Phần Thứ Tư - HOA DINH CẨM TRẬN
Cầu Minh và cả gia đình, Cầu Nghiêm và cả gia đình, và Cầu Chơn được tập trung đến một ngôi chùa xưa cách Văn Nam Phủ độ mười dặm. Chùa ở trên chốt của một hòn núi con, thế mà đá vững đứng, người không biết lối vào không làm sao leo lên được. Họ đã được đưa đến đó bằng trực thăng. Ở chùa có sẵn lương thực cho họ sống đúng mười hôm. Hết thời hạn ấy trực thăng lại đến nữa, mang thức ăn đến.
Tuy là ở chót hòn núi con, song lại thấp hơn mấy quả núi to gần đó. Nên có một mạch nước chảy róc rách hoài, và nước luôn luôn thừa dùng. Không có bao nhiêu đất, chồi con và cỏ, vì thiếu phân, hóa ra cằn cỗi.
Có điều làm cho ba anh em suy nghĩ mãi. Và họ luôn tự hỏi nhau. Khi chưa có trực thăng, thì người xưa đã làm cách nào để đến ở chỗ nầy? Họ đã phi hành như trong các tiểu thuyết kiếm hiệp chăng? Chùa lại xây cất bằng những vật liệu như gỗ, như ngói không làm sao tạo ra trên chót vót ấy được. Những món ấy làm sao mà đem lên? Sau mấy ngày thám hiểm, Cầu Minh tìm thấy một tấm đá có khắc chữ, giống như chữ Hán mà chàng đọc không được. Chàng bèn tìm hai em mà chỉ cho. Thì Cầu Chơn thấy là chữ Nôm. Đọc ra thì bài thơ như vầy:
Mười tám thầy nay đã đến đây,
Hang mầu đã lấp chớ mong về,
Đông A cũng khó tìm đường tới,
Trừ lúc nào leo được vân thê.
Đọc thơ xong cho hai anh nghe, Cầu Chơn tiếp:
- Theo bài thơ này, thì tác giả vốn là một hoàng thân vào thời mạt Lý Mười, ấy là chữ thập. Tám ấy là chữ bát. Thầy ấy là chữ tử. Ba chữ thập, bát, tử, ráp lại, ấy là chữ lý. Tức là có người họ Lý trước đã đến nơi đây, mang vật liệu đến mà cất ngôi chùa nầy. Không phải chỉ một người, mà cả một toán khá đông mới từ chơn núi theo một con đường vất vả lắm, mới khuân vác bao nhiêu vật liệu mà xây cất.
Cầu Minh nối lời:
- Con đường mà họ đã đi theo chắc chắn là một cái hang núi rất bí mật, người thường mà chẳng ai dẫn dắt, vị tất đã biết nẻo mà tìm. Câu thứ hai nói sự hiện hữu của cái hang mầu vì khi họ đến đây, họ đã lấp lại.
- Anh hai nói rất đúng. Chùa này nhất định phải cất vào đầu nhà Trần. Hai chữ đông và a ráp lại thành chữ Trần. Vào đầu nhà Trần, Trần Thủ Độ muốn củng cố triều đình của họ mình nên tìm kẻ tàn sát con cháu nhà Lý. Một nhóm nào trong họ này biết ở đây có chỗ cực kỳ bí mật. Bèn dắt nhau trốn đến đây, xây cất chùa này để ở mà tu. Rồi lấp hang lại để ngăn lối của đảng của Trần Thủ Độ. Trừ lúc nào chúng leo được thang máy mà đến. Sau đó, họ Lý này tuyệt tự. Chùa bỏ hoang từ ấy nhẫn nay. Có lẽ chỉ đến bây giờ, dân Tàu có trực thăng, bay gần đây, thấy nóc chùa lạ, bèn hạ xuống. Rồi tu bổ lại, làm cái trại giam đặc biệt cho chúng ta.
Cầu Nghiêm hài hước nói:
- Mặc dầu chẳng phải họ Trần, chúng ta lại được cỡi vân thê mà đến. Nhưng chẳng thấy hậu duệ của nhà Lý ở đâu. Và chúng ta đến đây chẳng phải vì để củng cố triều đình của nhà Trần, mà cũng chẳng phải để củng cố cho một triều đình Việt nào. Chúng ta lại đến đây để củng cố cho một triều đình tàn bạo hơn hết cả triều đình của nước Tàu, triều đình của họ Mao.
Cầu Minh lắc đầu nói:
- Không thể có triều đình của họ Mao được. Mao Trạch Đông mà chết rồi, không phải là con cháu sẽ lên nối vị. Nối vị là một lãnh tụ khác của đảng.
Cầu Chơn nói:
- Đảng tuy vẫn là đảng cũ, song thực chất sẽ biến hoàn toàn. Staline chết năm 1953, mà năm 1956, thần tượng của Staline bị lật đổ. Mao Trạch Đông vừa chết thì chỉ trong sáu tháng thôi, một chủ nghĩa xét lại, không phải thứ xét lại nhút nhát của Kroutchev mà một thứ xét lại tàn bạo, và cũng tàn nhẫn sẽ nổ bùng lên...
- Em căn cứ vào đâu mà nói vậy?
- Hồi em còn nhỏ xíu, lúc học lớp ba, lớp nhì chi đó, một quyển tiểu thuyết trào phúng ra đời, mang tên là Phi Lạc Sang Tàu thấy có chép câu tiên tri của Gia Cát Lượng...
- Em là nhà khoa học, cớ sao em lại tin lời tiên tri huyền bí?
