← Quay lại trang sách

- 11 - 14

Ngồi gần bác sĩ Bái, trong xe, Phương Nữ hỏi:

- Cháu là sinh viên y khoa. Lúc nãy, bác nói bác sĩ Kiệt tự chữa bịnh cho mình. Nhưng thì giờ gấp rút, bác không vào chi tiết ấy được. Nay, cháu xin bác hé cho cháu thấy cách trị bịnh ấy làm sao. May ra cháu thấy một đề tài để nạp mà làm đề tài của luận án cho cháu. Cháu chú ý đến điểm ấy lắm, nên tìm cách ngồi chung với bác một xe, bên cạnh bác, để có hoàn cảnh hỏi bác. Xin bác đỡ đầu cho một sinh viên vào hàng con cháu bác, và cũng có thể cho mình là một tín đồ của chị Tuyết-Lê con gái yêu của bác.

Nghe nhắc tới Tuyết-Lê, bác sĩ Bái cảm động, nên hai hòn lệ trào ra, nhìn vào xa xăm và nói:

- Học thuyết của Freud, cháu đã biết bác sĩ Kiệt, sau khi nghiên cứu và tìm thấy "lục cơ động tác" rồi, kết luận rằng tâm lý của mỗi người đều do một, hay là nhiều, động cơ nầy thúc đẩy, và nếu không thỏa mãn được, động cơ nầy dày dò tâm hồn mình. Kẻ bị động cơ dày vò nhà Phật gọi là dục vọng. Những kẻ "hương nguyện" trong đạo Phật tưởng đâu rằng dục vọng chỉ do lòng tham của xác thịt, của ý muốn chiếm hữu sắc đẹp, tiền bạc, sản nghiệp, lợi quyền, danh. Tác giả của chuyện ngắn Con thằn lằn chọn nghiệp tế nhị, đã chứng mình bằng nghệ thuật, rằng lòng muốn thành Phật cũng là một dục vọng nữa. Dục vọng mà không thỏa mãn, bị dồn ép, thì người có thể điên. Bác sĩ Kiệt tự phân tích lòng mình, xét mình, biết mình cũng bị động cơ thôi thúc. Động cơ ấy là lòng muốn công thành. Từ năm 1947 đến năm 1954, ông vui sống trong tham khổ, giữa rừng thiêng, nước độc trong mọi sự thiếu thốn vật chất dưới đe dọa của bom đạn, để làm y sĩ đặc biệt của Hồ-Chí-Minh và các lãnh tụ đầu não cộng sản bởi vì ông nắm được cái hi vọng rằng công ông thành. Tôi không nói cái công mà ông nhắm đó là công gì, bởi vì nó không thuộc về y học. Nhưng đến năm 1954, sau đình chiến, các lãnh tụ Cộng sản không dùng ông làm y sĩ đặc biệt nữa, vì họ không còn ở trong thiếu thốn, ông biết trước rằng ở lại ngoài Bắc, công của ông lại sẽ không thành; ông lại trốn mà di cư vào Nam. Bấy giờ, được Ngô-Đình-Diệm chọn làm y sĩ đặc biệt, ông lại nuôi một cái hi vọng mới, là xây dựng một công nghiệp mới. Chẳng dè một ngẫu nhiên và tôi không có quyền phanh phui cái ngẫu nhiên ấy ra làm sao, làm cho ông mất cái chức y sĩ đặc biệt. Ông thấy công nghiệp ông không thành, hóa ra thất vọng, muốn điên. Cũng may là ông bạn của tôi, là ông Hồ, hiểu được nỗi lòng của ông Kiệt, nên tạo cho ông một hi vọng. Ông nguôi ngoai lãnh làm giám đốc của dưỡng trí viện Biên Hòa, để chờ ngày thực hành công tác. Đó, cô đã hiểu chưa? Phương pháp trị bịnh của bác sĩ Kiệt là nhận chân con bịnh của người do nguyên nhân nào mà sanh ra, hễ là do dục vọng không thỏa mãn dày vò, thì tìm cách làm cho dục vọng ấy thỏa mãn.

Phương Nữ hỏi:

- Như vậy thì phép trị bịnh của bác sĩ Kiệt trái với tôn giáo sao? Các tôn giáo chủ trương diệt dục, còn bác sĩ Kiệt dùng phương pháp thỏa dục.

