← Quay lại trang sách

- 2 -

LÚC BẤY GIỜ MINH MỚI ĐỘ BẨY, TÁM TUỔI. Chiến tranh đã có từ lâu, nhưng không ảnh hưởng gì mấy đến miền “sông cùng núi Sậu” – Làng Nhuệ – nơi gia đình Minh ở. Một khu làng nhỏ, nghèo nàn và ở vào địa thế sông chẩy đến chỗ tận cùng và cả đến núi cũng cằn khô, cây không muốn mọc (sông cùng núi sậu). Tuy nhiên, giữa những ngôi nhà gỗ, nhà tranh nghèo nàn ấy, có một khu nhà cổ, theo kiểu nhà ngói cây mít biểu hiện của quyền thế và giầu có trong làng. Gia tộc Minh quây quần trong khu đó. Những uy quyền lặng lẽ và tuyệt đối, tự bao giờ, khiến người dân làng vì nể, kính trọng mà không sợ hãi hay oán hận. Minh không còn nhớ rõ, nhưng hình như tài sản gia tộc chàng là cả trăm mẫu đất, ruộng vườn, ao cá. Hoa lợi là lúa, ngô, cây trái và những thứ khác do sự đổi chác trên khu chợ Bến bên sông.

Ngôi nhà Minh ở xây lên từ đời ông Nội hay trước nữa. Nhà ngói ba gian, cột gỗ lim to cả nửa vòng tay, xây trên nền cao chín bậc thềm. Hai bên dẫy bậc thềm dài hút, hai con rồng uốn khúc, nhe nanh. Minh có một hình ảnh để so sánh, sau này khi lớn lên: nét kiến trúc ngôi nhà chàng ở giống như nét kiến trúc của Đền Kỷ Niệm trong Thảo Cầm Viên Sàigòn. Trên mái ngói đỏ uốn cong, cũng có đôi rồng nhỏ vờn mặt nguyệt.

Nhà ba gian, gian giữa kê một cái sập Gụ, tủ chè khảm xà cừ lộng lẫy, và bộ bàn ghế tiếp khách nghe nói bằng gỗ Tek. Gian bên trái, từ ngoài bước vào, là phòng ngủ của Mợ, và của Minh từ khi mợ mất. Chính căn buồng này đã ghi dấu nhiều kỷ niệm khó phai mờ tuổi ấu thơ của Minh, và vĩnh viễn Minh không thể nào quên được. Cũng như cả một chuỗi dài dằng dặc những kỷ niệm vui buồn tuổi nhỏ, Minh vẫn còn nhớ thật sắc nét, thật đậm đà. Từ những lần theo Thầy đi gánh nước ở sông – xa hàng cây số – về nhà mỗi buổi chiều Đông nhá nhem tối mưa phùn gió bấc lạnh cắt thịt do chui trong chăn ăn ngô rang thật nóng. Minh thích nhất những hình ảnh đó. Vì đi gánh nước ở sông Minh thường gặp lũ mục đồng lùa trâu lội ngang giòng nước. Những đứa trẻ ngồi ngất ngưởng trên lưng con vật đen xì lùi lũi qua sông, tiếng gọi “ nghé ơ… nghé ơ” nghe buồn cam phận vang vang trong gió chiều lồng lộng loang tít về xa. Vì những ngày Đông dài rét mướt, mưa phùn che kín rặng soan bên chái gianh nhà bếp trông ảm đạm đến mủi lòng – nhất là từ khi Mợ và em Đạm nối tiếp qua đời, nhưng nằm trong chăn, ăn ngô nóng, nghe chị Ánh kể chuyện thần tiên “ Cô Nhất cô Nhị cô Tam” hay “ Cô bé quàng khăn đỏ” hoặc “ Cây vàng cây bạc” thì thật tuyệt!

Thời gian đó khuôn mặt của chiến tranh có hiện đến một đôi lần, nhưng mơ hồ và mờ nhạt. Mươi phát súng vu vơ, một tiếng moọc chê lạc lõng. Rồi lại êm ả, và tuổi nhỏ không cho Minh thấy nổi những ưu tư của người lớn. Ăn uống vẫn đầy đủ, vả lại ở nhà quê những nhu cầu cần thiết không bao nhiêu đối với mọi người.