Cầu Chơn cười đáp:
- Chỉ có thứ tư thái của "khoa học vạn năng chủ nghĩa" mà tiếng Pháp gọi là scientisme, mới cấm đoán nhà khoa học ghé mắt vào những lãnh vực khác của tư tưởng. Bởi vì tư tưởng của loài người nào có phải thâu hẹp trong tư tưởng khoa học mà tinh thần là sự suy lý? Em xin lỗi hai anh, hai anh sống hơn hai mươi năm trong chủ nghĩa Marx, mặc dầu tâm địa của hai anh nhờ có một nền giáo dục phong phú, mà không đến đỗi quá hẹp hòi, song hai anh bị cái hẹp hòi chung của chủ nghĩa Marx.
Cầu Minh và Cầu Nghiêm thương em, nên không cãi lại lời chỉ trích thẳng thắn của em. Nhưng nét mặt lộ vẻ khó chịu Cầu Chơn thấy vậy, mở thêm:
- Năm nọ, em có đi dự một tiệc thân hữu trong ấy người ta biếu tặng cho người nhập hội số 1000 một món quà. Sau bài diễn văn tràng giang của hội trưởng, và đáp từ của người được tặng quà, thì người này được một cái hộp to. Bèn mở ra, thì trong ấy có một cái hộp thứ hai. Mở hộp thứ hai, lại còn hộp thứ ba... Tư tưởng loài người cũng như thế, hai anh à. Cái hộp lớn ở ngoài là cái tư tưởng đại thể của con người. Mở hộp ra ở trong không có một hộp, mà lại có hai. Tôi muốn nói, thì đại khái có hai thứ tư tưởng.
Cầu Minh hỏi:
- Hai thứ ấy là hai thứ nào?
- Một thứ mà số đông thảy công nhận là cái tư tưởng hợp luận lý (pensée logique). Một thứ khác, chỉ có tối thiểu số biết, một mớ người tin theo thôi, là cái tư tưởng vô luận lý (pensée alogique). Và xin phép hai anh, chúng ta bắt đầu mở hộp thứ nhất.
- Mở hộp đựng cái tư tưởng hợp luận lý, có gì?
- Trong hộp này lại có hai hộp vừa vừa. Một là cái hộp chứa đựng cái tư tưởng triết học (pensée philosophique). Hai là cái hộp chứa đựng cái tư tưởng khoa học (pensée scientifique). Và xin phép hai anh thêm một lần nữa, chúng ta bắt đầu mở cái hộp sau này.
- Trong hộp này lại có gì?
- Thưa hai anh, trong hộp này có hai hộp nhỏ nữa. Hộp thứ nhất chứa đựng cái "khoa học vạn năng chủ nghĩa" (tức là scientisme đó). Còn hộp thứ hai chứa đựng cái tư thái của những nhà khoa học ý thức được sự nhỏ bé của những giá trị khoa học. Và xin lỗi hai anh tư tưởng của hai anh còn nhốt trong hộp thứ nhất. Còn tư tưởng của tôi lại ở vào hộp sau. Hai anh cầm khoa học là vạn năng, cái gì cũng hiểu, cái gì cũng biết, cái gì cũng làm được. Còn tư tưởng của tôi thì khiêm tốn hơn. Tuy tôi tin vào khoa học, nhưng tôi biết giới hạn của khoa học. Tôi là người đi bộ. Tôi tin nơi những bước của tôi bước trên đất vững. Nhưng mà tôi không dám bước chơn mà lội trên mặt nước để lội ngang biển cả, hay làm như Tôn Hành Giả mà cân đấu vân, trừ phi thân tôi bị máy móc ném vào không trung ngay vào quỹ đạo của một vệ tinh chạy vòng chung quanh mặt đất. Tôi ý thức được sự nhỏ bé của khoa học bởi vì tôi là nhà khoa học. Tôi không dám chê tất cả lối tư tưởng khác, không dám chê vì tôi e rằng một ngày kia tôi lại bị khoa học bắt buộc tôi chọn nó.
Cầu Nghiêm hỏi:
- Làm gì mà có việc khoa học bắt buộc tin dị đoan?
- Em xin lỗi anh ba, để em phân tích nốt hình thức tư tưởng của cái hộp scientisme. Mở hộp nầy ra ta lại thấy vô số hộp nhỏ. Xem kỹ lại, mỗi hộp nầy chứa một tư thái trí thức của loài người. Mỗi tư thái sở cậy vào một khoa học và tin rằng với khoa học nầy tất cả vấn đề đều giải quyết xong xuôi cả. Kẻ thì tin chờ mong chánh trị, thì muôn việc thảy an bài. Kẻ thì tin rằng tổ chức kinh tế lại, thì sẽ làm được việc kinh bang tế thế. Người lại tin rằng nhờ giáo dục mà rèn luyện cái trí của con người, hễ dân trí được khai, thì hết lủng ca lủng củng. Người lại bảo phải nhờ tôn giáo. Vân vân và vân vân. Và trong cái hộp nhỏ chứa tư thái chọn biện pháp chánh trị để cứu thế độ dân, thì lại có, trộn trong muôn ngàn chữ nghĩa, như cái chủ nghĩa Marx. Rồi mở cái hộp chủ nghĩa Marx ra, tôi lại thấy năm bảy cái hộp khác nữa. Không vậy, làm sao hiện nay lại có chủ nghĩa Trotsky, chủ nghĩa Staline, chủ nghĩa tân xét lại, và chủ nghĩa của Mao Tử? Hai anh tin vào chủ nghĩa Trotsky, điều ấy tôi không dám trách. Nhưng đem chủ nghĩa Trotsky mà bao trùm tất cả tư tưởng của loài người, ấy là lấy tàn của một cây mà che cả cụm rừng. Tư thái ấy, thưa hai anh, nếu hai anh chưa cầm quyền thì chưa thấy ảnh hưởng ra làm sao. Nhưng một khi, nương thời thế mà nắm lèo lái được, thì em nghĩ rằng tư thái ấy khiến cho hai anh độc tài chẳng kém Mao Trạch Đông ở Tàu và Staline ở Nga đó.
