngớt. Chưỡi ai? Chưỡi tất cả thiên hạ. Rồi tự chưỡi lấy mình.
Basu nãy giờ đứng chờ, xen vô nói:
- Bác nói bác điên cuồng, vậy cháu xin bác cho cháu thử có phải vậy chăng? Bác có nhớ có một người bạn Ấn Độ, tên là Tarapada Basu, một sử gia như bác chăng?
Thiệu Đài nheo mắt, cố tìm trong tiềm thức, giây lâu đáp:
- Basu à? Sao lại không nhớ? Cánh tay mặt của Chandra Bose mà! Năm 1945, vào tháng bảy, anh có đến Hà Nội mà diễn thuyết cho Ấn kiều. Rồi nghe nói anh ấy bị tai nạn phi cơ, cùng với Chandra Bose rơi xuống biển. Ấy! Anh là người biết chết. Chết mà để lại sự yêu thương trong lòng của mấy trăm triệu đồng bào. Chết mà để lại sự kính phục của ngay bọn thù của mình. Chớ nào có ngu dại mà chọn cái chết trong phỉ nhổ và nguyền rủa tất cả?
- Như vậy thì bác còn sáng suốt lắm. Còn nhớ kỹ lắm! Bác nào có điên? Cháu đây là con trai của Basu, bạn của bác. Cháu quả quyết là bác không điên. Bác cố gắng lên, bỏ cái điên giả tạo để trở lại đời sống, nếp sống bình thường đi!
Đứa con trai đun nước xong, pha trà bưng lại, rót ra mời. Thiệu Đài mời Basu và đáp:
- Cái điên của bác không phải là cái điên giả tạo. Cái điên giả tạo là cái điên của họ Mao ở bên kia kìa!
Basu cười dài hỏi:
- Bác chưa từng gặp Mao Trạch Đông, sao bác biết là Mao Trạch Đông mắc chứng điên giả tạo?
Thiệu Đài hớp một ngụm trà nóng, có vẻ khoái trá, cười hì hì, đáp:
- Bọn triết nhân Tây phương, bọn Heidegger, Sartre đề cho thuyết tồn sinh, không cắt nghĩa được chi ráo. Mao Trạch Đông nào có lo việc tồn sinh cho tám trăm triệu người Tàu? Năm 1954, tại một hội nghị Genève, Mao Trạch Đông bằng lòng theo thuyết cộng tồn do Nga chủ trương. Bây giờ Mao Trạch Đông lại chống với thuyết cộng tồn do Nga chủ trương, và một mực chống lại thuyết đó, dầu phải nhận mấy ngàn quả bom nguyên tử rơi bên đất Tàu. Mảnh giẻ rách họ Mao còn lượm lại để làm giấy.
Thuyết tồn sinh, họ Mao coi có ra gì? Tự do chọn lựa? Họ Mao đâu có tự do lựa? Họ Mạo bị bắt buộc phải làm cái gì ngược với Nga. Nga làm trắng thì Mao làm đen, để chữơi Nga. Nga chủ trương cộng tồn, thì Mao chủ chiến. Mao là một thằng điên. Điên cái điên giả tạo. Hi, hi, hi...
Thiệu Đại vỗ vế cười to. Thằng con trai thưa:
- Bịnh của bố tôi như thế đấy! Luận bàn thế sự để rồi chữơi tất cả. Ai, bố tôi cũng đem ra mà mổ xẻ...
