Phần Thứ Ba - PHƯƠNG LAN
Từ hôm ấy, Phương Lan được nhận ngay vào Dưỡng Trí Viện Biên Hòa. Ban đầu, nàng nói xàm. Cầu Lệ tưởng đâu nhờ bác sĩ Kiệt săn sóc thuốc men ít hôm, thì em dâu sẽ khỏi. Nhưng Lan bớt nói, những điều nàng nói lại càng khó hiểu hơn.
Bác sĩ Kiệt có một phương pháp đặc biệt để nghiên cứu con bịnh của mình. Kể ra cũng hao tốn lắm. Vì đối với một con bịnh, có khi phải dùng thường trực hai ba bác sĩ chuyên môn và ba người điều dưỡng có tập nghề đặc biệt. Ngân sách chính phủ không cho phép áp dụng phương pháp nầy cho bất cứ con bệnh nào. Nên bác sĩ Kiệt chỉ dùng để nghiên cứu một vài con bệnh, với quan điểm hoàn toàn khoa học. Vả lại cũng chưa có bác sĩ nào rèn luyện theo phương pháp để cộng tác.
Đối với Phương Lan, sẵn có sự nghiệp to và Cầu Lệ cố gắng trả bất cứ hao tổn nào, thêm có cả Ulrich, Ngọ Thu, Phương Nữ, Basu và Cầu Lệ tình nguyện, nên bác sĩ Kiệt ráng nghiên cứu tâm bệnh của Phương Lan.
Những cái máy ghi âm gắn trong phòng của nàng, chạy thường trực. Mỗi lời nàng nói được ghi vào băng nhựa theo cái trật tự tự nhiên của nó. Mấy người thư ký đánh máy, dựa theo các băng nhựa ấy, mà đánh tất cả lời nói của Phương Lan, không sót chi cả. Đây là những tài liệu mà bác sĩ Kiệt dùng. Chàng cắt nghĩa cho đám "đồ đệ" tạm thời của mình như sau:
- Theo tâm lý học của nhà Phật, cái thức của ta là một cái kho, chứa những chủng từ, tức là những đơn vị của tâm tư ta. Kho này có ba hiên. Hiên của giác thức. Hiên của tiềm thức. Hiên của vô thức. Luong tri và lương tâm ta là viên quản thủ có một tài tổ chức vô lường. Mỗi chủng tử thì cất vào kho, chỗ nào chỗ nấy phân minh. Khi ta nói chuyện hoặc suy tư, hoặc viết lách, thì vị quản thủ đưa ra những chủng tử theo một hệ thống cũng phân minh. Ta dùng xong, ấy là cho chở về kho như cũ. Kẻ thông minh, người ngu đần, kẻ tầm thường, người thiên tài khác nhau ở vị quản thủ ấy. Người mạnh khác hơn người điên, ấy là do vị quản thủ ấy. Người mạnh là kẻ có một vị quản thủ làm đầy đủ phận sự của mình. Người điên là kẻ mà vị quản thủ nầy, vì một lý do này hay một lý do khác, không làm đúng phận sự mình...
Ông Ulrich hỏi, nhờ Ngọ Thu dịch lại:
- Và phép thiền của nhà Phật có phải chăng là một thứ rèn luyện vị quản thủ ấy chăng?
- Không biết các nhà sư nghĩ sao. Chớ tôi lấy quan điểm của khoa học Tây phương thì tôi cũng nghĩ như ông vậy. Thiền ấy là tập luyện cho vị quản thủ cái Tâm Thức của mình. Do đó mà có các cấp bực trong thiền, các hình thức thiền, các sắc thái thiền. Các chủng tử không phải là những quyển sách bất động, mà quản thủ thơ viện để nằm nơi kho nào, nơi tủ nào, nơi kệ nào là nằm luôn tại đó cho ta lấy. Chủng tử là một thứ "chúng sinh" có sinh, có tử, có bịnh, có lão, có xã hội tính, kết đoàn, chia lũ với nhau... y như xã hội loài người. Và quản thủ Tâm Thức ví như Thượng Đế chúng. Chúng đã có sự sống, kho của Tâm Thức ví như những cái chuồng, thì chúng lại từ cái chuồng mà xuất hiện. Và như ông Ulrich nói, thiền là sự rèn luyện vị quản thủ ấy để điều khiển chủng tử, như ở phường xiếc, người nài điều khiển thú của phường.
Tôi đồng ý. Và khi người nài không làm đúng phận sự, thì thú loạn, vượt các chuồng một cách vô tổ chức. Ấy là chủ nhân điên. Tôi nghe nói có lắm người vì thiền mà điên, ấy bởi vì tập cho thú phá chuồng, chúng loạn quá, quản thủ trị không lại và bị thú nó "đảo chánh". Và đảo chánh rồi, chúng không có ai thay làm vị quản thủ mới.
Bác sĩ Trần Tuấn Kiệt gật đầu đáp:
- Đúng lắm! Đúng lắm! Tôi lại không cho là một cuộc "đảo chánh". Tôi lại cho rằng là một cuộc "đại loạn ly", như cuộc loạn Xuân Thu bên Tàu, mà chẳng có chư hầu nào vươn lên mà làm bá nổi. Chủng tử kết bè, kết đảng, tranh nhau, chống đối nhau, để tranh giành nhau mà "làm bá". Từng bè, từng lũ, tạm làm chủ ta trong vài phút thôi. Ấy là ta nói tiếng nói của bè lũ ấy. Miệng của người điên ví như đài phát thanh mà các lực lượng tương tranh, tranh nhau, chiếm lấy, đọc bản tuyên ngôn của mình, chưa xong lại bị lượng khác đến cướp. Còn kẻ bàng quang như chúng ta đây, như là thính giả ngoại quốc, vặn radio mà nghe đài phát thanh của một nước đang hồi đại loạn. Một lát như thế này. Một lát như thế kia. Chẳng hiểu chi cả.
Ulrich gật đầu khen:
- Lý thuyết của bác sĩ Kiệt sâu sắc lắm. Xin phép để tôi ngoại suy, coi có đúng chăng... Nhưng nếu ta không phải là kẻ nghe radio tầm thường mà chúng ta là một nhóm sử gia chúng ta ghi tất cả lời của đài phát thanh nọ, ta phân tích ra, ta vị loại những mảnh múng loạn xị đó theo hệ thống, thì ta có những bản tuyên ngôn có đầu đuôi của bao nhiêu lực lượng đang tranh đấu nơi xứ xảy ra loạn li nọ.
Bác sĩ Kiệt khiêm tốn nói:
- Tôi giả thiết y như ông. Tôi áp dụng giả thiết ấy mà nghiên cứu trường hợp của Ngê Bá Lí. Cuộc phân tách Tâm Thức của họ Ngê làm cho tôi thấy trong người Ngê, có ba đảng lớn. Một là họ Ngê muốn làm nhà văn. Hai là họ Ngê muốn làm một nhà chính trị. Ba là họ Ngê muốn làm một nhà giáo chủ. Ngay như trong mỗi đảng, lại có bè phái tương tranh, nào muốn làm thơ, nào muốn viết kịch, nào muốn sáng tác tiểu thuyết, nào muốn làm học giả. Khi làm học giả, tìm được một kết luận nào, thì lại muốn làm nhà chính trị, ép buộc thiên hạ phải theo mình. Học giả Ngê, có một mớ ý kiến về lối chính tả, thì lại muốn làm Tần Thỉ Hoàng mà "định xa thơ", ép tất cả người cùng thời phải theo phép lục thơ của Lý Tư thừa tướng đề nghị. Chính trị họ Ngê lại thấy làm chánh trị theo lối cổ điển chậm lắm, muốn sách động quần chúng mau lẹ, thì lập tôn giáo mới, mình làm giáo chủ, thì một lịnh đưa ra, tín đồ ùn ùn vâng theo... họ Ngê sẵn có sự tương tranh, thì một sự kiện nhỏ nào, hoặc buồn vợ, hoặc giận bạn, họ Ngê mất vị quản thủ Tâm Thức mình... ấy là họ Ngê lên đây làm khách của tôi.
Dừng lại, liếc nhìn lại coi có ai hoài nghi, đặt câu hỏi chi thêm, bác sĩ Kiệt mới nói tiếp:
- Bà Phương Lan là một nước đại loạn. Chúng ta là sử gia ngoại quốc, nghe đài phát thanh của bà. Để xem trong cái nước đại loạn ấy có những lực lượng nào... Đó là giai đoạn đầu. Theo phép trị liệu của y học cũng như của Phật học, phải tìm hiểu nguyên nhân, nhiên hậu mới trị liệu được. Những lời của bà Phương Lan ví như đống kiếng bể, do năm bảy miếng kiếng màu vỡ ra và trộn lộn nhau. Trước tiên, ta hãy lựa những miếng cùng màu kế đến ta ráp những mảnh cùng màu ấy để tác lập hình dáng của miếng kiếng... Và phép trị liệu, tôi sẽ trình sau.