Trước luận điệu đanh thép của nhà khoa học có tinh thần phong khoáng như Cầu Chơn, hai anh chàng thấy dường như không cãi nổi. Cầu Chơn thấy vậy tiếp tục:
- Thưa hai anh, bởi vì có tinh thần phóng khoáng ấy, mà em chẳng khinh một loại tư tưởng nào. Một thị kiến của một thiền giả, một tưởng tượng của một thi bá, một giấc mơ, em chẳng khinh, mà bác bẻ. Em chẳng khinh, mà em cũng chẳng vội tin. Em cố gắng mà lập thành giả thiết để suy nghĩ, để khảo cứu với một tinh thần khoa học phóng khoáng nhưng rất nghiêm khắc.
Cầu Minh vốn cưng em, nên chiều mà hỏi:
- Đâu! Em thử bày tư thái của em đối với lời tiên tri của Gia Cát Lượng, cho hai anh xem.
2- Thưa hai anh, Cầu Chơn nói, em xin nói tư thái của em đối với tất cả những thị kiến nói chung, nhiên hậu em sẽ nói đến tư thái của em đối với các lời tiên tri. Rốt rồi em sẽ nói đến tư thái của em đối với lời tiên tri của Khổng Minh.
Khi bước vào khoa học, công việc đầu tiên của em là xét nét xem những đấng vĩ nhân trong khoa học, từ xưa đến nay, đã làm cách nào để thành vĩ nhân ấy. Thú thật, em đã nhờ một quyển sách tác giả là người Đức, tên là Otzwald, nhan đề là Vĩ Nhân, nó dắt dẫn em nhiều. Trước kia, nước Nhật vốn là nước chậm tiến. Nhưng người lãnh đạo Nhật sớm giác ngộ, thiết lập một kế hoạch giúp cho dân tộc Nhật gia tăng tốc độ, rán làm sao cho chỉ trong thời gian ngắn, mà họ rượt theo kịp các bước tiến. Kế hoạch có thể thay đổi cho khế hợp với thời gian, không gian, nhất là cho khế hợp với nhân sự. Song chung qui việc thành hay bại của một kế hoạch đều do nơi vấn đề cán bộ. Kế hoạch vẽ ra có hay cho đến đâu, mà chẳng có cán bộ thi hành, thảy hóa ra thất bại. Bởi vấn đề cán bộ trọng yếu dường ấy, mà Nhật hoàng đặt vấn đề đào tạo vĩ nhân làm vấn đề nền tảng. Và nhờ bác học Đức là Otzwald trả lời. Quyển Vĩ Nhân là lời đáp của nhà bác học nầy vậy.
Đọc xong, tôi lại đặt vấn đề khác, để nói thêm, để mở rộng, để nâng cao lên vấn đề mà Nhật hoàng đã đặt cho Otzwald. Làm thế nào mà tôi đây, là Cầu Chơn có thể trở nên một vĩ nhân trong khoa học? Tôi thấy vấn đề ấy thực tiễn lắm, nhất là đối với dân tộc ta, từ vua Quang Trung băng hà cho đến nay. Vua Quang Trung vốn là "siêu vĩ nhân" chớ chẳng phải là "siêu nhân" theo quan niệm Nietzche đã sớm về trời, mà từ ấy đến nay chẳng có một vị lãnh đạo dân tộc nào đặt được một vấn đề quan trọng như Nhật hoàng, cốt làm sao cho dân tộc ta có những vĩ nhân để đưa dân tộc tiến lên mau lẹ.
Đứng trong tình cảnh ấy, dân Việt Nam chúng ta, bởi chẳng có một kế hoạch tập thể để đào tạo vĩ nhân, âu là mỗi con dân phải có một biện pháp để tự một mình tập tành làm một vĩ nhân. Do đó mà tôi đặt vấn đề nêu ở trên đó.
Thưa hai anh, tôi thấy rằng muốn thành được một vĩ nhân, việc cốt yếu là tránh việc làm đồ đệ. Nói ra, té ra chỉ trích hai anh nhưng trong thâm tâm của em, em thấy phải nói đến trường hợp của chính hai anh, rồi phân tách bạch ra, hai anh dễ hiểu hơn. Có tâm trạng đồ đệ, ấy là như hai anh; cầm sự phát minh của người là chơn lý tuyệt đối, đạt đến rồi, ấy là sự tiến hóa đã đi hết lối mà đi tới nữa, phải dừng lại đó. Có cái quan điểm như vậy, nên kết luận rằng ta đây không còn chi nữa để làm, khác hơn ta nên học lại của người. Hai anh nhìn nhận rằng, tư tưởng của loài người tiến đến Marx là thôi. Sau Marx không còn gì khác nữa. Rồi hai anh chỉ học của Marx, làm đồ đệ của Marx, cũng như đồ đệ của Khổng không dám vượt Khổng, cũng như đồ đệ của Lão cũng không dám vượt Lão, cũng như đồ đệ của Phật không dám vượt Phật.
Về hành động hai anh quả là hai nhà cách mạng. Hai anh sớm đã hoạt động, ngay hồi lúc thế chiến thứ hai bắt đầu, nay đếm hơn hai mươi lăm năm. Về phương diện hành động, em chẳng có tí gì là cách mạng cả. Tuy em không phải là bảo thủ, vì bảo thủ cũng là hành động rồi; tuy em không bắt chước Lão mà khuyên người vô vi, vì khuyên họ như vậy, ấy là đã "vi" rồi; chính là về phương diện hành động, em đã "vô vi" hơn Lão Tử nửa.