Nhà chú Giáo cách nhà Minh một cái sân thật dài. Thầy Minh trồng trong sân ba cây nhãn lấy giống Hưng Yên có tiếng là ngon, hạt nhỏ cùi dầy và ngọt như đường. Mấy chục cây na sai quả và cây bưởi già mang nhiều huyền thoại. Mỗi năm đến mùa đơm hoa kết trái, hoa bưởi trắng rụng đầy gốc và Minh thường nhặt đưa lên mũi ngửi. Mùi thơm êm ái khiến Minh ngất ngây.

Chiều chiều, mùa Hạ, Minh thích nhất là đứng tựa lưng rồng, ngắm anh Thăng ngồi thổi sáo trên sân thượng nhà chú Giáo. Dẫy nhà ngang dài mút mắt, kiến trúc theo lối tỉnh. Thật lạ, ở xó nhà quê mà kiến trúc những ngôi nhà ấy cũng tân kỳ, không thua gì dinh ông Phủ, hay ông Thượng Thư trong họ mà Minh đã ở thời gian chạy loạn sau này. Có cả bồn sứ rửa mặt, có cả mành sáo kéo dây. Sáng sáng chú Giáo ra chăm chút gốc Ngọc Lan sau nhà như chăm con mọn.

Anh Thăng cất công leo lên sân thượng ngồi thổi sáo. Anh bảo ngồi ở đó mới cảm thấy mình thanh thản, mới thấy mình buồn và… thổi sáo mới hay. Minh không hiểu nổi tại sao anh Thăng thích tìm tòi các loại thuốc nổ đem về cho vào ống nhôm và làm ngòi cho nổ. Tính anh thích tìm tòi lục lọi, và bí mật.

Nhưng Minh thích tiếng sáo của anh Thăng. Tiếng sáo buồn, khi trầm như than thở, có khi lại vút cao. Dáng dấp anh ngồi thật câm nín, chiếc ống sáo nằm ngang môi anh, lỏng lẻo. Hình ảnh đó, âm thanh đó nhắc nhở lại những ngày mợ ốm, lúc Minh chưa đầy bốn tuổi. Và Mợ mất đi, rồi em Đạm thiếu người chăm chút cũng bỏ đi vĩnh viễn sau đó một năm. Sau này khi lớn lên, cứ nghĩ tới mẹ, tới em Đạm là Minh mủi lòng muốn khóc.

Đêm hôm đó Mợ nằm dài trên võng, trong buồng. Mợ ốm từ lâu, thiếu thuốc men nên bệnh càng ngày càng nặng. Mợ nằm thiêm thiếp, mái tóc dài xõa ra, rủ lòa xòa xuống nền gạch. Mái tóc dài và đẹp, dài đến tận đầu gối mà mợ chăm chút cả đời. Minh chập choạng đi vào, lặng lẽ ngồi trên chiếc ghế thấp đầu võng trong bóng tối, nắm những sợi võng đứt, đu đưa. Đến bây giờ Minh vẫn không hiểu vì sao đã có được hành động ấy, và ở phút giây nào. Và sự mầu nhiệm nào đã khiến Minh nhớ được câu chuyện ấy. Đến độ bây giờ, cứ mỗi lần kể lại cho chị Thục, chị Ánh nghe, ai cũng sợ Minh có óc nhớ dai, nhớ sớm. Và bảo là Minh có khối óc thông minh. Minh thì chẳng biết là mình có thông minh không, vì cứ nghe chị Thu – người chị họ – kể lại thì Minh thuở nhỏ chẳng nhanh nhẹn gì lắm. Chị Thu kể cho Minh và các con chị nghe mỗi lần Minh đến chơi: “ngày còn nhỏ chú Minh cứ bám lấy Mẹ suốt ngày, rớt rãi tèm lem trên vai Mẹ chứ đâu được như bây giờ. Lúc ấy bà đau nặng. Nhà thiếu người làm lụng. Mỗi sáng sớm Mẹ cắp rổ ra vườn với cô Kim, hái dâu cho tằm ăn dỗi. Để chậm, tằm đau bụng chết. Bận thế mà chú Minh với cô Ánh bám lấy mẹ, quấn quýt bên chân nèo nẹo đòi theo. Cô Ánh thì lè nhè: Chị Thu ơi, em đi mấy… ấy. Còn chú Minh thì khóc nhè suốt ngày, mẹ phải bế vẹo cả sườn. Lúc ấy Mẹ đang có mang con Hạnh đấy. Mẹ nhớ Bà ghê đi, nhất là những khi trời lạnh, nhắc mùa Đông ngoài ấy. Bà thương Mẹ lắm”. Thế là lũ nhỏ lại xúm lại trêu Minh và Minh lại mủi lòng nghĩ đến sự ra đi của Mợ. Qua đêm ấy, đến gần sáng, cửa sổ bỗng mở tung, Thầy và chú Giáo chạy ùa vào. Thầy bế xốc Mợ lên, và chú Giáo nhấc bổng Minh đem ra hiên đặt xuống. Minh đứng nhìn qua cửa sổ thấy Thầy gục đầu vào vai Mợ mà khóc, thế là Minh cũng khóc ré lên. Cả nhà nhốn nháo từ khi ấy. Có lẽ Mợ mất ngay giữa khuya, và Minh đã ngồi bên Mợ khi Mợ trút hơi thở cuối cùng. Minh mồ côi Mẹ lúc hơn bốn tuổi.