2Cầu Lệ tự lái xe, bên cạnh đặt đứa cháu gái là Phương Huệ. Nàng rời khỏi thành phố Biên Hòa, dõi theo con đường đi Trị An. Một ý tưởng thoáng qua trong óc nàng. Cái tên Trị An phải chăng là mục đích của hành trình của nàng. Từ hôm Phương Lan xúc động té xỉu, rồi điên luôn, Cầu Lệ cảm thấy lòng bấn loạn và sắp điên theo đứa em dâu. Thế giới điên, dân tộc trải qua cơn cuồng loạn, gia đình phải cơn bão táp, Phương Lan điên theo cái vũ trụ mất lý trí. Và nàng truyền nhiễm. Những phương thức hữu hình của khoa học không làm sao trị được cuộc cuồng loạn tập thể nầy. Nàng cảm thấy cần tìm ở một cái huyền vi. Kết luận như vậy, song nàng cho rằng các nhà tu bây giờ đã thất truyền, nàng chẳng biết hỏi ai để mà tìm được cách cảm thông với huyền vi ấy.
Nàng nghĩ rằng Phật pháp du nhập vào miền Nam nầy trước nhất trong hình thức Theravada mà hiện nay các ông sãi Miên còn theo. Nhưng suốt hai ngàn năm, chưa nghe nói có vị sãi nào đạt đạo. Vào thế kỷ XV, một hai phái của Bạch Liên Giáo một thứ tổng hợp Bach Liên giáo và thiền tông đến xứ này và dựng ngôi chùa Bửu Sơn mà Cầu Lệ sắp viếng đây. Phái Bửu Sơn nầy sau ra, lại phát xuất một chi ở miền Hậu Giang. Chi này là chi Bửu Sơn Kỳ Hương, đến nay rất phồn thịnh. Chính là chi này đã hun đúc nên làm vị"đại giác" mà lời tiên tri đến nay đã được thể hiện rõ ràng. Vì lẽ ấy mà Cầu Lệ đến viếng chùa Bửu Sơn, với lòng được đại ngộ.
Xe đến chơn đồi. Cầu Lệ đóng cửa xe, một tay xách giỏ trái cây, một tay ẵm Phương Huệ, nàng leo dốc đồi mà lên chùa. Nơi đại điện, khách đến viếng đông đảo. Thiện nam tín nữ nối nhau quỳ lại. Nàng mượn một cái dĩa to, đặt quả vào và bưng để trên bàn mà cúng Phật. Nàng dắt Phương Huệ đến đứng trước bàn mà khấn. Khấn ai? Khấn ai đã phát đại nguyện là sao chấm dứt nạn người giết người?
Năng sực nhớ, hồi nhỏ xíu lúc nàng còn ở Cần Thơ, nàng có nghe sự tích người nọ chẳng chịu tu hành gì cả, gặp Phật Bồ Tát hỏi chàng nguyện gì, mà tuyên bố rằng chỉ nguyện cho người đừng giết người nữa, mà được thành Phật, được mười tám vị Bồ Tát rước về Tây Phương lẫn đứa con còn ẵm trên tay. Nay Cầu Lệ chẳng cầu thành Phật. Nàng thấy nàng khổ. Nàng thấy đứa cháu dại đang khổ vì mất cha, vì mẹ điên, không côi cút mà hơn côi cút. Nàng thấy em dâu đau khổ đến nỗi mất trí, đến nỗi điên. Tất cả anh em trai đều nằm trong nanh vuốt của một chế độ độc tài, phụng sự cho một chế độ mà nàng tin rằng họ không yêu. Nàng thấy cả nhơn loại đau khổ vì sự tương tranh ý thức hệ.
Tương tranh vì ý thức hệ, nàng thấy đó là một sự phi lý. Ý thức hệ là một hệ thống những ý thức về chơn, thiện, mỹ. Thì cái quý của nó phải để cho người ta tùy theo sự thích thú mà chọn lựa. Thật là phi lý mà bắt buộc người khác phải thích thú cái thích thú của mình. Người Việt thích nước mắm hoặc dầu nước mắm hôi, hăng mũi của người ngoại quốc. Người Pháp thích ăn phó mác camembert, mặc dầu phó mác nầy cũng hôi không thua gì nước mắm Phan Thiết. Nhưng dân tộc Việt và dân Pháp dẫn quân đánh nhau để bên nầy ép bên kia dùng nước mắm, để bên kia ép bên nầy ăn camembert, ấy là cả một sự phi lý. Thà nói một cách trắng trợn là giết nhau vì quyền lợi đi, để cho những nhà văn mỉa mai như Anatole France không thể nói những câu như: "Người ta tưởng hy sinh cao vọng té ra đã chết cho những tủ sắt". Mà còn mỉa mai hơn nữa là "người ta tưởng đâu hy sinh cho những tủ sắt của dân tộc mình, té ra người ta chết cho những tủ sắt của người khác".
Phỏng có vị Phật xuất hiện, chấm dứt cuộc phi lý nầy thì bao nhiêu cái khổ tập thể kia tức khắc tan đi. Cầu Lệ không biết gọi đích danh vị Phật nào có thể ban phép lành ấy. Nàng chỉ khấn bông lông vị Phật nào phát đại nguyện diệt được cái khổ tập thể nọ.
Nàng khấn xong mà không lạy. Nàng thấy không lạy là một sự phi lý. Đã cầu nguyện, tất phải hạ mình lạy lục cho ơn trên ban phước lành. Song nàng nghĩ nếu các đấng ấy toàn tri, tất nhiên các đấng ấy phải biết rằng loài người đớn đau quá rồi, chẳng lẽ các đấng còn đợi mình lạy lục họ, họ mới cứu cho? Như thế, sự lạy lục, chẳng hóa ra sự lo lót sao? Nàng phản đối sự lo lót; sự hối lộ trong xã hội loài người cho rằng lo lót và hối lộ trong giới các đấng thiêng liêng càng cần bài xích cho kịch liệt hơn nữa.
Cầu Lệ ẵm Phương Huệ xuống sườn đồi, đặt cháu xuống, dắt nó đi mấy bước thì thình lình một quả đạn bích kích pháo rơi gần đó, nổ một cái rầm. Phương Huệ ré lên khóc. Một mảnh sắt bằng ngòi viết văng trúng vế của Phương Huệ, máu chảy ròng ròng. Năm ba phát đạn khác nổ tứ tung. Tiếng niệm Phật vang dội trong chùa. Cầu Lệ mau lấy khăn siết vết thương của cháu, ẵm nó chạy phăng phăng xuống xe, mở máy chạy cấp tốc về Biên Hòa mà lo rịt bó. Rồi nàng lái xe thẳng lại dưỡng trí viện mà thăm Phương Lan.
3Bác sĩ Kiệt nói:
- Tôi đã nghiên cứu tất cả đồ thị, tất cả mảnh mung của mấy tâm hồn mà sự xung đột và tranh giành đã tạo ra cái điên của bà Phương Lan. Vậy xin lần lượt kể những tâm hồn ấy.
Tâm hồn thứ nhất là tâm hồn chung của loài người, ở vào thời đại nầy, lí trí không chấp nhận được sự phi lí vĩ đại. Loài người bước đến cửa, đến ngưỡng cửa của Hạnh Phúc. Tại sao không chung lo hưởng cái Hạnh Phúc ấy mà cứ đi tìm thế tận diệt cả loài?
Tâm hồn thứ hai là tâm hồn của một dược sư, không phải thứ bán thuốc như bán hàng chạp phô, mà thứ dược sư có chút cao vọng đem sở học của mình mà chống với thần chết. Việc mình lo, là lo cứu từ người một, mà phi lý là người ta chế những võ khí có tài giết một cái là hàng triệu người. Song trong cái phi lý đó, bà Phương Lan thấy thân phận dược sư của mình vô lý quá chừng, công trình của mình vô lý quá chừng. Thế mà tấm lòng nhân của bà nung nấu như ngọn lửa thiêng, bà "chẳng đặng đừng" kề vai vào cái gánh nặng của vô lý.