Nhưng mà, nghĩ cho cùng kỳ lý, hành động cách mạng như hai anh, trong thực chất, cũng là hành động bảo thủ. Những kẻ "cựu bảo thủ", là những kẻ bảo thủ một chế độ cũ kỹ, lỗi thời. Còn những người như hai anh, mà em gọi là những "tân bảo thủ", là những kẻ bảo thủ một chế độ mà họ toan xây dựng. Chế độ nầy nằm trong tương lai đấy. Nhưng mà lấy quan điểm khoa học mà nói, tương lai là gì? Tương lai là một cái nọc đóng cứng vào đất, vào lòng sông còn thời gian là dòng nước. Nước cứ chảy. Nọc vẫn ở chỗ cũ. Ta lội theo dòng nước, thấy cây nọc kia ở trước ta, ta cứ gọi nó là tương lai. Nhưng mà ta tiến với dòng nước, thì một lúc kia, ta tiến đến nọc, rồi ta vượt qua cây nọc? Khi mà ta chưa tiến tới cây nọc, ta đề cao, ta ca tụng, ta tranh đấu cho cây nọc ấy, là ta hành động cách mạng. Khi mà vượt qua cây nọc rồi, mà ta vẫn bảo thủ cho cây nọc ấy là ta đã là một bảo thủ. Vậy thì, sánh với thời gian lưu động như dòng nước, mà hành động cho một chế độ cứng rắn, ấy cũng là bảo thủ, nói cho đúng hơn là "tân bảo thủ".
Bởi nhận xét như thế, mà em còn "vô vi" hơn cả Lão Tử. Lão Tử là một kẻ "vô vi" phản động, vì cho rằng hành động không đem đến kết quả hay. Em lại là "vô vi" cách mạng, vì em thấy rằng làm một "tân bảo thủ" ấy là muốn cho dòng nước tiến đến một cây nọc cặm ở xa xa kia rồi ngừng lại không chảy, thái độ ấy phản tiến hóa. Nên em chủ trương để cho nước cứ chảy hãy "vô vi", để cho dòng nước cứ chảy...
Về mặt hành động, em đã "vô vi" đến nhường ấy, mà đứng về phương điện tư tưởng, thì em cách mạng vô cùng. Về phương điện tư tưởng, em thấy rằng làm đồ đệ như hai anh ấy là đóng nọc mà không cho dòng tư tưởng vượt qua cái nọc ấy.
Suốt hai ngàn năm nay, những đồ đệ của Thích Ca, của Khổng, của Lão, của Moïse đã ôm những cây nọc mà giáo chủ họ đã đóng để đánh dấu dòng tư tưởng. Nhưng mà họ ôm những nọc ấy mặc tình cho dòng tư tưởng cứ trôi. Cách đây một trăm năm Marx thấy dòng tư tưởng chảy khá nhiều bèn đóng một cây nọc khác. Thích Ca, Khổng Lão, Marx, về phương diện tư tưởng, là những nhà cách mạng. Những vị ấy đã bỏ những cây nọc cũ, mà vươn theo dòng nước, để đóng những cây nọc đánh dấu rằng dòng tư tưởng, đến lúc nào, đã chảy tới đó. Nhưng đồ đệ của họ, toàn là những người bảo thủ, chẳng có cách mạng chút nào. Dòng nước cuồn cuộn chảy. Họ bám vào nọc không dám buông tay ra mà phiêu lưu lội mãi theo dòng nước. Hai anh là những người bám vào nọc Marx lập thuyết vào năm 1948. Trotsky chết năm 1940. Trotsky là tay cách mạng trong hành động, mà Trotsky ôm chặt vào cây nọc mà Marx đã đóng năm 1848. Còn hai anh, Trotsky và Marx đã chết từ lâu, hai anh khư khư ôm vào cây nọc của Marx. Vì lẽ đó, mà hai anh không thể đặt vấn đề: "Làm sao để trở thành vĩ nhân?". Bởi vì, là đồ đệ, hai anh chỉ quan niệm làm được vấn đề: "Làm sao để cho một đồ đệ thành công?".
3Không biết vì thương hại em, mà Cầu Minh và Cầu Nghiêm không cãi, mặc dầu không đồng ý kiến. Cũng không biết phải chăng, vì không có duyên cớ gì mà mình bị sinh cầm chung với em, mà hai chàng tỉnh ngộ, thấy mình phụng sự cho Mao Trạch Đông là một điều tối vô lý, nên chấp nhận lập luận của Cầu Chơn. Hai anh em ngồi trên bãi cỏ cằn cỗi, nhổ một vài gốc mà ném ra xa. Được tiếp tế toàn bằng lương khô, thiếu sinh tố. Cầu Chơn e rằng lâu ngày chầy tháng rồi tất cả sẽ mắc bịnh thiếu sinh tố, nên chàng vẽ một kế hoạch trồng rau cải. Ở chót núi chỉ có một lớp đất mỏng, chừng hai phân, không đủ cho cỏ đâm rễ, thì Cầu Chơn bày cho cách làm những cái líp nhỏ cạo hốt đất ở khắp cả mà đổ vào líp, cho đất dày được vài tấc. Mấy đứa nhỏ khéo năn nỉ, xin người tiếp tế được một ít hột giống. Bốn yếu tố để cho nhà nông làm việc, bấy lâu nay là, nhứt nước, nhì phân, ba cần, bốn giống, mà ở trong hoàn cảnh đặc biệt này, hóa ra khác hết. Nước thì dư dả, nhờ có mạch nước cung cấp luôn luôn. Phân cũng chẳng thiếu gì. Số người khá đông dùng phân tự nhiên cũng tạm đủ. Về vấn đề cần, thì không đáng lo, vì cả thảy không có việc chi làm khác hơn. Đất để trồng nay đã có rồi. Tối đại vấn đề, là hột giống. Không biết những đứa nhỏ năn nỉ như vậy, mà chuyến bay tới, những người tiếp tế có cho được hột nào không. Tất cả sống trong chờ đợi ấy...