Thiệu Đài chận ngang, quát thằng nhỏ:
- Thằng ranh con! Không đúng! Bố mày chưa đem thằng cha Sartre ra mà mổ xẻ. Thằng cha lãnh tụ của thuyết tồn sinh nầy cũng mắc cái chứng điên giả tạo của Mao Trạch Đông. Nó đâu có được tự do lựa chọn? Nó bị bắt buộc chọn lựa cái thái độ nào mà thiên hạ thảy không chọn. Thiên hạ ai cũng cho là vinh điệu nếu trúng giải thưởng Nobel. Nó được trúng thưởng nó từ chối cái chơi! Tồn sinh mà! Thiên hạ ùn ùn ký tên phản đối bản án bỏ tù nhà văn vì cái gọi là tội dám tố cáo độc tài ở Nga. Nó không chìa tay ký tên vào. Tồn sinh mà! Thằng ranh con! Tao biểu mầy chịu khó chép tất cả lời của bố mầy thốt ra từ sáng đến chiều. Rồi mầy đăng lên mầy sẽ xem. Văn của bố mầy sẽ được hậu thế sùng bái như hiện nay người ta đang sùng bái văn của Kafka. Mầy nghĩ kỹ xem. Cái thế giới nầy càng ngày càng điên, thì chỉ có thứ văn chương điên của bố mầy, điên mà biết mình điên, điên có hệ thống, có lập thuyết, mới nói được tiếng nói trung thực của thế giới. Mầy xem! Thuyết tồn sinh của Sartre chỉ là một thuyết điên, điên mà giấu rằng mình điên, mà bọc cái điên của mình bằng một thứ bản thể luận rối tợ bòng bong mà thiên còn ca tụng thay. Huống hồ là cái thuyết điên của bố mầy điên mà dám nói mình điên, điên mà xây dựng trên một nhận thức luận điên, một bản thể luận điên, một nhân sinh quan điên. Ngôi sao của thuyết tồn sinh của Sartre sẽ lu lờ, nếu ngôi sao của thuyết "toàn cuồng triết luận" của bố mầy mọc lên. Thằng ranh con, mầy ngu lắm! Bố mầy mắt kém, tay rung, viết không được. Bố mầy đọc cho mầy chép. Mầy không chịu chép bộ "toàn cuồng triết luận", Bu mầy cũng ngu. Tao biểu bỏ vốn ra mà in bộ "toàn cuồng triết luận", thuê dịch ra đủ thứ tiếng. Sách sẽ bán chạy như tôm tươi. Bu mầy không chịu, cứ đâm đầu đi buôn bán, kiếm mỗi ngày không đến trăm bạc. Cả tháng nay, bu mầy không nuôi tao được một xị rượu. Có ngu không?
Basu khuyên:
- Bác ơi, bác gái có lý mà buôn tảo bán tần. Sách của bác không ai thèm mua đâu.
Thiệu Đài vỗ lên ván một cái rầm, nạt to:
- Sao mà không mua? Cả thế giới đương điên. Nắm được tinh năng nguyên tử, mà không dùng nó để mưu hạnh phúc cho loài người. Lại thi đua mà lao đầu vào cái chiến tranh tận diệt. Có điên không? Đã điên đến như thế sao lại không mua sách "toàn cuồng triết luận" của tôi? Sao không suy tôn tôi lên làm thủ lãnh của cái ý thức hệ của thời đại? Sao không mau mau trao giải thưởng Nobel cho tôi, để tôi mỗi bữa cơm có một xị rượu uống? - mà giải lòng sầu thế hệ? Tarapada Basu ơi, Chandra Bose ơi, sao năm ấy các anh không rủ tôi cùng ngồi chiếc máy bay, để cùng rơi xuống biển cho rồi? Để tôi sống chi thêm hai mươi lăm năm tủi nhục trong cái thế giới càng ngày càng điên?
10Lần lượt, khách đến nhà bác sĩ Bái, và đúng tám giờ cả thảy đều có mặt. Cầu-Lệ khởi sự:
- Thưa quí vị, tôi xin lỗi thầy và ba nuôi để khai mào buổi nói chuyện ngắn nầy, để quí vị có một ý niệm khái quát hầu quí vị có thể hiểu cuộc thăm viếng mà chúng tôi tổ chức hôm nay. Lối năm mươi năm trước đây, nơi một làng hẻo lánh giữa rừng thuộc tỉnh Phan Thiết, có một ông đồ nho dạy chữ Hán và chữ quốc ngữ cho vài chục trẻ nhỏ của xóm. Ông là người gốc ở Hà Tĩnh, vùng sỏi đá không đủ đất cho nông dân cày cấy, nên những thanh niên cố gắng học hành, hễ thi đậu thì ra làm quan ăn bổng lộc của triều đình, hễ thi rớt thì đi đó đây mà dạy học để cầu thực. Vào những năm thực dân đặt chân trên đất nầy, những thanh niên có học ở tỉnh nầy, đã mấy lượt, tụ tập nhau lại mà tổ chức lắm cuộc phản đối ách ngoại bang. Có một lần, vị lãnh tụ, là có một phó đảng, tên Nguyễn Sinh Huy, vừa toan tính ấy đã bị bại lộ. Nguyễn Sinh Huy bị đày vào Nam, đồ đảng bị phân tán các nơi. Nguyễn Sinh Huy đi vào Nam, có dắt theo một đứa con trai, tên Nguyễn Sinh Cung. Nhưng ông hận đời vì mình thất bại, ông mơ ước cho con thành công, nên ông cải tên lại cho, từ ấy Sinh Cung đổi tên lại là Tất-Thành. Và khi câu chuyện tôi thuật đây khởi đầu, cụ phó bảng Nguyên Sinh Huy đã qua đời. Tất-Thành đã thành niên, và sau khi lưu lạc đó đây, vừa làm thầy giáo ở trường tư Dục Thanh ở Phan Thiết, nên tìm đồ đảng cũ của cha mình mà viếng. Tất-Thành đến viếng ông đồ mà tôi đã tả khi vừa khởi đầu câu chuyện, và theo tục lệ của xứ tôi, Tất-Thành gọi bằng chú, mặc dù không có họ hàng.