Tâm hồn thứ ba của bà là tâm hồn của một người vợ. Chồng bà bị ở trong nanh vuốt của Mao Trạch Đông. Bà biết chồng đang nắm một bí mật khoa học. Hễ bà tiết lộ rằng chồng bà biết điều ấy, tức khắc họ Mao sẽ biệt đãi chồng bà, với dụng ý là nắm cái bí mật nọ hầu chinh phục thế giới. Vì thương chồng mà muốn sang Tàu ngay. Song bà nghi ngờ. Nghi ngờ không biết ông Cầu Chơn có tham sống mà tiết lộ cái bí mật khoa học ấy chăng? Hay là lòng Cầu Chơn chia xẻ cái tâm trạng của bao nhiêu nhà bác học, đến bên hố tự sát chung của nhơn loại mà dừng lại không muốn cho Khoa Học cung cấp vũ khí cho Chánh Trị một cách quá dễ dàng khi mà chánh trị chưa có chút tinh thần trách nhiệm.
Phương Lan đang sống trong bao nhiêu cái bấn loạn ấy, lòng dạ đầy ăm ắp những cái đau khổ do bao nhiêu cái phi lý nó dồn dập, thì, một giọt thêm vào, làm cho nước tràn linh láng. Giọt nước đó là nghe nhắc chừng "nước Nam thường có Thánh Tài" rằng "phá điền Thiên Tử giáng trần", thế mà chồng bà, ông Cầu Chơn đáng lẽ được đứng bên cạnh mà làm "tướng thần", làm bậc Y, Chu lại mắc kẹt trong nanh vuốt của Mao Trạch Đông và không biết chừng, vì tham sống mà dâng bí mật khoa học cho Mao Trạch Đông Quỷ Vương của thế kỷ, hành cái tà đạo.
Cái điên của bà Phương Lan phiền phức như vậy. Bao nhiêu thuốc, mà khoa học hiện nay đã chế được, không tài nào làm dịu bớt sự tàn phá của bao nhiêu sự phi lý ấy.
4Người nhà vừa chở Thiệu Đài đến Dưỡng Trí Viện. Vài năm nay, bịnh tình của nhà trí thức nầy tuy rõ ràng lắm, song không đến nỗi trầm trọng đến mức đánh vợ đánh con tàn tệ. Đánh mà tuyên bố to:
- Thà tao đánh bay, cho sướng tay tao! Chớ để cho thằng cha Tổng Chánh Ủy Nguyễn Chí Thanh túm bay được, bắt bay ra đấu tố, hỏi vì sao cái đĩ già nầy lại dám có chồng là thằng Thiệu Đài, thì xác của chúng bay chỉ để cho chúng nó dần nát.
Bác sĩ Kiệt vốn biết Ngê Bá Lí có quen với Thiệu Đài, nên để cho hai bạn cũ, vừa cũng là hai nhà trí thức, cùng ở chung một hiên với nhau. Lệ của Viện không để cho nam nữ ở chung nên bác sĩ cắt đặc biệt một y tá, luôn luôn ở bên cạnh Phương Lan và dắt Phương Lan đến tham gia vào cuộc bàn cãi của ba nhà trí thức điên cái điên của thời đại.
Thiệu Đài gặp Ngê Bá Lí thì lấy làm tương đắc lắm. Chàng nói:
- Lí ơi! Mầy biết vì sao mà vợ con tao cầm tù tao ở đây không? Chỉ vì tao chưởi thiên hạ là dốt hết, chỉ có một mình tao là sáng suốt. Trạng Trình nói "nước Nam thường có Thánh Tài", mà cái đĩ già chẳng chịu nhận tao là "Thành Tài" thì làm sao mà khỏi Nguyễn Chí Thanh đấu tố nó được?
Ngê Bá Lí cười hì hì nói:
- Anh sáng suốt chỗ nào đâu?
- Mầy xem nầy! Câu sấm của Trạng Trình "phá điền Thiên Tử xuất", thiên hạ thảy bàn không ra. Còn tao, tao bắn trúng phóc...
- Khoan! Khoan! Nhà ngươi khoan nói! Để cho ta là Thánh Nhơn đây, ta bàn cho mà nghe. Nhà ngươi viết chữ điền, cái ô vuông dài có nét ngang, nét đứng chia làm bốn cái ô nhỏ. Bây giờ nhà ngươi, nối nét đứng ở phía dưới. Ngươi có chữ giáp. Ấy là năm Giáp Thìn. Năm giáp thìn rồi, ta khởi sự thuyết pháp đó. Bây giờ nhà ngươi nối nét đứng lên phía trên. Chữ điền mà nét đứng ló dưới, ló trên, thì là chữ thân. Ấy là Mậu Thân. Thân dậu niên gian kiến Thái bình. Năm ấy, sự nghiệp của ta sẽ thành. Ta là Thánh Nhơn, ta là Thiên Tử đây, đã "xuất" rồi, thế mà tụi anh em của ta ngu đần, lại trói ta mà cho "nhập" vào đây. Loài người toàn là đám phi lý như vậy, trách sao đời chẳng là một đời phi lý?
Ông Thiệu Đài khóc ba tiếng rồi cười ba tiếng. Viên y tá lấy làm lạ hỏi:
- Ông Thiệu Đài vì duyên cớ nào mà khóc?
- Tao khóc đây, là tao khóc việc thằng Ngê Bá Lí bàn láo, mà dám vỗ ngực xưng mình là Thánh Nhơn? Năm giáp thìn cứ sáu mươi năm trở lại một lần. Năm thân cứ mười hai năm trở lại một lần, chẳng lẽ nào Thiên Tử cứ 12 năm giáng trần một lần, chẳng lẽ nào Thiên Tử cứ sáu mươi năm lại giáng trần một lần? Khóc đó là khóc loài người sao có dốt nhường ấy.
- Còn do duyên cớ nào mà ông Thiệu Đài cười?
- Tao cười đây là tao mừng cho tao đó! Bởi loài người dốt như vậy thì ngôi Thiên Tử dành lại cho tao, Người Sáng Suốt! Để tao bàn cho mầy nghe. Mầy nghe rồi mầy sẽ tin rằng tao là người sáng suốt.
- Vâng, vâng tôi sẵn sàng nghe ông Thiệu Đài một học giả nổi danh là thông thái.
- Nầy, chữ Hán là cả một triết lý, nhốt trong vài nét. Thời xưa loài người chưa biết trồng trọt không ai nghĩ đến việc đất đai là của ai cả. Khi khởi sự biết trồng trọt, cấy lúa, thì phương pháp canh tác giống như là phương pháp làm rẫy ở Cao nguyên. Ấy là đốt một khoảng rừng nào đó, rồi cùng chung gieo hột, chờ có bông lúa, là cùng gặt. Cái đó, nhà xã hội học gọi là "Cộng sản sơ khai" đó...
Ngê Bá Lí nạt to:
- Có im đi không? Ngươi tưởng ta đây dễ tuyên truyền lắm sao, mà ngươi đến nhồi sọ ta bằng cái chủ nghĩa Mác Lê?
- Có im, chính là mầy phải im, mới là ngôn thuận. Tao mới khởi sự, nói ba que xã hội học, mầy chẳng biết chi cả, vội bảo là chủ nghĩa Mác Lê! Đáng lẽ mầy không được đến ở đây. Vì đây là chỗ dành cho bực sáng suốt mà thôi! Mầy có nghe tao giảng, thì im tỉnh đi mà nghe, bằng không, ra ngoài kia mà nhổ cỏ để tao thuyết pháp cho người tân đồ nầy.
- Cái pháp của ngươi là cái pháp của đạo tà! Ta không thèm nghe đâu.
Nói rồi Ngê Bá Lí bỏ ra ngoài bách bộ, tay chấp sau đít, mắt nhìn lên không trung mà ngâm:
Sông Hằng dịu dịu dòng trong vắt,
Cát lắng, nằm yên, sưởi tấm thân!
Vượt núi Mác Lê cười hống hách,
Hoàng, Dương mọp bái chịu xưng thần.
Ta chờ...
... Rồng chín vươn mình dậy,
Lướt gió, tung mây, sáng đạo Nhân.
Gió lặng, mây tan; Trời Đẹp, Ấm
Chim Hồng vỗ cánh: lại là Xuân!
Thiệu Đài nghe Ngê Bá Lí ngâm, đứng dậy, huynh tay, huynh chơn, nói:
- Đám rẫy xưa, nằm trong giữa rừng, đã xuất hiện lúc loài người bán khai, chưa có văn minh, chưa có văn tự. Rồi văn tự bắt đầu xuất hiện. Người Tàu vẽ nó bằng cái ô vuông to, còn cái ô vuông nhỏ là chữ khẩu, nghĩa là cái miệng. Xã hội sơ khai sống chung trong đám rẫy, trong cái ô vuông to. Sự tổ chức ban đầu. Trong nước có người làm chủ. Nhưng người chủ nầy thay mặt cho toàn thể, phải dẹp bớt tư ý của mình, dẹp bản ngã của mình mà hòa mình cùng toàn dân. Vì vậy chữ chủ phải bỏ cái chấm ở trên đầu đi, mà thành chữ vuông. Một xã hội, mà được có vị vương, ấy là cái ô vuông có chữ vương nằm vào giữa, mà thành chữ quốc. Quốc là một cái xã hội có tổ chức kẻ sáng suốt cầm đầu, biết nén cái riêng tư của mình không làm chủ mà chỉ làm vương...