Còn ba bữa nữa mới có chuyến trực thăng khác. Đàn bà và trẻ con thừa để lo việc tấn đá, làm líp, và cạo đất gom hốt lại líp. Ba anh em nhàn rỗi tiếp tục câu chuyện bỏ dở ngày hôm qua. Cầu Chơn nói:
- Hai anh em chắc hẳn đã rút được lời kết luận mà tôi muốn nói. Cách mạng trong hành động chỉ là một thứ "tân bảo thủ". Cách mạng trong tư tưởng mới đích thật là cách mạng. Vì sao? Bởi vì cách mạng trong hành động chỉ là cố gắng để thể hiện một cái huyền ngưng nào đó của tư tưởng, là cố gắng để đóng một cây nọc trên dòng chảy của tư tưởng. Còn cách mạng trong tư tưởng là vượt hoài vượt mãi, chẳng bám vào cây nọc nào.
Hiện nay, Tàu hành động cách mạng nhưng mà chống chủ nghĩa xét lại ấy là Tàu bảo thủ về tư tưởng. Bởi xét lại ấy là có ý muốn tách rời cây nọc. Có tách rời khỏi cây nọc mới hợp với lẽ biến đổi, với lý vô thường. Bám vào nọc, ấy là bám vào thường trụ vậy. Nhưng mà, kẻ rời cây nọc, có thể lội ngược dòng sử, ấy là phản tiến hóa. Tàu không nên phản đối việc xét lại tự thân. Bởi vì có xét lại, mới giúp cho ta thấy rằng bám vào nọc ấy là lỗi thời. Có nên làm, là phản đối lại việc lầm lạc, chống lại sự phản tiến hóa. Hai điều đó khác hẳn. Trai gái lớn lên, cần bay nhảy. Chống đối lại sự bay nhảy của thanh niên là một việc trái tự nhiên. Có nên chống lại, ấy là chống việc chúng hư hỏng, không lo tự lập, mà chỉ mượn cớ có quyền bay nhảy để sa đọa ở hộp đêm, ở phòng trà, để đồi trụy trong những cuộc truy hoan.
Tàu và Nga đứng trên hai bình diện khác nhau. Tàu hành động với sắc thái cách mạng, mà về tư tưởng lại rất bảo thủ. Nga hành động rất là bảo thủ, lại chấp nhận, dầu là e dè sự xét lại. Xét lại, có thể lầm, mà có thể đúng. Phỏng khi xét lại, mà Nga hé thấy được lối đúng, thì em xin hỏi hai anh hậu quả sẽ thế nào?
Cầu Minh hỏi:
- Ý em muốn nói gì?
- Ý em muốn nói rằng hai anh là người hành động, hai anh thấy Nga vạch lối đúng hơn Tàu, hai anh sẽ hành động ra sao?
Thấy hai anh không đáp, Cầu Chơn tiếp:
- Bản thể của thành công là đóng nọc dòng tư tưởng, là huyền ngưng tư tưởng vào một thể hiện nào đó. Bản thể ấy không phải là bản thể cách mạng. Sở dĩ hành động được cho là cách mạng, là khi nào ta muốn cho tư tưởng huyền ngưng vào một thể hiện sẽ có mai sau, mà cái thể hiện nầy bắt buộc phải đúng hơn cái trước. Không vậy, hành động ấy không phải là cách mạng.
Nó là một cuộc phản cách mạng. Lúc nãy, em đặt vấn đề Nga Tàu, không phải là bảo hai anh chọn một trong hai: là Nga và Tàu. Vì em chỉ nêu một giả thuyết để suy tư. Em đã nói rằng em không thích cái tư thái đồ đệ, lẽ nào em lại xúi hai anh chọn một trong hai tượng Bụt (là Nga và Tàu) mà đặt trên bàn thờ, để mà bái bái?
4Hôm nay, không phải chỉ một trực thăng đáp xuống để mà tiếp tế như thường lệ. Từ xa xa, có đến ba chiếc, nối đuôi nhau mà hiện trên vòm trời, rồi hạ xuống nơi khoảng trống. Đám trẻ con reo hò, rối bu lại xem, vì từ các trực thăng, bước xuống mấy người đàn bà, sau lưng các nhân viên quen biết. Anh cán bộ chỉ huy bước vào chùa trao một phong bì cho Cầu Minh, chẳng nói chi cả, rút lui ra mà chỉ huy cho việc đưa thực phẩm tiếp tế.
Cầu Minh bóc phong bì đọc, lúc mà cả thảy trố mắt nhìn:
"Trung ương đảng bộ gởi đến những người có tên sau đây: Đặng Võ Cầu Lệ, Nguyễn Phước Nhâm Ngọ Thu, Trần Phương Nữ, Phương Lan.
"Những người bị an trí, kể cả cũ và mới đương nuôi mộng lấp hố chia rẽ và hận thù, đem tình thương mà thay cho tranh đấu và căm hờn. Điều nầy, trong căn bản, ngược hẳn với chủ nghĩa Marx Lénine. Thì, đối với đảng, hiện nay là đại diện chánh đáng, trung thực và duy nhất của chủ nghĩa Mác Lê, điều nầy đáng tội chết.
"Nhưng xét vì bọn người nầy thông minh tót chúng, nên án tử hình nọ còn huyền lại đó. Đảng hạn định cho một trăm ngày, phải đái công thục tội, dùng cái thông minh của mình mà tìm một kế khả dĩ giúp cho dân tộc Trung Hoa chinh phục được hoàn cầu, một cách chắc chắn, mau lẹ, hữu hiệu, và vạn vạn năm về sau không có dân tộc nào thoát được ách đô hộ của Hán tộc.