Basu đưa tay ra dấu muốn chận ngang. Cầu-Lệ dừng lại, để cho chàng đặt câu hỏi. Chàng hỏi:
- Thưa cô, Tất-Thành nào? Có phải là người từ năm 1920 tới 1945 đã hoạt động cho Quốc Tế Cộng Sản dưới danh hiệu là Nguyễn Ái Quốc, và từ năm 1945 cho đến nay, dưới tên là Hồ Chí Minh chăng?
Cầu-Lệ gật đầu. Basu tiếp:
- Xin lỗi quí vị cho tôi đặt một câu hỏi nữa. Chẳng hay ông đồ nho ở Phan Thiết tên chi?
Cầu-Lệ đáp:
- Ông ấy tên Nguyễn Hữu Hoàn, là thân sinh của người bịnh mà chúng ta sắp viếng đây. Tên người bịnh là Nguyễn Hữu Ngư, mà trong những lúc lên cơn kịch liệt chối cái tên cúng cháo của mình mà vỗ ngực tự xưng là Ngê-Bá-Lí. Sở dĩ chúng tôi tổ chức cho quí vị viếng và phỏng vấn Ngê-Bá-Lí, bởi vì trong các áng văn chương quốc tế, các văn hào đã tả những người bị lương tâm cắn rứt vì hành động của mình. Còn ở đây lương tâm của Ngê-Bá-Lí cắn rứt cho đến nỗi làm cho người phát điên lên, không phải bởi những hành động của mình, mà lại bởi một hành động của cha mình. Trong quí vị, có ai có óc phân tích tế nhị như Dostoiewski, ắt có một cái tứ để viết một tiểu thuyết tân kỳ.
Nhìn vào đồng hồ tay, Cầu-Lệ nói tiếp:
- Sau lời giới thiệu vắn tắt, tôi xin quí vị lên xe, kéo trễ hẹn. Vả lại, nói chuyện thẳng với đương sự chắc chắn thích thú hơn là nghe kẻ khác thuật một cách khó khăn.
Khách chưa kịp đứng dậy, thì bác sĩ Bái ra dấu cho cả thảy ngồi xuống và nói:
- Con gái tôi, từ phương xa về, không hiểu hết những tiểu tiết, nên trong lời khai mào, quên phần quan trọng. Đã đành, chúng ta tổ chức cho quí vị phỏng vấn một nạn nhơn của thời cuộc, quí vị chưa hiểu chi đến thời bình ở xứ nầy, và có lẽ của cả cái nhân loại của ta. Trước khi gặp Ngê-Bá-Lí, quí vị sẽ gặp, và rất lâu, vị bác sĩ giám đốc của dưỡng trí viện Biên Hòa. Thà chúng ta đến trễ mấy phút, hơn là quý vị không biết chi về bác sĩ nầy...
Ulrich tán thành gật đầu. Hayashi và Basu cùng một lượt nói:
- Thật đúng lắm!
Bác sĩ Bái nói tiếp:
- Đồng nghiệp của tôi, nay chỉ huy dưỡng trí viện, trước kia là một bác sĩ lỗi lạc về Tây y, từ năm 1945, đã làm giáo sư ở Đaị Học Hà Nội. Trái với các học trò của người, họ chỉ mới quọt quẹt vài câu của Pasteur, là đã vội phủ nhận y học cổ truyền của phương Đông, giáo sư nghiên cứu rất kỹ Đông y với nhãn quang của khoa học tối tân. Nhờ kiêm cả Đông Tây, mà nghệ thuật của người đến chỗ tinh vi, và nhờ đó mà danh tiếng đồn khắp cả xứ. Nên khi Việt Minh đoạt được chánh quyền họ liền lập tức chọn ngay làm y sĩ đặc biệt của Hồ-Chí-Minh và của các lãnh tụ của đảng cộng.