Nói tới đây, Thiệu Đài ngoắt Ngê Bá Lí vào:
- Lí mầy ơi! Vào đây tao giảng cho mà nghe!
- Ta là Thánh Nhơn "bất học tự nhiên tri" chẳng cần nghe ai giảng hết. Ta đã nghe nhà ngươi nói. Để ta nói cho nhà ngươi có chịu ta là Thánh Nhơn chăng?
- Thì mầy nói đi!
- Trong chữ quốc, mà đặt chữ vương vào giữa thì quốc ấy được trị. Dân Tàu ngu, đem chữ hoặc mà thay vào. Hoặc ấy là không định, ấy là lưỡng tự, ấy là do dự, ấy là không phân. Một nước mà chẳng biết chọn dường như thế nào, thì nước ấy bị loạn. Nước Tàu bị loạn, ấy bởi từ khi đem chữ hoặc mà thay cho chữ vương ở giữa cái khuôn.
Thiệu Đài cười hì hì, nói:
- Lí ơi! Mầy học với ai cái khoa đọc tư tưởng của người khác vậy? Tao tính nói điều đó, mầy đọc tư tưởng tao, mầy nói ý của tao, mầy ăn cắp ý của tao. Để tao ra hội Văn Bút mà kiện mầy về tội ăn cắp ý đó.
- Ta chẳng ăn cắp ý của nhà ngươi đâu! Cái ý của ta nói đó, chỉ là cái "ý ngu". Ta còn cả tạng ý như vậy nữa. Nhà ngươi có muốn nghe nữa không?
- Mầy cứ nói. Ví dầu tao không có nghe, thì cũng có khối đứa muốn biết.
- Gần đây, dân Tàu nhập cảng học thuyết của phương Tây, lấy chữ dân mà thay vào chữ học. Ý muốn nói rằng bây giờ đây, làm chủ của nước là dân và chế độ là chế độ của dân. Lầm to! Lầm to!
- Mầy nói cho tao nghe, vì sao mà đem chữ dân thay vào chữ vương hay chữ hoặc là một điều lầm to.
- Mầy có nhớ không? Khi vua Văn Vương bắt người ta mà làm tù, thì vẽ cái vòng dưới đất mà nhốt vào. Vậy cái vòng vuông vừa là tượng trưng cho miếng đất vừa là tượng trưng cho sự nhốt vào. Chữ vương mà nhốt vào nghĩa là ông vua bị nhốt trong khuôn khổ của hiến pháp trong cái đạo làm vua tức là làm cho nước giàu, dân mạnh, ai ai cũng an cư lạc nghiệp, nhà ngủ không đóng cửa, ra đường không lượm của rơi. Viết như vậy, không phải là đề cao quân chủ chế độ. Ngược lại kìa! Viết như vậy ấy là nói rằng ông vua bị nhốt trong khuôn khổ của đạo làm Nghiêu Thuấn.
- Hay! Hay! Thiên hạ bảo Lí mầy điên! Mầy nào có điên? Người ta nhốt mầy vào Dưỡng Trí Viện nầy, đâu phải là để con mầy làm chủ Dưỡng Trí Viện nầy. Làm chủ ấy là bác sĩ giám đốc kìa!
Nhà ngươi thấy chưa, đem chữ dân mà để vào giữa, nào có phải là dân chủ đâu? Ấy là chủ của dân! Ấy là lập chế độ độc tài, nhốt toàn dân vào trong cái "vũ trụ của trại giam" như nhà văn David Rousset đã viết. Mao Trạch Đông đã nhốt bảy trăm triệu dân Tàu vào công xã, đâu phải để bảy trăm triệu dân nầy làm chủ. Làm chủ là Mao Trạch Đông kìa!
Thiệu Đài cười hi hi khen:
- Hay! Hay! Người xưa nói tất cả các đường đều dẫn về La Mã, vì La Mã thời ấy là thủ đô của đế quốc Địa Trung Hải. Bây giờ phải nói rằng, tất cả thánh nhân phải hướng về Dưỡng Trí Viện Biên Hòa. Bởi vì loài người điên hết rồi. Chỉ có bọn mình mới là sáng suốt thôi.
Ngê Bá Lí cười hì hì đáp:
- Mà chúng mình đến hai đứa. Ấy là không phân, ấy là lưỡng lự, ấy là không định, ấy là chữ hoặc đó. Vậy nhà ngươi và ta, ai là Thánh Nhân?
- Phá điền thiên tử xuất! Không có chữ hoặc ở trong. Mà cũng không có nét nào ở trong cả. Phá điền, ấy là đạp nát mấy bờ chia ruộng từng ô đó. Thánh Nhân không phải là mầy mà cũng không phải là ta.
5Nãy giờ Phương Lan ngồi nghe hai nhà trí thức điên cãi nhau, mắt híp lại, như muốn nhập thiền. Khi nghe họ cãi tới đây, người nào người nấy mệt sôi bọt mồm, và dừng lại đề nghỉ hơi, thì nàng từ từ nói, mà mắt vẫn híp.
- Phá điền chẳng những là bỏ hai nét trong chữ điền, tượng trưng cho bờ chia ruộng, chia ruộng thành ô nhỏ, mà còn bỏ quách bốn cái bờ lớn ở ngoài. Bốn cái bờ nầy là tượng trưng cho cái vòng mà vua Văn Vương nhốt tù. Nó tượng trưng cho chế độ trại giam đó.
Thiệu Đài ngồi phịch xuống, có vẻ chán nản và hỏi:
- Bà chị bỏ hai nét ngang và sổ ở trong một, bỏ luôn bốn cái vách thì còn gì là chữ điền. Còn gì chữ quốc?
Ngê Bá Lí cũng góp ý:
- Ở chữ quốc, bỏ chữ vuông, bỏ chữ hoặc, bỏ chữ dân, bỏ luôn cái khuôn ở ngoài, thì đâu còn chữ gì? Bà chị bộ là Bồ Tát sao mà đọc "kinh vô tự".
- Đích vậy! Đích vậy! Hai người giành nhau là Thánh Nhân, cãi mãi, rồi đến kết luận là "Thánh Nhân không phải là mầy, mà cũng không phải là tao". Ta đọc được kinh vô tự. Còn phải là Bồ Tát cùng không, ta không nói trước. Nói trước thì không ai nhận, thì trẽn. Để ta thuyết pháp cho hai ngươi nghe. Nghe xong hai ngươi cho ta là gì, ta sẽ xứng đáng với cái danh hiệu ấy.
Thiệu Đài gọi:
- Ngê Bá Lí ơi! Mầy có chịu vậy không?
Ngê Bá Lí đáp:
- Chịu mà không chịu! Chịu ấy là nhìn nhận rằng bà chị thuyết pháp nghe xuôi rót. Còn không chịu là ta hãy còn chờ xem bà chị hành đạo kìa! Thế giới ngày nay bên miệng hố của tận diệt. Bước sai một bước là sa xuống hố rồi. Thuyết pháp hay để làm gì, nếu ta phải sa xuống hố? Điều cần, là cứu loài người khỏi cái thảm họa của cái tận diệt kìa!
Thiệu Đài cười dòn dã, khoái trá, nói:
- Ngê Bá Lí ơi! Mầy nói được câu đó, tao nghe mát bụng tao lắm. Chức Thánh Nhân tao nhường lại cho mầy đó!
- Ta cũng không cần chức ấy cho ta. Mang chiêu bài Thánh Nhân mà làm gì, khi mình cùng bước với nhân loại vào cái hố thẳm của tận diệt?
Phương Lan nói:
- Xin lỗi nhị vị! Lan nầy không dám nhận chức Bồ Tát. Nên chi phải dùng chút tiểu xảo, cho cả hai vị thoái nhượng cả, bỏ cái ngôi Thánh Nhân trống, để cho Lan nầy ngồi vào... mà thuyết pháp. Bởi vì Bồ Tát là vị Phật đã đắc đạo, nhưng không chịu nhập Niết Bàn, lại phát đại nguyện cứu độ chúng sinh. Vậy Bồ Tát không thuyết mà Hành. Còn Thánh Nhân nhị vị nên chú ý, và căn cứ vào phép chiết tự, là người làm được vương chỉ nhờ biết nghe lời đại chúng mà thôi. Ở trên chữ nhĩ (lỗ tai) nằm cạnh chữ khẩu (miệng của thiên hạ), còn ở dưới là chữ vương.