"Quá thời hạn một trăm ngày nầy, nếu kế chẳng dâng, nếu kế dâng mà là ngụy kế, thì sự tiếp tế sẽ chấm dứt. Đây là tối hậu mạng lịnh, không hề sửa đổi."
Cầu Minh xem xong, gọi anh em cùng bước ra khỏi chùa mà đón những người mới đến. Chỉ có Cầu Chơn nhìn được vợ con cùng chị gái. Còn Cầu Minh và Cầu Nghiêm xa gia đình từ hơn hai mươi năm, chỉ biết Cầu Lệ khi nàng còn nhỏ xíu, không sao nhìn được. Phương Lan tuy còn ngớ ngẩn, song còn đủ sáng suốt mà nhìn biết chồng, sụt sùi khóc.
Đoàn nhân viên của trực thăng đem vật thực tiếp tế vào chùa xong, sắp hàng đứng chào, rồi bước lên máy bay cất cánh. Những người ở lai cũng vào chùa. Cầu Chơn hỏi:
- Nhờ chị Năm cho biết do đâu mà chị cùng người khác cùng một lượt mà đến đây.
Cầu Lệ đáp:
- Về tôi, tôi không rõ cho lắm. Tôi chỉ biết, một chiều thứ bảy, tôi lái xe lên Biên Hòa để thăm mợ sáu, thì văn phòng của nhà thương cho hay rằng có một chiếc xe của bộ y tế đến, cùng một nhân viên trình giấy xin dẫn xuất mợ sáu đi từ chiều hôm trước. Lên xe, lái trở về, độ vài ba trăm thước thì bị chặn lại, bị bắt cóc, bịt mắt mà đưa lên xe. Đi suốt một đêm, chẳng biết theo phương hướng nào. Đến sáng lội bộ băng rừng hơn ba giờ đồng hồ, tôi lại bị đưa lên một trực thăng. Được mở băng mắt ra, tôi thấy ngồi sẵn tất cả những người hiện có mặt tại đây. Trực thăng cất cánh bay. Thỉnh thoảng hạ xuống giữa những khoảng trống giữa rừng, lấy xăng, thực phẩm cho chúng tôi, rồi bay nữa. Đáp xuống độ mười lần, thì đến đây. Tất cả đều đã sống một ngày tương tợ như vậy. Không có ai hiểu hơn tôi.
Cầu Minh nhìn khắp, để xem có ai nói gì khác. Nhưng thấy tất cả im lặng, nên móc túi lấy cái lịnh lúc nãy mà đọc. Đọc xong chàng nói:
- Tôi dường như hiểu cái nguyên nhân chánh yếu của sự tập trung chúng ta nơi chỗ nầy. Tôi xin trình bày ra đây. Nếu có sai, tôi xin tất cả thành tâm phê phán. Nguyên nhân chánh yếu ngày nay, không có một phương pháp nào khả dĩ chinh phục được cả thế giới, mặc dầu khối chủ trương sự chinh phục ấy đông đến bao. Nhưng mà cùng một lúc, cái ý muốn chinh phục của Hán tộc ngày nay, có lẽ còn mãnh liệt hơn ý muốn của Mông Cổ thời Thành Cát Tư Hãn. Sự nhìn nhận rằng sự chinh phục không còn có thể được, đó là về lý. Còn ý muốn chinh phục lại thuộc về bản năng. Bản năng bao giờ cũng thắng tình cảm. Còn đối lý trí, thì càng dễ dàng hơn nữa. Bản năng đòi hỏi một việc mà lý trí của dân tộc Tàu đáp rằng không thể làm nổi. Các nhà lãnh đạo Tàu không thể tuyên bố điều đó. Vì bản năng của quần chúng sẽ sục sục sôi lên và làm nhào đổ nhóm lãnh đạo ngay. Thế nên, muốn duy trì địa vị, nhóm ấy phải cần ngoại viện, để tiếp tay với họ mà tìm một phương pháp chinh phục thế giới cho hữu hiệu.
Ngọ Thu cười chua chát nói:
- Ngày xưa, Lưu Bị tam cố mao Lư, lần thứ ba gặp Khổng Minh chưa thức, thì đứng vòng tay bên thềm mà chờ người hiền thức dậy. Ngày nay, bắt cóc người ta mà tập trung lại, để ép họ viện trợ. Cái lễ của họ Khổng và cái lễ của độc tài thật khác xa.
Cầu Nghiêm nói:
- Vấn đề ngày nay vượt xa những tiểu tiết về lễ, hay về chi chi cả. Ta nên hỏi: "Dầu biết rằng dân tộc Tàu không thể chinh phục thế giới, mà họ có thể nào dồn ép bản năng mà tránh việc ra quân chăng?"
Phương Nữ lắc đầu. Cầu Lệ nói:
- Việc xảy ra chiến tranh không thể chỉ có cái độc cái nguyên nhân là không thể dồn ép bản năng. Phần nhiều chiến tranh xảy ra chỉ vì trong nội bộ, nhóm lãnh đạo gặp những trở lực lớn lao mà họ giải quyết không kham nên chỉ mong thắng lợi ở ngoài mà lánh những khó khăn ở trong.
Cầu Chơn bàn góp:
- Tôi đồng ý với chị Năm về điểm đó. Dân số nước Tàu nay gần tám trăm triệu. Trình độ kinh tế của Tàu không đủ sức nuôi số dân mà cuối thế kỷ, ai cũng tin rằng đến một tỉ người. Dân dĩ thực vi tiên. Cái ăn đứng trước bản năng, tất nhiên đứng trước luôn tình cảm và lý trí. Một thiểu số có thể hành động bởi động cơ của lý trí. Số đông hơn có thể hành động bởi động cơ của tình cảm. Số đông hơn có thể hành động bởi động cơ của bản năng. Nhưng mà tối đại đa số lấy mục tiêu là sự sống còn.