Phương Nữ chú ý đặc biệt, nên hỏi:
- Thưa bác sĩ, vị giáo sư ấy thế nào?
- Ấy là Trần-Tuấn-Kiệt, sau này cũng làm y sĩ đặc biệt của Ngô-Đình-Diệm và trong vài năm, có dạy tại Y Khoa Đại-Học Sài-Gòn về bịnh thần kinh. Tuấn-Kiệt cũng có một ngòi bút tế nhị. Di cư vào Sài-Gòn, ông đã góa vợ. Nhơn tiếp tục học thêm Đông y với một ông lang họ Phạm, quê ở Bà-Rịa, quận Long Điền, ông tục huyền với đứa con gái út của Thầy. Nàng nầy không có Tây học, nhưng nhờ cha dạy, mà Hán học và Quốc học rất tinh thông. Và những tác phẩm, của vợ chồng chung ký tên là Phạm-Long-Điền, được độc giả thưởng thức cái tế nhị của Đông Phuơng lẫn Tây Phương.
Bác sĩ Bái nói tới đâu, thì Ngọc Thu địch ra tiếng Đức cho Ulrich nghe nho nhỏ. Phuơng Nữ cũng tóm tắc lại bằng tiếng Nhựt cho Hayashi nghe. Hayashi ra dấu xin nói. Bác sĩ Bái nhường lời cho, và Hayashi nói:
- Làm văn sĩ, đã là bác sĩ đặc biệt của Hồ-Chí-Minh, của Ngô-Đình-Diệm, nếu ông Tuấn-Kiệt viết một thiên hồi ký nhan đề là "Tôi đã là ngự y của hai vị hoàng đế nước Việt Nam hiện đại Hồ-Chí-Minh và Ngô-Đình-Diệm" thì sách ấy dịch ra đủ các thứ tiếng, danh sẽ lẫy lừng, lợi sẽ to tát. Hiện nay, đã có thể có ba bản dịch rồi. Cô Ngọc Thu và ông Ulrich dịch ra tiếng Đức, ông Basu dịch ra tiếng Anh, Phương Nữ dịch ra tiếng Nhựt, và tôi gọt giũa lại văn cho. À tôi quên, nếu cô Cầu-Lệ có thời giờ mà dịch ra Pháp và tiếng Y-Pha-Nho, thì những điều tai nghe mắt thấy của các vị bác sĩ đặc biệt của Hồ-Chí-Minh và Ngô-Đình-Diệm sẽ được khắp thế giới đua nhau mà tìm biết.
Bác sĩ Bái ngăn lại:
- Đến Biên Hòa khi gặp bác sĩ Kiệt, tôi yêu cầu quí vị chớ nên đem vấn đề, mà ông Hayashi vừa nói, ra mà bàn. Tôi sở dĩ giới thiệu thân thế của vị đồng nghiệp của tôi, bởi vì tôi muốn quí vị có một ý thức rõ rệt về người mà thôi. Bác sĩ Kiệt là một trong số người hiếm hoi ở xứ nầy mà còn chịu ảnh hưởng của Lão Trang. Người thường nói với bạn bè cái lập luận sau nầy mà người gọi là "lục cơ động tác" nghĩa là loài người động tác bởi do một, hay là nhiều, trong sáu cái máy nầy. Một là Lợi: Đó là trường hợp của Ngô-Đình-Nhu và bọn chúng, có một túi tham không đáy, vơ vét bao nhiêu cũng chẳng đủ. Hai là Quyền: do trường hợp của Ngô-Đình-Diệm, Hồ-Chí-Minh và của tất cả nhà độc tài họ có thể sống kham khổ, nhưng chẳng hề chia quyền cho ai cộng tác với mình. Ba là Danh: đó là trường hợp của Sartre vồ những ai giống như vậy, họ trọn đời tính toán làm cái gì nổi danh hơn thiên hạ mới thỏa mãn. Bốn là Công: đó là trường hợp của Trương Lương có một chương trình diệt Tần, phá Sở, hễ làm xong rồi thì "công thành, nhân chi phối" mà chẳng màng lợi, quyền, danh, chi cả. Bốn động cơ nầy có thể người thường cố gắng mà rèn luyện ép xác, thì làm nổi. Còn hai cái động cơ sau, cái thứ năm là Thuật, cái thứ sáu là Đạo, thì trong năm bảy trăm năm, một hai ngàn năm mới xuất hiện một người.
Basu nói:
- Vị loại như vậy là tế nhị lắm.