Thiệu Đài đính chánh:
- Ở dưới không phải là chữ vương, mà là chữ nhiệm. Nhiệm là dựa theo, tùy theo. Nó là chữ sĩ bị phết ở trên đầu, tức là một kẻ sĩ mà hoạt đầu. không chủ trì ý kiến của mình mà lại tùy theo ý kiến của người khác.
Ngê Bá Lí cười mà phê bình:
- Vậy mà cứ rán gân cổ mà cãi chứ! Trong đời, mấy thằng không chấp tư ý của mình, mà làm theo ý đại chúng, thì mới được đại chúng ủng hộ mà tôn lên làm vua của họ chớ! Hạng đó là hạng xuất nô nhập đế. Còn những thằng bướng bỉnh, con vua mà đặng làm vua đi nữa, thì chỉ có thể nhập đế xuất nô. Bởi vậy, mấy con cọp có chữ nhâm trên đầu mới là cọp chúa chớ. Trên lỗ tai nghe miệng của đại chúng nói, rồi làm theo, thì chẳng những được làm vui thôi, mà lại được đời tặng cho là Chúa Thánh nữa.
Phương Lan nói tiếp:
- Nếu Mao Trạch Đông muốn làm Chúa Thánh của thiên hạ, chớ chẳng phải chỉ làm nhà độc tài của chỉ nước Tàu, thì Mao Trạch Động phải biết nghe (chữ nhĩ) lời nói của thiên hạ (chữ khẩu), mà làm theo thì chữ nhiệm được thế nhân xem là chữ vương. Mao Trạch Đông sẽ là Chúa Thánh của thời nguyên tử nầy. Lời của thiên hạ nói cái gì mà cần nên nghe? Thiên hạ chỉ muốn sống. Không một ai muốn chết cả. Đem lại cho nhân loại cái Hòa Bình vĩnh viễn trong khi nhân loại hãi hùng sợ bom nguyên tử, kẻ ấy là Chúa Thánh chứ ai?
Cả hai, Thiệu Đài và Ngê Bá Lí thảy gật đầu. Phương Lan tiếp:
- Nhưng mà, ở đời có những cái nhưng mà, mà mấy chục năm về trước, có những bậc sáng suốt, trông thấy được. Văn minh của Tàu là cái văn minh căn cứ trên văn tự. Hồn của dân tộc Tàu nằm trong văn tự của Tàu. Chữ quốc của Tàu dầu trong ruột là cái chi nằm ở trong, dầu vương, hay hoặc, hay dân, cũng không bỏ cái khuôn ở ngoài. Số phận của dân tộc Tàu là đời đời kiếp kiếp bị nhốt trong khuôn. Mất cái khuôn, là mất tất cả. Còn dân tộc Việt ta...
Ngê Bá Lí vội vã:
- Dân tộc Việt ta thì sao?
- Văn tự cội gốc của ta mất đi. Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ là thứ văn tự nhân tạo. Vì vậy mà muốn tìm tinh túy của văn minh ta, thì tìm trong tiếng nói.
- Ha! Ha! Bà chị nói hay đáo để!
- Tiếng nói ta, gọi "quốc" của Tàu, là "nước". Nước chỉ có thể bị giới hạn, bị nhốt. Song nếu không bị nhốt, thì nước chảy tràn lan, linh láng. Nước lại từ suối từ khe gom lại thành rạch, rạch gom lại thành sông, sông đổ về biển cả. Chỉ có nước mới có thể hình dung một cách trung thực cái quá trình của loài người, từ các bộ lạc nhỏ mà gom về đến cái đích chung là cái "thế giới đại đồng", tứ hải nhất gia, thiên hạ giai huynh đệ. Nhị vị xem trong ngôn ngữ của tất cả thế giới, có tiếng nào như tiếng nước của ta không?
- Bà chị nói được điều đó, quả là Thánh thật.
- Nước lại là căn bản của sự sống. Nơi nào không có nước ấy là đồng khô sa mạc, không cỏ, không cây, không thú, không người. Ai không uống nước, tất mau chết. Gọi cái mà Tàu gọi là Quốc bằng tiếng nước, thật là sâu sắc vô cùng. Không có nước, không sống được. Người Việt mà mất nước, thì lo đao đáo để giành nước lại. Vì vậy mà suốt ngàn năm mất nước, chúng ta giành nước lại được. Đâu có như các dân tộc Mông, Mãn, Hồi, Tạng, bị con trăn Tàu nuốt mà tiêu hóa luôn.
- Hay! Hay!
- Nước cần cho sự sống. Nước lại cần cho sự sạch sẽ và đẹp đẽ. Nàng Hoa hậu, dẫu là tiên giáng phàm, mà không tắm rửa, hôi nồng thúi òm. Chẳng ma nào thèm thứ hôi thối đó! Dùng nước mà tắm rửa xong, thì thơi thới vô cùng. Cá nhân của người Việt xấu xa, mà nhập vào đoàn thể cứu nước, thì ai xem cũng thấy đẹp cả.
Thiệu Đài khen:
- Lời của bà chị phải viết thành thơ, phải phổ nhạc.
Phương Lan cười, nói tiếp:
- Khoan! Khoan! Chưa hết đâu! Thời này là thời nguyên tử. Khi mà than đá sắp đốt hết các mỏ dầu sắp bơm lên xài sạch, tất nhiên, các nhà bác học phải tìm những tinh năng nguyên tử. Chất uranium rồi đây sẽ đốt sạch. Còn lại nguyên liệu hydrogen nằm trong nước, vô cùng vô tận. Nhị vị ơi, nước là cứu tinh! Nước là cứu tinh đấy!
6Bác sĩ Kiệt mời bác sĩ Bái, Hồ, các ký giả ngoại quốc đến dùng một tiệc trà thân mật nơi Dưỡng Trí Viện. Và nói:
- Thưa quý vị, Dưỡng Trí Viện mà tôi gánh nặng điều khiển đây, từ vài năm nay, có rất đông một hạng khách nội trú... Phần đông của hạng khách nầy vốn là nhà trí thức. Nhiều hơn tất cả là sinh viên, cả nam lẫn nữ. Viết báo làm văn như ông Ngê Bá Lí, cũng có. Làm giáo sư đại học như ông Thiệu Đài, cũng có. Làm dược sư, như bà Phương Lan, cũng có. Nhất là từ mấy tháng oanh tạc ngoài Bắc, thì số trí thức mắc phải bịnh loạn óc này tăng lên rất nhiều, quá sự ức đoán của chúng tôi.
Hayashi hỏi, nhờ Phương Nữ dịch lại cho:
- Thưa bác sĩ, chẳng hay bác sĩ có thể tuyên bố cho báo chí Nhật Bổn biết nguyên nhân của sự gia tăng bịnh loạn óc này chăng?
- Được! Cái điên của các nhà trí thức nầy có chung một nguyên nhân, là sự tối phi lý của cuộc đời. Từ hồi nhỏ do giáo dục rèn luyện, nếp sống tư tưởng của họ đã rèn luyện theo cái duy lí, mà luận lý học của nhà trường đã làm cho họ quen. Họ quen với sự hữu lí. Mà họ chạm phải sự phi lí, sự tối phi lý. Vì lẽ ấy mà các tế bào của óc họ bị khuấy trộn, không khác nào dòng nước không chảy xuôi, mà bị xoáy, rút nước chỗ nầy cho dộng lên chỗ kia, mà nước chảy còn một chiều biến động rất lộn xộn. Họ loạn óc, vì đời loạn, họ cảm xúc quá mãnh liệt cái loạn của cuộc đời mà hóa ra loạn óc.
Basu hỏi:
- Khi bác sĩ nghiên cứu kỹ nguyên nhân của cái loạn, cái phi lý của cuộc đời, có lẽ trong cái phúc kết về nguyên nhân của sự phi lý nầy, bác sĩ thấy cái yếu tố nào là nguyên nhân chính yếu chớ?
- Có! Nói ra, có lẽ quý vị nói là tôi đưa ra một lời tuyên bố chánh trị, là tôi làm chánh trị. Nhưng kết luận của tôi không đó động cơ chánh trị. Tôi là nhà khoa học. Hơn nữa, tôi là một bác sĩ. Muốn chữa bệnh, tôi phải giữ cho quả tim của tôi thật nguội, chẳng có chút tình cảm nào nung nấu, dầu là những tình cảm mà tôi thiết tha. Tôi lại phải làm cho trí óc của tôi lạnh và sáng suốt, để tôi nghiên cứu chứng bịnh, để tôi tìm nguyên nhân sâu sa của bịnh, mới mong tìm ra phương thuốc để trị liệu...