Bác sĩ Bái đáp:

- Bề ngoài hình như vậy song thật sự cái không nghịch nhau, nếu ta đi sâu vào chi tiết. Để làm cho thỏa mãn dục vọng, trước hết bác sĩ Kiệt dùng thuốc mà làm cho dục vọng ấy chịu bớt đi. Đạo Phật và Lão đạo đồng ý về tiểu tiết nầy, nên chủ trương cho tín đồ ăn chay, để cho thịt cá, các chất bổ kích thích như hành, lẹ; tỏi nén không làm cho xác thịt đòi hỏi việc nhục dục. Nhưng đạo Phật và đạo Lão chỉ thấy có chút xíu dục vọng, của xác thịt bác sĩ Kiệt vượt xa hơn. Người nghiên cứu đủ mọi hình thức của dục vọng, do xác thịt, do lợi, do quyền, do danh, do công, do thuật, do đạo mà tìm thuốc đặc thù để là dịu dục vọng. Việc ăn chay chỉ là cho dục vọng đừng cho tăng lên, chớ không làm cho giảm bớt. Thuốc của bác sĩ Kiệt nghiên cứu nhằm mục đích làm giảm bớt dục vọng. Nhưng mà giảm thì giảm phần nào đó thôi. Giảm cho đến cái mức mà phương pháp thứ hai là thỏa mãn phải đem ra áp dụng.

Bác sĩ Bái vừa nói tới đó, thì xe đã ngừng ngay trước thềm nhà riêng của bác sĩ Trần Tuấn Kiệt.

12

Bác sĩ Kiệt đứng dậy nói:

- Quí vị muốn hiểu phương pháp trị tâm bịnh của tôi, tôi rất vui lòng mà trình bày. Riêng về bịnh nhơn Nguyễn Hữu Ngư, tôi chỉ cho phép quí vị, phỏng vấn với điều kiện. Điều kiện ấy, là quí vị không được phép hỏi bịnh nhơn về việc ông thân sinh của bịnh nhơn là cụ Nguyễn Hữu Hoàn, độ năm mươi năm trước đây, đã mắng ông Nguyễn Tất Thành thế nào khiến cho ông nầy bỏ xứ, lưu lạc hải hồ, mà bây giờ trở nên Hồ Chí Minh. Tôi biết rõ chi tiết ấy. Quí vị tò mò, tôi sẽ thuật mà nghe. Nhưng quí vị hãy hứa danh dự với tôi là không đã động việc ấy với bịnh nhơn. Tôi đã khổ sở năm bảy lần rồi, vì chút xíu ấy. Bởi vì bịnh nhơn có cái mặc cảm phạm tội rất nặng nề, không phải cho mình, mà cho cha mình. Trong mấy lúc lên cơn điên, bịnh nhơn luôn luôn nói: "Hồi đó mà cha tôi không mắng cho tôi, một mách khiến cho y bỏ xứ mà lưu lạc giang hồ, đi làm cách mạng, thì quá y sống một đời tầm thường của một thầy giáo tư thục, ở một tỉnh nhỏ. Và cầm vận mạng miền Bắc, ắt là một người khôn ngoan hơn, tránh cho dân tộc khỏi rơi vào ách nô lệ của Mao Trạch Đông, miễn cho dân tộc chém giết nhau gần chục năm rồi và còn có thể đổ máu mấy chục năm nữa. Cha tôi là Nguyễn Hữu Hoàn lái Nguyễn Tất Thành trốn ra ngoại quốc, năm mươi năm sau nước non như thế nầy, cha tôi đã phạm tội lớn với tiền nhơn. Cha tôi đã phạm tội với non sông. Cha tôi đã phạm tội với dân tộc! Cái mặc cảm phạm tội giùm cho cha nầy đè nặng lên tâm tư bịnh nhơn. Tôi trị cho bịnh nhơn mạnh, rồi để cho tự do về đời sống hằng ngày, rủi có kẻ vô tình hay hữu ý, và trong lúc mà thần kinh của người bị cảm xúc mạnh, kẻ ấy hỏi ngay tiểu tiết nọ, thì cơn điên lại tái phát. Và trong lúc điên một, ai vô ý mà động lại vết thương lòng, thì bệnh nhơn điên gấp mười lên. Quí vị đã hiểu cái lý vì sao vị y sĩ, là tôi, có phận sự chăm sóc bịnh nhơn Nguyễn Hữu Ngư phải bắt buộc điều kiện cứng rắn như vậy. Bây giờ tùy quí vị. Ai muốn nói chuyện với bịnh nhơn Nguyễn Hữu Ngư, thì trước phải đưa tay lên mà hứa danh dự không động tới vấn đề tabou ấy.