Mợ mất, chị Kim chị Thục dọn buồng lại làm chỗ ngủ cho chị Ánh, Minh và em Đạm. Lúc bấy giờ em Đạm được mười bẩy tháng. Không có sữa mẹ, em sống và lớn đến khi đó nhờ nước cơm và cơm nhai mớm. Nhưng bệnh hoạn làm em èo uột như lá chuối non gặp gió. Rồi một tối, Đạm chết bên anh. Lúc đó Minh đã say sưa ngủ. Đó là hai ngôi vị tha thiết nhất mà Minh đã thiếu và hằng đòi hỏi, khi lớn lên. Minh thèm được gọi một người đàn bà bằng Mợ. Mợ mất khi Minh chưa biết gì, nên Minh chẳng còn cơ hội để thốt lên tiếng gọi tràn ắp yêu thương ấy nữa. Cả tiếng em cũng vậy. Đứa em gái, giá còn sống, bây giờ cũng ngoài hai mươi tuổi. Và chẳng khi nào Minh lại có dịp bực mình, tức giận hay bận rộn vì sự quấy phá, nghịch ngợm hay nũng nịu của đứa em, trai hoặc gái! Mặc nhiên Minh trở thành con út trong gia đình.

Và Minh lớn dần trong tình thương kín đáo của Thầy. Thay cho những vuốt ve trìu mến của người đàn bà, Thầy chỉ cho những ánh nhìn ngay thẳng và nghiêm khắc, những lời giáo huấn cứng rắn về đạo làm người. Tính nết Minh được uốn nắn theo tiêu chuẩn đó.

Cứ vài ba ngày hai cha con lại ra sông lấy nước. Nước mưa trong bể tuy nhiều nhưng phải để dành dùng cho suốt cả mùa Thu. Nước sông gánh về đổ vào chum lớn chum nhỏ rồi đánh phèn cho đất lắng xuống. Con sông hẹp, nước chả mấy trong nhưng đối với Minh thủa đó là cả một hình ảnh bao la bát ngát. Con sông chẩy đến tận cùng giòng là quê Minh, nên đã được ví von cùng với núi đá trơ cây: “ Sông Cùng núi Sậu”. Để nói lên cái địa thế nghèo nàn của vùng đất ấy. Nhưng Minh không cần biết đến điều đó. Minh yêu giòng sông lạ. Minh thích nhất những lần đi tắm sông cùng anh Đình. Anh Đình đi trọ học ở Quỳnh Lưu – nơi lâu lâu lại có một lần mưa đá, anh kể thế – và chỉ về quê vào dịp nghỉ hè. Mỗi lần về anh trổ tài… nội trợ thật khéo, ai cũng phục. Anh bón phân trồng rau, đan ghế mây, đóng bàn gỗ, may quần áo cho Minh và sửa sang nhà cửa. Khi đi ngủ anh hay rúc vào nách thầy mà thủ thỉ, dù đã lớn, nên sau này khi xa anh, thầy cứ bùi ngùi nhắc nhở mãi đến tên anh, cũng như anh Thăng.

Chiều chiều anh Đình thường dắt Minh ra tắm ở sông. Cả gia đình Minh, các anh các chị ai cũng bơi giỏi, xa hàng cây số. Anh Thăng có lần chiếm giải bơi xa vào dịp tế Đình. Chỉ có Minh là không biết bơi, ngay cả bây giờ là thủy thủ, Minh vẫn bơi rất tệ.