Ulrich hỏi:
- Riêng tôi dám nhìn nhận bác sĩ có tinh thần khoa học và vô tư, vô chủ quan ấy. Bác sĩ nên nói cho chúng tôi đây, kẻ được là hạng thức giả của nhân loại. Chẳng hay, đứng về phương diện khoa học, sự phi lý số một, mà các vị nội trú của bác sĩ bị xúc cảm mảnh liệt, là sự phi lý nào?
- Thưa ông Ulrich, vị bác sĩ trước tôi đây, đã làm giám đốc của Dưỡng Trí Viện nầy, và hiện nay, chúng tôi suy tôn là bậc sáng suốt, nên lấy tên của người mà đặt cho Dưỡng Trí Viện nầy, là bác sĩ Nguyễn Văn Hoài, có để mấy mươi năm nghiên cứu, mà viết một tác phẩm, để chứng minh rằng, về phương diện khoa học, ông Führer của nước Đức, là Hitler, là một người điên. Thường nhân chỉ xem đàng ngọn, thấy Hitler muốn đem tám triệu dân Đức để mà chinh phục và đô hộ hai tỉ người của quả địa cầu. Và thường nhân kết luận rằng Hitler điên. Còn bác sĩ Hoài dựa theo lối chẩn (diagnostics) của y học, đã đưa ra những bằng chứng mà không ai bắt bẻ nổi, rằng Hitler là một kẻ loạn óc. Và sự phi lý, là kẻ loạn óc Hitler lại lãnh đạo cho dân tộc Đức là một dân tộc thông minh hơn tất cả các dân tộc, có tinh thần khoa học sâu sắc hơn tất cả các dân tộc, và có những nhà triết học siêu việt hơn tất cả các triết gia của dân tộc khác. Chính cái sự phi lý ấy đã làm cho nước Đức bại trận, dân tộc Đức bị qua phân, thành bốn khu vực, mỗi khu vực bị một quân đội ngoại lai chiếm đóng. Mãi đến bây giờ, hai chục năm sau khi Hitler tự thiêu, nước Đức còn bị chia đôi, chẳng thấy có viễn đồ nào thống nhất lại, ngoài một sự mầu nhiệm.
Ulrich gật đầu:
- Bác sĩ nói rất đúng! Muốn thống nhất nước Đức lại, chỉ có một sự mầu nhiệm mới có thể thành tựu được. Cũng có một thiểu số, tin tưởng rằng, may ra, có lẽ phải nhờ một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba... Nhưng để cho độ vài mươi triệu người Đông Đức và độ sáu mươi triệu người Tây Đức có chung một lãnh thổ lại mà ba tỉ người của nhân loại, phải chịu chết, phải chịu cơn sốt độ năm mươi triệu người thôi, quên cả văn minh, sống trong hang đá, lần lần tìm lại ngôn ngữ, dùng đá cục để ném thú và tự vệ, thú nào bị hạ thì ăn tươi nuốt sống... tôi không biết loài người, có sẵn sàng hi sanh với giá đó cho dân tộc Đức thống nhất lại chăng? Nghĩ tới đó, tôi mới đo được tầm quan trọng của sự điên của Hitler, của sự điên công cộng của dân tộc tôi khi đã suy tôn Hitler lên làm Thánh. Bác sĩ Nguyễn Văn Hoài có lí lắm!
Bác sĩ Kiệt chậm chậm nói tiếp:
- Mà cái bi đát, cái tối phi lý, là sau cái kinh nghiệm của Hitler, lại có người muốn làm Hitler, chỉ sau cái chết của Hitler hai mươi năm. Người ấy quý ngài cũng biết, ấy là Mao Trạch Đông, muốn chinh phục thế giới trong thời đại của nguyên tử. Rất tiếc là tôi kém hơn bác sĩ Nguyễn Văn Hoài, thêm ít tài liệu hơn bác sĩ Nguyễn Văn Hoài. Nên chi tôi không thể viết một quyển sách để chứng minh bằng khoa học, rằng Mao Trạch Đông cũng điên như Hitler. Nhưng vấn đề ám ảnh tôi mãi, mà khoa học của tôi không đủ sức đưa ra lời giải đáp cho tôi; lắm lúc, xin quí vị chớ cười tôi thái quá, lắm lúc tôi lại bị cái mà người ta gọi là cái khoa học thần bí nó quyến rũ. Tôi đành sa ngã, mà theo bè bạn hỏi thăm mấy thầy giỏi về Ma Y thần tướng!
Khách khứa nghe bác sĩ Kiệt thú tội tin dị đoan mà đi hỏi thầy Ma Y thần tướng! thảy đều cười ồ. Họ nói:
- Âu cũng là lối giải trí, một lối thoát, để cho cái phi lý nó đừng làm loạn óc của mình! Tìm trong dị đoan một cái lý để cắt nghĩa cái phi lý, đó là cái khởi điểm chung của các tôn giáo. Làm nhà khoa học mà còn tin giáo điều của tôn giáo, thì tại sao lại cấm bác sĩ Kiệt tìm một lý lẽ phi lý, để cắt nghĩa một cách hữu lý cái phi lý của cuộc đời? Quí vị có đồng tình để cho bác sĩ Kiệt nói thầy tướng đã cắt nghĩa ra làm sao chăng?
- Đồng ý!
- Đồng ý!
- Đồng ý!
Bác sĩ Kiệt nói:
- Tôi đưa bức ảnh cho thầy tướng xem để nhờ thầy giải thích theo Ma Y thần tướng. Thầy cắt nghĩa rằng vai rộng, cổ ngắn, tướng vạm vỡ, ấy là tướng hiếu chiến. Mặt đàn ông mà tròn, ấy là có một cái óc tưởng tượng vô hạn định. Tướng này là tướng của Thành Cát Tư Hãn, nuôi mộng xâm lăng thế giới...
Hồ hỏi:
- Điều cốt yếu là tướng của Mao Trạch Đông có phải là tướng của người điên chăng?
- Có nhiều dấu hiệu. Nhất là cái trán.
Ngừng một chặp, bác sĩ Kiệt cười tủm tỉm nói tiếp:
- Lỡ một lần sa ngã, phạm tội đối với sự mê tín, tôi đã như một người đàn bà trót đã ngoại tình một lần, là thèm khát ăn vụng. Nên có một lần gặp một khách hàng người Khách Trú biết ngày sanh, giờ sanh, tháng đẻ của Mao Trạch Đông, tôi bèn đi hỏi một thầy có tiếng là giỏi về việc chấm số tử vi. Người nầy mù, chẳng biết tôi là ai. Tôi nói láo là số của tôi, thầy bấm tay, nói rằng tôi có cái cách của Vương Mãng, của An Lộc Sơn, "vi tử bất hiếu, vi thần bất trung", thế nào cũng đã soán đoạt ngôi của chúa mình. Mà việc nầy không xảy ra ở đất Việt Nam; thì nhất định tôi cho ngày tháng và giờ sai.
Hồ hỏi:
- Nhưng điều chánh yếu là lá số ấy có cái cách nào người chủ là điên không?
- Ông thầy mù nhất định là tôi cho sai giờ, ngày và tháng. Không vậy, ông đốt sách và nhất định bỏ nghề.
- Rồi sao nữa!
- Muốn tiếp tục với ông mà luận bàn, tôi phải nhượng bộ mà nói rằng lá số ấy không phải là của tôi. Mà tôi chỉ chọn một ngày tháng đặc biệt để thử sức học của ông mà thôi. Ông thầy vui cười nói: "Như vậy mới là có lí chứ!" Rồi ông cắt nghĩa, rằng khi nào có lá số như vậy ấy là điềm hung tin giáng thế, đem lầm than khổ cực, điêu linh cho dân chúng, như hồi thời Vương Mãng soán ngôi, dứt đời Tây Hán. Thì dân Tàu đói khổ, đến cái cảnh người ta ăn thịt nhau kìa... Chừng nào cát tinh đắc địa, thì dân chúng mới an cư lạc nghiệp.