13

Nhờ bạn mình, là Hồ, cắt nghĩa rành rẽ, Ulrich đã hiểu rằng, cuộc phỏng vấn Ngê Bá Lí ở nhà thương Biên Hòa nầy quan trọng vô cùng. Nên từ sáng, người đã cho ê kíp nhiếp ảnh và thâu thanh lên một cuộc phóng sự có ghi âm về cái thế giới điên ở Việt Nam.

Về bề ngoài, cái thế giới nầy không có chi làm cho để ý rằng dân cư là người điên. Xe hơi qua khỏi cổng, du khách thấy hai bên là mấy ngôi nhà thấp dùng làm văn phòng, giống như một nha nào đó. Công chức làm việc cùng cẩn thận, cần cù, nhưng có lẽ, làm công chức ở một nhà thương điên cũng có một cái gì đặc biệt, khác hơn là công chức ở các nơi khác. Nơi mặt, nơi mắt, trong tiếng nói, phim ảnh và băng nhựa dường như cũng ghi được điều đó... Một cây cầu nhỏ, bắc ngang qua một dòng nước uốn quanh. Không có sờ sờ nắm đất bên đàng, không có dàu dàu ngọn cỏ. Mà lại một bia khắc tên vị bác sĩ Nguyễn Văn Hoài, người đã chỉ huy viện nầy trước đây, bia dựng trên một đám cỏ xanh tươi. Tại sao bác sĩ Hoài được đề cao như vậy? Vì bác sĩ nghiên cứu, thấy bao nhiêu kẻ vì lợi, quyền, danh, công... thấy có một chút cái điên trong người và kẻ làm thần tượng cho công chúng lại là kẻ mà chất điên nhiều hơn đồng bọn của mình một tí, nhưng chưa đến đỗi loạn óc. Bằng chứng là Hitler, mà đã một hồi dân tộc Đức lên cơn tôn sùng như thánh sống. Bác sĩ Hoài có viết một tác phẩm để chứng minh rằng đứng về phương diện khoa học. Hitler có đủ triệu chứng của một người đau bịnh điên. Hitler cũng chỉ là một ví dụ mà thôi. Chỉ huy loài người, biết bao kẻ đích thị là điên mà quần chúng trong một thời lên cơn, đã suy tôn lên làm lãnh tụ của mình. Bác sĩ, bạn với Hồ, đã tìm ra một phương pháp để cho người điên tự mình trị lấy mình. Tôn giáo. Tôn giáo nào cũng được. Một cá nhơn lên cơn điên, có thể làm dịu sự điên rồ của mình bằng tôn giáo. Mà một dân tộc lên cơn điên, lại càng cần dùng tôn giáo hơn nữa. Ờ ờ, cái phim ảnh bằng nhựa dường như ghi được nơi mặt, nơi mắt, nơi tiếng nói của công chức là cái thần tôn giáo. Sống trong xã hội người điên bực mình lắm. Điên là một thứ bệnh truyền nhiễm lắm. Thấy người điên, thét rồi ngấy, hóa ra điên mất. Không khác nào ở trong nhà thương cùi, lâu chầy rồi cũng vướng vi trùng Hansen; ở trong nhà thương lao lâu chầy rồi cũng vướng vi trùng Koch. Nếu chẳng có một sự hi sanh, để mấy ai chịu sống gần gũi người điên để mà bị nhiễm?