Bác sĩ Bái gật gù nói tiếp:
- Để trị bịnh điên, Tây Y trước đây chỉ dùng thuốc. Từ ngày học thuyết của Freud thạnh hành, thì người ta bắt đầu dùng phân tâm học để giúp sức với thuốc. Bác sĩ Kiệt đi xa hơn, nghiên cứu Phật, Lão, Trang để phục hưng đạo đức của Đông phương, hầu cộng tác với Tây Y, mà trị tâm bịnh của loài người. Đầu tiên bác sĩ Kiệt trị lấy bản thân mình. Phân tích nội tâm hàng chục năm, ông nhận thấy mình động tác không do cái lợi. Há không biết rằng vợ chồng chịu khó viết thiên hồi ký, mà đề tài như ông Hayashi đã nói, thì thiên hồi ký ấy, dịch ra các thứ tiếng, sẽ in không biết bao nhiêu triệu quyển. Thời cuộc Việt Nam đã làm cho tất cả báo chí, tất cả đài phát thanh chăm chú, để ý, xem ở Việt Nam xảy ra việc lạ gì. Một quyển sách như vậy, làm thỏa mãn lòng hiếu kỳ của tất cả, sẽ đem lại cho tác giả một số tiền to tát vô cùng. Vợ chồng ở không đi khắp đó đây du lịch, ăn xài sang trọng như đế vương, mãn đời chưa hết. Nhưng đồng nghiệp tôi chẳng vụ lợi. Và ông cũng chẳng ham quyền. Phỏng ông ham quyền thì hồi làm ngự y Ngô Đình Diệm, mấy lần nhà độc tài họ Ngô hỏi ông có muốn làm Tổng trưởng bộ Y Tế, thì ông chỉ dạ một tiếng thì ông đã chễm chệ ngồi ghế Tổng trưởng rồi...
Bác sĩ Bái dừng lại, hớp một ngụm trà thấm giọng và nói tiếp trong sự im phăng phắp của thính giả:
- Bác sĩ Kiệt cũng chẳng cầu danh. Bởi vì sau khi phối hợp Đông Y và Tây Y, đồng nghiệp của tôi tìm được một phương thuốc, chẳng những trị được tâm bịnh của người mà còn trị được thời bệnh của nhân loại. Tôi tin chắc một trăm phần trăm rằng nếu ông đem phương thuốc ấy mà công bố, thì ngay trong năm ấy, ông sẽ được, cùng một lượt mà lãnh hai giải thưởng Nobel. Một giải về Y Khoa, một giải về hòa bình. Hồi nào đến bây giờ, có ai mà trong một năm lãnh hai giải thưởng Nobel danh dự nhứt chăng? Bác sĩ Kiệt chịu khó công bố mà thôi, thì danh có ngay tức khắc, lại lẫy lừng khắp thế giới. Nhưng bác sĩ của chúng ta, chẳng ham lợi, chẳng ham quyền, lại cũng chẳng ham danh nốt. Ông là hạng người như Trương Lương, chỉ cầu cho công được thành, rồi ẩn vào rừng tòng, ăn cơm với rau, thưởng thức cái công được thành của mình, còn ngon lành, hơn là ăn khô lân chả phụng.
Hayashi thắc mắc hỏi:
- Tôi chưa thấy do đâu mà động cơ tâm lý của bác sĩ Kiệt, là chỉ muốn cầu cho công được thành, động cơ ấy lại ngăn không cho ông công bố một phương thuốc trị bịnh cho từng người và cho chung cả nhân loại?
Bác sĩ Bái đáp:
- Điểm nầy tế nhị, tôi không đủ tài liệu để giải thích. Vả lại, tôi tự hỏi, mà tôi chưa biết tôi có quyền giải thích cho người khác nghe chăng. Vậy tôi nhường lợi cho ông bạn cố giao cho tôi, là ông Hồ đây. Người có đủ tài liệu để giải thích và cũng đủ thẩm quyền để suy xét coi có nên giải thích cho quí vị nghe không.
Hồ đứng dậy, chậm rãi nói:
- Tài liệu thì quả tôi có. Nhưng quyền tiết lộ những tài liệu ấy, tôi chỉ có một phần. Tuy nhiên, bác sĩ Kiệt phải nắm một phần và khi hai chúng tôi thỏa thuận, thì một người trong hai chúng tôi mới được công bố. Bây giờ chúng ta trễ đến mười phút. Chúng ta hãy lên xe, với tốc lực đặc biệt, chúng ta còn có thì giờ mà đến bác sĩ Kiệt không lỗi hẹn.