Bác sĩ Bái bàn góp:
- Đây là câu chuyện của lí số. Hình như khoa tử vi là do Trần Đoàn là người tu niên vào đầu đời nhà Tống đặt ra. Từ cuối thời Tây Hán đến đầu nhà Tống, kể cả ngàn năm. Trong khoản ấy, chỉ có Vương Mãng, cha con họ Tào, cha con Tư Mã, Lý Thế Dân, An Lộc Sơn là những kẻ nuôi dạ lật chế độ cũ để mà lập triều đại khác. Có chắc chi là những vị ấy có lá số tử vi giống nhau; để mà hậu thế kết luận rằng lá số như thế nào là lá số của hung tin giáng thế. Nhưng đó là một vấn đề. Còn vấn đề thứ hai là ai cũng tự hỏi là số phận của Mao Trạch Đông có được như số phận của Staline, đậy nắp quan tài xong ba năm sau mới nếm mùi thất bại. Hay là, số phận của Napoléon, còn sống thừa trong cảnh tù đày. Hay là số phận của Hitler, thấy nước khuynh nguy, mà phải tự thiêu, để khỏi bị bắt và bị hành hạ?
Bác sĩ Kiệt đáp:
- Đi xem thầy số, thì tôi đi vậy nhưng tôi không tin. Không tin mà làm. Làm mà không tin. Phi lý thật. Tôi có đọc một cuốn điều tra của một nhà xã hội học về việc dân chúng xem bói. Xem bói không còn là một vấn đề tin tưởng nữa. Xem bói là một việc không tin tưởng. Người ta xem bói không tin nơi lý trí, mới tìm dị đoan mà hỏi. Cũng như người đàn bà chán chồng mà ngoại tình nhưng chưa ắt là thích tình hơn. Họ đi xem bói ấy là họ hỏi các vị thần mà tôn giáo của họ cấm phụng thờ... Phi lý thật. Tôi cảm thấy rồi đây tôi cũng vào cái Dưỡng Trí Viện mà tôi đang điều khiển.
Cầu Lệ cung kính thưa:
- Thưa bác sĩ, cái điên của Hitler và cái điên của Mao Trạch Đông có phải là do cùng một nguyên nhân không?
- Cô nói rất đúng. Hai người tuy khác chủng tộc, khác ngôn ngữ, khác văn minh, song nguồn gốc của cái điên của họ đều do chung một cái phức cảm. Phức cảm này do những bản năng sau đây cấu tạo. Một là bản năng tranh đấu. Hai là cái mà Nietzche gọi là cái ý muốn hùng cường. Ba là cái bản năng chế ngự kẻ khác. Tất cả cái nầy xui cho người ta mắc bịnh, đối với dân trong nước là muốn làm nhà độc tài, đối với dân tộc khác là muốn làm kẻ chinh phục. Kẻ mắc bịnh ví như kẻ khát mà uống nước muối càng uống ực ực vào càng khát thêm.
- Thưa bác sĩ, chứng nầy dễ trị chăng? Tôi xin chữa câu hỏi tôi lại. Chứng nầy có thể trị chăng?
- Thưa cô, cô đặt một vấn đề, xem là thường, song là tối đại vấn đề của khoa dưỡng trí của y học. Cái phức cảm nầy ai cũng có, hoặc ít hoặc nhiều. Một đàn ông làm oai với vợ, đã lộ thấy phức cảm đó. Một đàn bà muốn xỏ mũi chồng, ấy là do phức cảm đó. Phức cảm nầy chỉ có cái giới hạn tự nhiên, là cái tài của bịnh nhơn. Kẻ bất tài chỉ cho cái phức cảm nầy hành với con, với vợ. Vào một đoàn thể, anh lãnh tụ cho cái phức cảm nầy hành với đảng viên. Làm được thủ lãnh của một nước, thì phức cảm nầy hành với dân trong nước... Nhưng phức cảm nầy kỳ quái lắm. Phức cảm nầy là thứ phức cảm "được voi đòi tiên". Kẻ thành công ở địa hạt nhỏ của mình, muốn khoáng trương phạm vi ra. Hitler lấy chánh quyền ở Đức được, thì muốn chinh phục thế giới. Staline nắm được tình thế ở Nga, lại muốn làm chủ thiên hạ. Mao Trạch Đông kềm chế được 700 triệu dân Tàu, lại muốn cầm cương ba tỉ loài người. Đứng về phương diện khoa học, phức cảm nầy là cơn bịnh chung của loài người. Bởi nó là bịnh chứng, nên không ai kể nó là một cái bịnh. Không khác nào đồng bào Thượng ta, ai cũng có vi trùng rét trong mình nên chẳng cho rằng mình có rét. Và chỉ nhận rằng làm cữ mới là có bình rét mà thôi. Những kẻ cho phức cảm của mình nở to lên, mà mỗi bước đều thành công, thì thiên hạ vỗ tay cho là thiên tài. Chừng đùng một cái, thất bại đổ vỡ, người ta mới cho là điên.
- Thưa bác sĩ, lắm khi khách quan đã nhìn thấy sự điên của họ trước khi họ thất bại...
- Phải lắm! Đúng lắm! Nhưng mà lúc khách quan nhìn thấy ấy là lúc họ đến gần bên hố của thất bại rồi. Khi Hitler vừa lên chánh quyền, hầu hết (kể cả kẻ nghịch của Hitler) đều cho rằng Hitler là thiên tài. Khi Mao Trạch Đông mới nắm chánh quyền, hầu hết (kể cả kẻ nghịch của Mao Trạch Đông) đều cho rằng Mao Trạch Đông là "chơn mạng đế vương" và tướng tin là "con rồng đỏ". Khi ấy thiên hạ xem là thiên tài, bu nhau mà ca tụng, mà nịnh nọt. Có ai âu lo nghĩ cách trị bịnh điên của họ đâu? Ngô Đình Diệm leo lên chánh quyền, thì hầu hết sụp quì mà ca tụng "Ngô Tổng Thống anh minh" và xin thượng đế ban phước lành cho người, để cho người sống miên trường! Suốt mấy ngàn năm nào có ai nghĩ cách nào trị bịnh ấy, để rút kinh nghiệm mà kết luận rằng có thể trị được, hay không có thể trị được?
- Bác sĩ dựa vào khoa học và nghệ thuật của bác sĩ, bác sĩ có thể nào ước chừng có thể trị chứng ấy chăng?
- Thưa cô, trong đời tôi đã hai lượt, tôi toan làm việc ấy. Lần thứ nhất, tôi cố gắng, cúi lòn, mọp lụy, nịnh nọt, để làm y sĩ đặc biệt của Hồ Chí Minh. Tôi vừa muốn đem phương pháp của tôi ra mà áp dụng, thì lịch sử không cho phép.
- Tôi chưa hiểu bác sĩ muốn nói gì?
- Phép trị bịnh mà tôi nghĩ ra, nhưng chưa thí nghiệm, có thể ví như phép trị thủy của vua Vỏ. Nước từ trên cao đổ xuống không thể ngăn được. Ngăn nó, nó phải tràn, hay nó làm vỡ bờ. Chỉ có cách khai nó, hướng dẫn nó theo cái hướng mình muốn, đến cái chỗ mình nhắm. Hồ Chí Minh có cái phức cảm muốn làm vĩ nhân, không làm sao ngăn nổi cái ý muốn đó. Chỉ có cách là khơi ngòi cho cái phức cảm ấy dẫn y đến chỗ nhắm của ta là dân tộc. Tôi vừa toan làm việc ấy, thì bỗng nhiên Mao Trạch Đông leo lên chánh quyền ở Tàu, đốt lửa tham vọng chánh trị trong lòng họ Hồ, làm cho hắn càng mê say Cộng Sản hơn... Trước đó, hắn chỉ muốn làm thủ lãnh của dân tộc Việt Nam. Bây giờ hắn lại nuôi cái mộng làm thủ lãnh của cái khối Cộng Sản Hoa và Việt.
- Làm sao mà nuôi mộng ấy được?
- Bởi vì vào những năm 1925, Hồ Chí Minh mang tên là Lý Thụy, ở trong ban tham mưu của Borodine do Nga gởi qua để chỉ huy đảng Cộng Tàu, thì Mao Trạch Đông đã do Hồ Chí Minh điều khiển. Sau nữa Nguyễn Ái Quốc ở trong Đông Phương bộ của Quốc Tế Cộng Sản, thì cũng chỉ huy Mao Trạch Đông. Nên khi Mao Trạch Đông nắm được chánh quyền ở Tàu, thì trong lòng của Hồ Chí Minh thấy rằng 600 triệu dân Tàu Cộng Sản ở trong tay mình nắm rồi. Vì cái ảo vọng đó, mà tôi làm sao hướng Hồ Chí Minh về đường lối dân tộc được?
- Ảo vọng! Sáu trăm triệu dân Tàu là ở trong tay Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông khi xưa chưa nắm chút quyền, thấy Lý Thụy thì khiếp. Nay làm vua một nước lớn há chịu tùng phục kẻ yếu hơn mình sao?