Xe len lỏi trên đường quanh co, ngang dọc giữa những tàng to bóng mát. Cách cách, những ngôi nhà trệt, giống như biệt thự của những ông tiểu tư sản. Cảnh khiêu gợi an nhàn, sự tin tưởng tôn giáo, sự thoát tục. Phép vị loại của bác sĩ Kiệt thể hiện bằng cách chia bịnh nhơn thành khu vực. Hạng bịnh nhơn đông đảo hơn tất cả thuộc về hạng bịnh về "lợi". Có cái lợi về "sinh lý". Bịnh nhơn thuộc loại nầy, hầu hết là đàn bà. Bác sĩ Kiệt giải thích:

- Đàn ông bị dục vọng của xác thịt, có thể làm thỏa mãn dục vọng ấy với bọn mãi dâm, với lối cưới vợ có hôn thơ, hay không hôn thơ công khai hay bí mật. Nhà văn Vũ Trọng Phụng tả một ông nghị Hách nhơn lên cơn điên kéo một gái nhà quê vào xe mà "giải quyết" cuộc lên cơn. Ở chợ Lách trước đây, có một ông phủ ngồi quận, lúc lên cơn, trời hừng hừng, ra nằm núp trong bụi, chờ đoàn con cấy đi qua rình chụp người đi chót kéo vào bụi... y hệt như cọp rình chụp người đi chót móc họng mà ăn thịt vậy. Không còn biết con cấy ấy là đẹp không, già trẻ. Miễn là miếng mòi giống như con thịt đi sau chót bị cọp chụp là thỏa mãn ông phủ ấy rồi. Ai cũng cho rằng tiền kiếp của ông phủ nầy là cọp, nên rất thích thú cái lối vồ con thịt như vậy. Nên gọi ông là "cọp Chợ Lách". Thật ra, ông có hung dữ chút nào đâu? Ông nghị Hách, "cọp Chợ Lách", khi lên cơn điên, mà dục vọng được thỏa rồi, thì dục vọng độ xuống. Còn phụ nữ bị tục lệ, xã hội ràng buộc. Lúc lên cơn đâu có thể làm nghị Hách, như cọp Chợ Lách.

Ulrich xen một câu:

- Nhà văn Anh là Lawrence, trong tác phẩm Tình nhơn Chatterley phu nhơn, đã có một lập trường giống như bác sĩ. Mỗi khi phu nhơn lên cơn thì làm cho dục vọng độ xuống một cách độc đáo...

- Những gái chưa chồng, nhứt là ở thôn quê là nơi mà phong tục ràng buộc, dục vọng không làm sao thỏa mãn được, điên cuồng lên. Người Việt gọi bịnh ấy là "mắc đàng dưới", và hiểu rằng các cô ấy đương tư thông với con quỉ có tên là Hà Bá... Nhiều cô mắc đàng dưới, rồi điên luôn và gia đình gởi đến đây. Bịnh nầy khó trị lắm. Bởi vì luật pháp không cho phép chúng tôi áp dụng một phương pháp trị bịnh một cách hợp lý...

Thính giả cùng cười rất hồn nhiên. Chỉ có mấy cô lộ một cái thẹn cũng hồn nhiên. Bác sĩ Kiệt nói tiếp:

- Nối theo số người bị bịnh về sanh lý, ấy là kẻ thất vọng về tiền tài. Làm ăn thất bại, của cải bị chúng giựt, mua giấy số xổ ra trúng, nhưng lại làm mất tấm vé đi. Trong vị loại, đáng lẽ phải có một khu vực để giữ những người "điên về quyền". Nhưng hạng nầy nếu họ thành công thì họ cầm quyền mà ngồi trên đầu, trên cổ mình, ai dám bắt họ mà gởi lên đây. Còn nếu họ thất bại, thì không phải nhốt họ ở đây. Họ bị nhốt ở Chí Hòa. Họ bị đày ra Côn đảo, họ bị cách mạng nổi lên giết quách.

Đoàn xe đến một góc. Bác sĩ Kiệt giới thiệu một "bịnh nhơn" tuổi hơn năm mươi và nói:

- Qui luật của dưỡng trí viện nầy, do chế độ thực dân đặt ra, làm cho lắm người điên lại ở ngoài vòng pháp luật, còn kẻ chẳng điên lại bị nhốt. Đó là trường hợp của ông nầy. Ông vô sổ "phong thần", bị nhốt ở đây tháng hai năm 1945, nay đếm hơn hai mươi năm. Bác sĩ Hoài có nghiên cứu trường hợp của ông và đã ghi vào một hồ sơ đầy đủ. Đọc hồ sơ nầy, thật là một tiểu thuyết. Ông vốn là một tiểu phú, gốc ở Hậu giang. Hai vợ chồng có học, bà vợ đọc được tiểu thuyết Pháp. Thấy nghề làm ruộng cực khổ, ông bán hết sự nghiệp lên Xuân Lộc khẩn rừng, phá hoang mà lập đồn điền trồng cao su. Ông chỉ có cái tội là cường độ kém, không làm thỏa mãn sinh lý của vợ, thêm lo làm ăn cả ngày và lúc mới lập đồn điền thì lo cả đêm, đâu còn thời giờ mà làm phận sự người chồng. Dục vọng xác thịt của bà không thỏa mãn, một chứng điên nhúm lên. Ở rừng không có chi giải buồn, bà đọc tiểu thuyết. Chính là quyển tiểu thuyết mà ông Ulrich nhắc lên lúc nãy là đầu dây mối nhợ cho tiểu thuyết thực mà chúng ta chứng kiến. Bà đọc, thấy Chatterley phu nhơn giải quyết cơn điên sinh lý của mình với anh phu trẻ tuổi làm vườn, những cảnh ngoại tình mà nhà văn Lawrence tả một cách sôi động làm như lửa nung sôi lòng của bà. Dằn không được, bà bắt chước phu nhơn mà giải quyết với anh sốp-phơ của mình. Với anh sốp-phơ, bà sống những phút say sưa, thỏa mãn của Chatterley phu nhơn. Phần sợ bị chồng bắt, phần sợ bị mất những say sưa, bà lập kế... để miên trường sự say sưa ấy. Giết chồng để ở luôn với tình nhơn ư? Không được. Án mạng sẽ dẫn đến kết quả là công lý sẽ can thiệp. Bà sẽ ở tù. Vào tù, ngoài sự mất tự do, ngoài sự ăn uống khổ cực, còn việc làm sao mà thỏa mãn xác thịt dày vò? Không biết làm sao mà bà biết cách là làm cho ông điên nặng trong 48 tiếng đồng hồ.

Basu lấy làm lạ hỏi:

- Làm cho người ta điên trong một thời gian lâu như vậy được à?

- Được! Ở Mễ-Tây-Cơ có giống nấm, tiếng Pháp gọi là champignons hallucinogènes. Uống một chút xíu thôi, thì thấy tinh thần lâng lâng. Không khác nào kẻ vừa dùng ma túy. Uống quá nhiều, thì thấy mình thành tiên bay lên cõi xa xăm, gặp các đấng mà bàn bạc về những vấn đề siêu thoát. Uống quá nhiều, thì điên thật tình, chừng nào chất nấm bị bài tiết hết ra khỏi cơ thể thì hết điên. Ở đất nầy, có một thứ cây có một tánh chất giống như loài nấm ấy. Có lẽ, ông nầy để bị vợ cho uống một thứ gì chế bằng thứ cây nọ. Và ông đã điên và bị cho gởi vào đây. Sau 48 giờ, thuốc đã giã, hết cơn điên giả tạo nầy, ông tỉnh lại hoàn toàn. Song theo qui chế của dưỡng trí viện nầy, một bịnh nhơn nào bị gia đình gởi vào, mà không được gia đình lãnh trở ra, thì dưỡng trí viện không có quyền thả ra. Hơn hai mươi năm, ông bị nhốt trong nầy. Chán quá, bị tòa án kết án, còn mong mãn án, khỏi cảnh tù tội, hoặc còn mong có cách mạng, có ân xá mà có lại tự do. Còn đàng nầy, bị vợ chánh thức, có hôn thú, kêu án chung thân, biết ngày nào mãn án? Có cách mạng, ai lại thả một người "điên" để phá làng phá xóm sao? Có vị tổng thống nào "anh minh" dám ân xá, để cho ông về thấy cảnh của cải bị cướp, vợ ngoại tình nhốt mình trong tù, rồi ông phát điên thật tình, giết gian phu dâm phụ?

Ulrich nghe Ngọ Thu dịch lần lần, gật gù rồi nói:

- Phi lý! Xã hội phi lý: Kẻ điên nhởn nhơ hưởng tự do, còn người không điên bị nhốt, chẳng biết lúc nào được thả. Vợ cho có chết đi, ai có quyền đại diện cho gia đình mà lãnh ra? Ở tù chung thân à? Phi lý!