Ngọ Thu góp:
- Theo tôi nghĩ, phải tìm một phương thức nào không chỉ dựa vào một động cơ trong tất cả động cơ kể trên. Phương thức ấy phải thỏa đáng cho tất cả động cơ, hợp lý, hợp tình, hợp bản năng mà giúp cho dân Tàu tránh vấn đề căn bản là vấn đề đói.
Phương Nữ trào phúng nói:
- Thật là cái tham lam của người quê mùa. Mua thức ăn mà đòi vừa rẻ, vừa ngon, vừa nhiều, vừa tốn ít tiền...
- Vừa cho không...
- Vừa kẻ bán phải quì dâng cho. Và muốn được vậy, chỉ có cách là áp dụng "tài wòng" chủ nghĩa. Dùng cường lực mà hiếp người, bắt người làm nô lệ để phụng sự cho mình. Marx cho rằng chủ nghĩa tư bản cáo chung sẽ nhường chỗ cho xã hội chủ nghĩa. Điều nầy gần năm mươi năm lịch sử đã thí nghiệm. Kết quả của cuộc thí nghiệm là nối theo tư bản chủ nghĩa ấy là tài wòng chủ nghĩa.
Cầu Minh can:
- Các cô hãy bình tĩnh. Cáu không ích lợi gì. Ở đây có ai nghe các cô nguyền rủa đâu? Ví dầu họ có nghe, thì cũng không đem một cứu cánh nào đẹp đẽ. Chúng ta hãy lấy trí mà thắng tình cảm, thắng bản năng, thắng luôn sinh lý nữa.
5Ngồi trên tảng đá mà nhìn trăng, Cầu Lệ ôn lại đời nàng. Nay là năm 1966. Mười lăm năm trước, nàng gặp Tuyết Lê. Nàng đã nhờ Tuyết Lê giác ngộ cho nàng khổ được cái khổ lớn của loài người, cái khổ tập thể của chiến tranh, mà khoa học và kỹ thuật càng phát triển, thì khổ ấy càng to lớn lên vượt qua mọi giới hạn trở thành bao trùm tất cả.
Khổ đuoc cái khổ, nàng cũng hằng suy nghĩ đến nguyên nhân của cái khổ. Nàng thấy rõ nguyên nhân ấy là bản năng tranh đấu loài người. Mà khối người càng đông, lực lượng càng mạnh, thì bản năng tranh đấu ấy biến thành bản năng độc tài đối với người cùng đoàn thể mà khác ý kiến, và bản năng tranh đấu, đối với người ngoài đoàn thể, biến thành bản năng chinh phục.
Làm sao mà diệt được bản năng ấy? Không diệt được bản năng ấy, thì cái mộng đem tình thương mà lấp hố của căm hờn và hận thù, cái mộng ấy chỉ là ảo vọng. Tứ diệu đế của Thích Ca đã nêu ra, thế kỷ XX nầy chỉ đủ sức mà giải đáp chỉ cho hai mà thôi. Tuyết Lê chỉ nghĩ được có kế là treo giải thưởng để khuyến khích sự sưu tầm. Mà mười mấy năm qua, đã có ai xứng đáng mà lãnh giải?
Cầu Lệ đang triền miên trong dòng suy tư ấy, thì có tiếng nhẹ bước đến bên cạnh. Một người đàn bà ngồi xuống. Giây lát sau, nói:
- Chị Năm à!
- Sao, mợ?
- Đảng Cộng Sản Trung Hoa đặt cho ta một bài toán. Em nghĩ chừng em đã tìm được lời giải đáp. Em đến tìm chị. Em nhờ chị xem và phê bình nó ra sao. Một mình chị biết thôi. Nếu chị cho là giải pháp ấy không thực hiện được, thì đành chúng ta chịu chết đói trên chót núi mà không ai leo tới nầy.
- Lời giải đáp của mợ ra sao?
- Xin chị theo em.
Cầu Lệ đứng dậy theo Phương Lan. Đến một chỗ khuất gió, ở vào một kẹt đá. Phương Lan móc túi lấy quẹt, đánh lửa mà đốt một cây nến. Rồi lấy một tài liệu mà đọc.
6Thưa Mao chủ tịch,
Bài toán mà Mao chủ tịch đặt ra cho chúng tôi giải quyết, kể ra, không phải dễ có trăm ngàn giải pháp. Một mặt sự phát triển của khoa học và kỹ thuật đã đến mức mà một cuộc thế chiến ngày nay tất nhiên sẽ là cuộc chiến tranh nguyên tử, hóa học và vi trùng. Một cuộc chiến tranh như thế sẽ dẫn đến sự tận diệt cả loài người. Khi loài người bị tận diệt, thì không còn ai là kẻ thắng người bại, mà chỉ có những xác chết. Và như vậy, không có ai chinh phục được gì cả.
Còn mặt thứ hai, theo học thuyết của Mao chủ tịch, mà chủ tịch cho rằng là đúng với truyền thống của Marx và Lénine, thì lịch sử của loài người là lịch sử của tranh đấu. Mà dân Trung Hoa là số đông, thì cuộc tranh đấu ấy phải dẫn đến cuộc chiến tranh toàn diện mà chủ tịch tin rằng dân tộc Trung Hoa sẽ chinh phục loài người.
Hai mạng đề trên, dầu đứng trên lập trường của luận lý hình thức, hay đứng trên lập trường của biện chứng pháp thảy đều tương phản đến chỗ không dung nhau được.