Anh Đình hay dắt Minh ra tắm ở bến anh Đam. Bến sông ở quê Minh mang những cái tên rất giản dị. Bến anh Đam vì chỗ đó có quán hớt tóc của anh Đam, bến bà Chử vì ở đó có nhà bà Chử. Anh Đình bảo tắm ở bến anh Đam sạch hơn bến bà Chử và xa bọn đàn bà con gái. Minh bảo ở bến bà Chử đông người thì vui hơn, nhưng anh Đình gắt: “tắm chung với đàn bà sao được”.

Minh thì chả thấy có gì là không được, nhưng là lúc đó cơ. Bây giờ thì Minh dư hiểu anh Đình có lý. Thủa đó, mọi sự mọi điều đều giản dị và trong sạch. Đàn bà con gái trong làng, vào một giờ nào đó lúc nhập nhoạng tối, rủ nhau ra bến bà Chử tắm tự nhiên. Và còn bế, còn dắt theo con em vào cỡ tuổi Minh đi để kỳ cọ tắm rửa luôn cho tiện. Đã một đôi lần Minh được dắt ra tắm ở đó. Và tuy thấy “lạ”, nhưng Minh không hề thắc mắc, nghĩ ngợi gì. Thật tự nhiên, những phụ nữ ấy. Họ cởi quần áo tắm và mặc quần áo khi tắm xong cũng tự nhiên như ở ao nhà, hay như khi cho con bú. Mọi người ngâm mình xuống giòng sông, nước ngang tới hai vai rồi cúi mặt rũ tóc ra vò, gội. Một vài người giặt quần áo ngay khi đang tắm, và ai cũng thích bơi ra giữa giòng để tắm, giặt nước trong. Vừa tắm giặt họ vừa cười đùa trêu cợt, nhắc đến tên những người đàn ông con trai trong làng, rồi gán ghép cho nhau.

Minh thì hay đứng ở mé bờ chỗ cạn, chơi té nước với những trẻ cùng lứa tuổi.

Những lần đi tắm với anh Đình, Minh thường say mê ngắm anh bơi thoăn thoắt ngang giòng, chỗ khúc sông rộng nhất. Anh dơ ngón trỏ lên cao, nói với Minh trước khi phóng mình vào giòng nước:

- Minh đứng đó tắm, để anh bơi qua bơi lại bốn lần cho Minh xem. Đếm to lên nhớ.

Anh Đình bơi tài thật. Anh bơi đủ kiểu, như một con cá không lồ. Minh đã ao ước được như thế. Nhưng rồi có một lần anh Đình đã làm Minh sợ giòng sông, mang một kỷ niệm khó quên.

Lần đó anh dắt Minh đi tắm ở bến bà Chử từ lúc trời còn sáng, bọn đàn bà con gái chưa dắt díu nhau ra đông đảo. Anh để Minh đứng trên một tảng đá xanh, nước ngang vai cho Minh kỳ cọ lấy. Anh dặn Minh chờ anh bơi qua bên kia sông bẻ ít cành râm. Râm và duối là hai thứ cây mọc rất nhiều ở quê Minh, có một chất nhựa chát kỵ sâu răng. Mọi người hay chặt một cành cắm vào độc bình trong nhà, bẻ cành nhỏ lột vỏ xỉa răng, rất tốt.

Minh đứng nhìn hút theo bóng anh Đình ở bên kia sông, khuất sau mấy bụi rậm. Bất chợt, Minh bước tới một bước. Nhưng cục đá xanh đầy rêu đã hết bằng phẳng, và dốc tuột xuống một nấc, Minh mất đà chúi tới trước và chìm lỉm, chỉ còn hai tay đưa một nửa lên khỏi mặt nước. Minh hãi hùng rú lên, gào tên anh Đình và khóc thét. Nhưng tiếng khóc bị nước lùa ngược trở vào lồng ngực, Minh uống hết hớp nước này đến hớp nước kia. Những người đàn bà đứng rê lúa trước gió trên bờ đê thoạt đầu tưởng Minh lặn. Sau thấy Minh “lặn” lâu quá và tay quơ quào một cách tuyệt vọng họ mới rõ Minh lâm nguy và gọi ầm người đến cứu. Anh Đình nghe thấy, hốt hoảng ném mấy cành râm, bơi vội về. Đến khi anh kéo được Minh lên mặt nước thì mặt Minh đã xám ngoẹt, và bụng to phềnh vì nước. Anh Đình đặt Minh nằm ngửa lên một tảng đá trên bờ, đầu dốc ngược xuống. Rồi anh đè lên bụng Minh dậm nhè nhẹ. Nước trong người Minh theo miệng vọt ra như vòi phun. Minh ọe ra cả chậu nước chứ không ít. Sau đó anh Đình vác hai chân Minh lên vai, đầu dốc ngược xuống đất và chạy lồng lên một quãng. Bao nhiêu nước trong người Minh dốc ra gần hết. Minh mệt, mê man cả mấy hôm liền. Hôm gần khỏe lại, nằm trên giường mà Minh vẫn còn sợ. Và nhớ đến cái chết của ông cụ Tích buổi chiều nào ở bến đò bà Chử.