- Đúng vây! Bác sĩ Hoài cho mượn tiểu thuyết mới cho ông nầy đọc. Đọc xong Malraux, Sartre, Camus... ông bịnh ta đâm ra viết tiểu thuyết và làm thơ.

- Chẳng hay tên tiểu thuyết và các tập thơ là chi?

Bác sĩ Kiệt đáp:

- Tiểu thuyết nhan đề là Chừng nào người điên trở về? Nối theo đó là Khi người điên trở về... Còn mấy tập thơ đều có chung một tên là Thơ điên.

- Chắc những tác phẩm nầy độc đáo lắm.

- Tôi không có quyền tiết lộ. Song quí vị suy ra, ắt cũng hiểu được phần nào. Tác giả đã sống thật với cái phi lý, cái cô đơn khắc khoải tâm tư, ắt đâu cần một cái hứng giả tạo. Cũng không cần xây dựng một cốt truyện cầu kỳ. Sự thực đã quá kỳ lạ rồi. Và trọn ngày gọt giụa câu văn, suốt hai mươi năm, có lẽ tác phẩm có cái gì vượt hẳn... Ông Ulrich là một nhà văn, cốt chuyện như vậy chắc ông khai thác được mà sáng tác.

14

Ngê-Bá-Lí người gầy đét, tóc hớt ngắn, luôn luôn dựng ngược, dường như muốn làm mấy cái lông nhím mà bắn khắp nơi. Mặt có vẻ luôn luôn âu lo, mắt hình không ngó ra để tự mình đàm thoại với mình. Thỉnh thoảng tìm được một tứ nào hay, thì cười hắc hắc, tay phải đặt lên ngực như dằn trái tim lại, tay trái đưa lên cao, làm như một nhà thuyết pháp đang giảng đạo lý cho đám tín đồ của mình. Người nói:

- Mấy thằng cha viết sử, xách lúp mà tìm xem chơn lông của mụ Võ Hậu như thế nào nên khiến mụ ta dâm dật như vậy, chẻ tóc làm tám để suy luận xem Hùng Vương của nước Văn Lang có phải là chư hầu đã làm chúa nước Sở bên Tàu chăng. Mấy cha nội ấy mê mải trong chi ly, mà không để ý đến những vấn đề trọng đại của lịch sử...

Ngê-Bá-Lí vừa nói tới đó, thì đoàn người do bác sĩ Kiệt hướng dẫn vừa bước đến ngưỡng cửa. Kiệt nói:

- Giáo chủ thuyết pháp mà chẳng có tín đồ nghe, ắt không được hứng cho lắm. Nên tôi mạn phép mời quí vị đây đến nghe. Vậy mời giáo chủ tiếp tục!

Ngê-Bá-Lí vui vẻ bắt tay mọi người, mời mọi người ngồi bẹp xuống đất như tục Nhựt Bổn, còn mình thì đứng mà tiếp tục nói:

- Tôi nói hiện tượng lớn trong lịch sử là hiện tượng tôn giáo. Các nhà tư tưởng Tây phương nông cạn, bởi nông cạn nên kiêu căng cho rằng tôn giáo không đáng kể. Họ cho rằng đáng kể là chánh tri, là kinh tế, là triết học, là quân sự. Nào hay đâu các thứ ấy chỉ là các thứ Tôn Hành Giả, Bát Giái, Sa Tăng, con Long Mã mà thôi. Tôn giáo là thầy Đường Tăng, coi mềm nhũn vậy, chẳng có chút phép mầu, thế mà là "sư phụ" của cả thảy. Từ mấy ngàn năm ảnh hưởng của chánh tri, kinh tế, triết học quân sự giống như các lâu đài bằng cát mà trẻ con đắp trên bãi biển. Những đợt sóng của thời gian ào tới, quét sạch còn lại gì đâu? À, à, à! Hãy còn! Hãy còn! Cái còn ấy là tôn giáo!

Hồ ra dấu muốn nói. Ngê Bá Lí nhường lời cho và Hồ hỏi:

- Ông nói như vậy, ý ông muốn xướng ra một tôn giáo mới để cho ông làm giáo chủ chăng?