Chỉ độc có một cách để dung hòa hai mạng đề đó. Ấy là qui định hình thức của chiến tranh. Mấy ngàn năm trước đây, ở xứ Ấn Độ có một ông vua hiếu chiến thích sự sát phạt, không ai cản ngăn khuyên nổi.
Thấy vậy, một lão thần bày ra chước qui định một hình thức cho vua chiến tranh từ sáng đến chiều, trên bàn cờ tướng. Vua mê say cờ tướng, mà thần dân được an ủi lạc nghiệp. Ấy là vị lão thần ấy biết đặt ước lệ mà qui định hình thức của chiến tranh.
Ngày nay, chiến tranh bằng võ khí, thì kỷ nguyên nguyên tử không còn cho phép nữa. Mà bản năng của con người là bản năng hiếu chiến. Vậy, chúng ta noi gương vị lão thần mà qui định hình thức của chiến tranh.
Một cuộc chiến tranh không sát phạt, không giết người, không hủy hoại tài sản vật chất, không làm tiêu ma giá trị tinh thần, mà càng tham chiến thì càng mê say, càng thú vị, càng hào hứng, chớ chẳng phải như những chiến tranh hiện nay chỉ đem lại tang tóc và chán nản.
Hình thức ấy của chiến tranh, vẫn có. Có từ muôn thuở. Mà chúng ta không chịu lập một hội nghị quốc tế để thuận ước với nhau mà thôi.
Vậy chúng tôi yêu cầu Mao chủ tịch đặt lời mời tất cả cường quốc và tiểu quốc lại hợp một cuộc Đại Hội Nghị. Trước Hội Nghị, Mao chủ tịch đọc một diễn từ mà trình bày đầy đủ, cặn kẽ cái lý thuyết mà chúng tôi vừa phác ở trên. Đến phần thực tiễn, Mao chủ tịch đưa ra một cái đề nghị rằng, bắt đầu từ ngày nay, Mao chủ tịch "xét lại" lý thuyết của mình về chiến tranh.
Chúng tôi xin nhắc lại lý thuyết của chủ tịch phân biệt chiến tranh chánh đảng và chiến tranh không chánh đảng. Lý thuyết của chủ tịch nghe thì xuôi, mà đem ra áp dụng, thì quả là ở vùng Đông Nam Á, cuộc chiến tranh mà Mao chủ tịch đang núp sau lưng của tay sai của chủ tịch để khuấy rối, không chánh đáng chút nào cả. Ở Đông Nam Á, chủ tịch đang gầy giống cho một chủ nghĩa tân thực dân mà thôi.
Tự phê như thế xong, chủ tịch đề nghị cho Đại Hội Nghị chấp nhận một hình thức của chiến tranh sau này là chánh đáng mà thôi. Ngoại trừ, không có chiến tranh nào là chánh đáng cả. Chiến tranh chánh đáng chỉ là chiến tranh diễn trong hoa dinh cẩm trận. Võ khí của nó không phải là võ khí nguyên tử, hóa học và vi trùng. Võ khí của nó là tình thương. Chiến tranh trong hoa dinh cẩm trận không tận diệt loài người. Trái lại nó giúp cho loài người sanh sôi nẩy nở thêm lên.
Mao chủ tịch hãy thử nghĩ đến hậu quả của một cuộc chiến tranh trong hình thức của một hoa dinh cẩm trận, nếu Trung Hoa nhân dân của Mao chủ tịch là tiền quân. Mỗi năm, số người đến tuổi hôn nhân ở nước Tàu độ hai mươi triệu. Nếu để chi trai Tàu chiến với gái Tàu, thì nước Tàu không chịu chinh phục gì được cả. Trái lại, Mao chủ tịch ban một đạo luật ngoại hôn (loi exogamique) bắt buộc trai Tàu phải cưới gái chủng tộc ngoài và gái Tàu phải lấy chồng ở chủng tộc ngoài. Chẳng bao lâu, thì năm sau sẽ sanh ra hai chục triệu người lai. Vài năm sau, vài chục triệu người nữa, vân vân, vân vân. Chẳng bao lâu một chủng tộc mới xuất hiện, màu da không vàng, không trắng, không đen nửa. Và một văn minh đích thực tổng hợp sẽ xuất hiện cho loài người.
Nếu văn minh của Tàu là cao hơn hết, điều mà các học giả Tàu tự hào thì trong cái văn minh tổng hợp màu sắc Tàu sẽ bật nổi hơn. Ở xứ chúng tôi, một ngàn năm tuy có đánh ít trận sơ sơ, song chánh yếu là dân tộc Lạc Việt chúng tôi đã chinh phục hai dân tộc Chàm và Cao Miên bằng cái chiến lược "hoa dinh cẩm trận" ấy. Lẽ nào Mao chủ tịch bị ma túy của Tây phương là chủ nghĩa Marx Lénine, mà quên cái chiến lược đã có thành tích từ vạn cổ?
Nếu Mao chủ tịch còn nghi ngờ chi về chiến lược "hoa dinh cẩm trận" nầy, chúng tôi yêu cầu chủ tịch thí nghiệm. Chúng tôi sẵn có ba trinh nữ trong đoàn thể. Chúng tôi quyết định chấp nhận chỉ có cuộc chiến tranh chánh đáng ấy thì ba trinh nữ là Cầu Lệ, Phương Nữ, Ngọ Thu sẵn sàng ra, nói đúng hơn là vào trận, hoặc một trong ba, hoặc cả thảy, tùy theo ý của chủ tịch. Chủ tịch sẽ thấy ngay thành quả.
Đọc xong, Cầu Lệ nói với Phương Lan:
- Mợ điên sao?
- Hẳn phải là điên, cho nên chị mới nhốt em ở Biên Hòa!
HẾT