Bác sĩ Kiệt cười chậm rãi nói:
- Ảo vọng! Danh từ ấy quả là đúng. Người điên nào có sống bằng thực tế. Người điên chỉ sống bằng ảo giác mà thôi. Người điên chỉ tin vào ảo giác mà thôi. Napoléon có ảo vọng làm hoàng đế của Âu Châu, nên nào có thấy rằng không thể lấy sức của quân đội mà chống với tuyết giá của nước Nga minh mông? Hitler có ảo vọng chinh phục thế giới, nên nào có thấy rằng một mình dân tộc Đức làm sao có thể đương đầu cả cái khối Anh Mỹ Nga liên kết với tuyết giá của nước Nga? Cũng như Mao Trạch Đông bấy giờ có ảo vọng làm Tần Thủy Hoàng của thế kỷ XX, nên nào có thấy rằng 700 triệu dân Tàu bụng đói áo khâu làm sao mà chống nổi với lực lượng của tất cả cường quốc hiệp lại?
- Bác sĩ nói như vậy, có phải quên rằng nước Pháp bắt tay với Tàu chăng?
- Tôi muốn thấy điều đó, cũng như muôn triệu người đều thấy. Làm sao mà quên cho được? Pháp bắt tay với Tàu, mà đến lúc choảng nhau, Pháp có đứng bên phe Tàu chăng? Đó là vấn đề. Chớ cô ơi! Nước Pháp nghèo. Bị Đức chiếm đóng gần năm năm. Pháp đã yếu. Pháp chịu chiến tranh ở Việt Nam chín năm. Pháp chịu chiến tranh ở Algérie ngót mấy năm, thì cô nên dung cho Pháp có vài ngón tiểu xảo để bán hàng hóa cho 700 triệu khách hàng trong khi các nước khác đều tẩy chay. Bây giờ cô cho phép tôi trở về với những cái ảo vọng. Về phương diện y học, người điên là người sống thực sự với cái ảo vọng. Kẻ không điên thấy rõ thực tế mà vẫn còn hoài nghi đắn đo. Người điên trông ảo vọng và tin ngay, mê say, sống thực với ảo vọng ấy. Mao Trạch Đông đang ở dưới tay của Kroutchev có thực quyền mà còn đá giò lái Kroutchev. Thế mà tin rằng Mao Trạch Đông sẽ ngoan ngoãn tin mình. Ấy là ảo vọng! Thì tôi làm sao mà lái Hồ Chí Minh nổi nữa. Tôi đành rời họ Hồ mà đi tìm lối khác.
- Có phải bác sĩ lại đuổi theo một ảo vọng nữa không?
- Bây giờ, thất bại rồi phân tách rõ ra, hẳn là một ảo vọng. Ảo vọng của tôi là mong cải hóa một người là Ngô Đình Diệm, mà báo chí ngoại quốc thổi phòng lên làm vĩ nhân nên cái điên càng lậm.
7Sau tuần trà bánh. Cầu Lệ trịnh trọng nói:
- Thưa ba, thưa thầy, thưa quí vị. Tôi đã nhờ bác sĩ Kiệt tổ chức buổi tiệc trà này, gọi là tiệc trà thân mật. Kỳ thiệt là tôi nhờ bác sĩ xem bịnh cho tôi. Nếu tôi không lầm thì mấy năm nay tôi sống bằng ảo vọng. Cái ảo vọng này đó chị Tuyết Lệ gieo trong lòng. Là có thể tìm được phương thuốc mà trị những chứng điên vĩ đại, những chứng điên của Napoléon, của Mussolini, của Hitler, của Staline, của Mao Trạch Đông, những chứng điên mà khi cơn nó hành hạ thì chẳng những người đau chịu hành hạ, mà loài người, từ triệu này đến triệu kia bị chết một cách vô lý. Bởi có cái ảo vọng đó, mà tôi tự đem mình mà treo giải, thưởng ai được phương thuốc cứu được nhân loại khỏi những tai hại của chứng điên vĩ đại. Nói không phải để chỉ trích, mà để nhìn nhận thực chất. Giải thưởng Nobel chỉ là món tiền nhỏ xíu đối với sự nghiệp khổng lồ của nhà hóa học. Còn chúng tôi đem tất cả cái gì của chúng tôi có, trọn vẹn, chẳng chừa một chút nào, để treo lên làm giải thưởng. Giá trị tuyệt đối và khách quan của giải thưởng chúng tôi kể chẳng là bao, có khi không ai thèm nhận. Nhưng giá trị tương đối và chủ quan, thì đối với chúng tôi, là tất cả, là vô biên. Các vị Bồ Tát phát nguyện ở lại cõi trần để cứu độ chúng sinh, tưởng đâu như vậy là hy sinh to. Nhưng đối với tôi, thật là mọi sự sung sướng vô biên, sự sung sướng của kẻ dấn thân mà làm việc phải, việc có nghĩa. Phỏng tôi có phép mầu của các vị Bồ Tát, phỏng tôi cứu đời được, tôi nào có chờ ai nguyện cầu hòa bình năm này tới tháng nọ? Tôi đã lập thái bình trên cõi thế, cho mọi người yên vui từ lâu lắm rồi...
Basu thấy nàng cảm động mà dừng vì nghẹn lời, nên hỏi mớm:
- Thích Ca là người nước tôi nên tôi mạn phép cô mà hỏi rõ. Cô nói như vậy, phải chăng là cô không tin đạo Phật?
- Thưa ông Basu, xin ông cho phép tôi đáp lại với ông rằng chẳng những tôi mất trọn tin vào đạo Phật, mà tôi cũng mất luôn tin tưởng vào bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng mất luôn đức tin vào khoa học nốt. Bản thể của khoa học là làm sao mà mỗi lượt có một phát minh mới, thì kỹ thuật đem ra áp dụng để hại người gấp năm mười lần để mưu đồ hạnh phúc cho loài người. Tôi mất trọn cái đức tin tự thân từ lâu rồi.
Ulrich nói:
- Sở dĩ kỹ thuật phụng sự cho lẽ tà nhiều hơn cho lẽ chánh như vậy, ấy là tại nơi người, chớ không phải tại nơi kỹ thuật.
- Vì lẽ ấy mà tôi mất luôn đức tin vào khoa học. Tại sao khoa học không tập trung tất cả ý chí mình để cải thiện con người? Điều đó tại bản chất của loài người ư? Thì ai là kẻ chịu trách nhiệm về sự có cái bản chất ấy. Thượng Đế tạo ra loài người, nên chịu cả trách nhiệm ấy à? Tôi hỏi tại sao khi Thượng Đế tạo ra võ trụ, thì Thượng Đế tạo ra làm chi thằng Lucifer để phá hoại lại mình, mà hại loài người? Chính thằng Lucifer nầy đã làm cho danh của Chúa không được rạng, thì tôi cầu nguyện cho danh Chúa được rạng mà làm chi? Tôi không bứng rễ, thì làm sao mà ngăn cỏ đừng mọc được? Tôi chỉ cầu nguyện có một điều, là đừng có Lucifer, đừng có nguyên nhân của tội ác. Tất nhiên điều lành sẽ có và có mãi mãi... Chúa đã sáng tạo ra Lucifer, tại sao khoa học không giết Lucifer, mà cứ theo trợ lực cho Chúa mà làm cho Lucifer càng ngày càng tăng cái tri cái năng của nó?
Hayashi xen vào:
- Trẻ con ở phương Đông, khi bước vào nhà trường, đã học câu "nhân chi sơ, tánh bản thiện..."
- Điều ấy, thiên hạ đều cho rằng không có. Huyền thoại của Tây phương cho rằng loài người khởi sự bằng ông Caïn giết em ruột của mình là Abel...
- Nhưng mà Đông phương không có một huyền thoại như vậy.
- Điều ấy, tôi dốt, tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng huyền thoại của xứ tôi nói rằng ông Lac Long Quân lấy bà Âu Cơ mà đẻ ra một cái bọc một trăm trứng. Trứng nở ra, thành một bầy anh em một trăm người. Sau đó, vợ bất hòa; mẹ dẫn năm mươi con lên núi; cha dẫn năm mươi con mà xuống bể.
- Nhưng mà hai bầy con ấy có cư xử với nhau như Caïn đối với Abel không?
- Họ có đối xử với nhau làm sao, thì trong huyền thoại, có tác tệ cho đến đâu, thì cũng chỉ trong tưởng tượng. Còn trong thực sự, dân tộc Việt chúng tôi một lượt đã chia đôi rồi. Phải chi họ có theo mẹ, theo cha thì cũng vì tình, t