Ngê Bá Lí nhe răng, cười, hai tay đưa lên trời dường như đón rước cái gì từ trên không rơi xuống vậy, rồi hốt cái vô hình ôm vào lòng có dáng sung sướng như người mẹ ôm con mà cho bú. Hayashi và Ulrich nhìn Hồ, muốn hiểu Ngê ta làm gì như vậy. Hồ giải thích:

- Bấy lâu nay, Ngê Bá Lí ôm một hoài bão lớn. Anh nói, lưu vực sông Nil, đã là nơi phát tích của cái tôn giáo cổ của Ai Cập. Vùng sông Hỗ đã là nơi phát tích của đạo của Moise và Jésus. Sông Hằng đã nung nấu cho đạo của Thích Ca, sông Hoàng đã là khởi điểm của đạo tu tiên của Hoàng Lão. Rồi Ngê Bá Lí làm một bài thơ, nhan đề là Ta chờ. Chờ gì? Ngê Bá Lí chờ từ lưu vực sông Cửu Long xuất hiện một tôn giáo mới để ngăn "Mác Lê hống hách tràn U-Ran". Khi tỉnh trí, Ngê Bá Lí biết mình trí kém tài sơ, thì chỉ mong chờ. Nhưng lúc lên con, thấy chẳng có ai ôm chí lớn ấy, nên tự cho mình có sứ mạng thiêng liêng là lập cái tôn giáo mới ấy!

Ngê Bá Lí quát to:

- Không phải! Im mồm ngay!

Hồ nhũn nhặn nói nhỏ nhẹ:

- Nếu tôi nói không phải, thì mời ngài giải thích cho bà con nghe. Chúng tôi là người phàm tục, muốn hiểu phải nhờ lời, nhờ chữ. Chớ nào đã đạt cái hạnh Bồ tát mà hiểu cái vô ngôn!

Ngê Bá Lí híp hai mắt lại, buông xui tay xuống, rồi, mắt vẫn nhắm, từ từ nói:

- Thằng cha Võ Phiến ở nhóm Bách Khoa phải để hơn mười năm mới nhận thức một sự thật mà đáng lẽ tất cả người Việt nào cũng phải biết. Từ đèo Hải Vân trở ra, không có cái hồn tôn giáo đích thật. Dân đàng ngoài chỉ có cái vỏ ngoài cái émail tôn giáo mà tôi. Người đàng ngoài chỉ theo những tôn giáo cổ truyền mà tổ tiên, ông bà cha mẹ truyền lại. Còn từ đèo Hải Vân trở vào càng gần lưu vực sông Cửu Long, cái hồn tôn giáo mới càng bàng bạc, càng mãnh liệt. Cái tôn giao huyền bí nhứt của miền Nam là Bửu sơn Kỳ hương, bây giờ tục danh là Hòa Hảo, chỉ tràn lan đến bờ sông Đồng Nai mà thôi. Đạo Cao Đài hơi duy lý hơn một chút, thì tràn ra đến Quảng Nam là đuối sức. Ngê Bá Lí ta thì cha là người Hà Tĩnh, mẹ là người Phan Thiết, ta cũng sanh và trưởng ở Phan Thiết, làm sao ta có tâm hồn tôn giáo sung mãn để làm giáo chủ của cái đạo mới? Thằng cha Hồ nầy là người miền Nam, sao nông cạn mà bảo ta hoài bão cái mộng sáng tạo ra tôn giáo mới?

Hồ cười hí hí, nói khích:

- Vậy chớ người sáng lập tôn giáo mới ấy là ai?

Ngê Bá Lí vẫn nhắm hít mắt, từ từ đưa tay mặt lên, chìa ngón trỏ mà chỉ thẳng, nói:

- Sáng lập tôn giáo mới nầy, không cần tìm đâu xa. Người ấy ở ngay trước mặt ta, ta không cần mở mắt ra mà nhìn mới thấy. Người ấy đã được nàng Tuyết Lê báo cho thiên hạ biết trước, như thánh Jean-Baptiste báo trước Jésus xuất thế. Các người muốn biết, thì dò theo ngón tay ta mà hướng theo để nhìn! Basu lật đật chạy ra sau lưng Ngê Bá Lí mà nhìn theo ngón tay chàng.