Ông Cụ Tích đã hơn tám mươi tuổi nhưng còn rất khỏe. Cụ hay ở trần mặc chiếc quần đen, ngang lưng thắt một chiếc ruột tượng như đàn bà. Chiều chiều cụ đi từ nhà ra sông tắm, mang theo cái nồi đồng kỳ cọ cho bóng và để lúc về xách thêm được nồi nước. Hôm đó cụ cũng đi tắm như mọi lần, nhưng vì mải chăm chú giặt chiếc quần đen nên cụ để cái nồi trôi tuốt ra giữa giòng. Cụ già tiếc của bơi ra lấy. Lúc vào nửa chừng bị mệt, rồi chuột rút (vọp bẻ). Cụ chìm lỉm. Mọi người hô hoán lên. Đến khi vớt được cụ lên, cụ đã chết. Người ta cởi hết quần áo cụ ra, làm hô hấp nhân tạo, nhưng chẳng ăn thua gì. Minh đứng nhìn cụ già nằm chết trần truồng mà tay vẫn khư khư nắm chặt chiếc nồi đồng, vừa buồn vừa sợ, khóc không thành tiếng.

Từ đó Minh không còn dám “gần gũi” với giòng nước nguy hiểm ấy. Nhưng lòng yêu mến con sông nhỏ vẫn không hề suy giảm. Minh vẫn thích đứng nhìn giòng nước lấp lánh ráng chiều, khua động dưới mái chèo của thuyền buôn xuôi ngược. Và hình ảnh Minh thích nhất phải là hình ảnh mục đồng đưa trâu qua sông về thôn xóm.

Đám trẻ nhỏ, đồng trang lứa với Minh, ngồi ngất ngưởng trên lưng con vật đen xì, từng đàn nối đuôi nhau đi trên con đê gồ ghề, trong chiều tím. Tới bờ dốc, đứa trẻ đầu đàn cho trâu lội xuống. Những con tiếp không người cỡi cũng nối theo. Lũ trẻ đứa ngồi, đứa đứng lên lưng trâu, cất tiếng gọi:

- Nghé ơ… nghé ơ… ờ ơ…

Để nhắc chừng những chú nghé con đứng ngẩn ngơ nhìn trời mây nước, quên cả theo đàn. Tiếng gọi trầm bổng, nghe buồn buồn, vang vọng xa xôi giữa chiều gió lộng. Đàn trâu lội qua sông ló khỏi mặt nước cái đầu với cặp sừng và cái sống lưng nhọn. Chúng lướt đi, nhẹ nhàng như chiếc thuyền nan. Tới bờ bên này lũ mục đồng cho trâu leo lên đê thiện nghệ tựa ông tướng nhỏ. Gặp Minh nhìn chăm chú, chúng nó toét miệng cười, chào hỏi:

- Cậu ạ.

Minh ngẩn ngơ nhìn, không biết đáp lại ra sao. Bây giờ, tuy đã thành người lớn, Minh vẫn ôm ấp những hình ảnh nhẹ nhàng, nên thơ đó trong lòng, và vẫn bồi hồi cảm động dễ dàng mỗi khi nhìn một bức họa thôn quê, hay một vài nét vẽ thô sơ giản dị trong cuốn Tân Quốc Văn, Bài Tập Đọc của đàn cháu nhỏ. Và giòng sông vẫn là hình ảnh cuốn hút Minh như nẻo về tới Thiên Đường. Hay xứ sở cây Vàng cây Bạc của cô Nhất cô Nhị cô Tam.