- 19 -
NGỌC MAI. SAU CHUYẾN CHỞ DÂN MÌNH – trên đó có em – về Đồng Tâm tầu anh lại ngược giòng Tonlé Sap trở lại Nam Vang. Và lại tiếp tục chở dân về. Cứ thế, anh ở lại thủ đô xứ Chùa Tháp này thêm ba tháng nữa. Mỗi chuyến chở dân lại mang thêm ít nhiều kỷ niệm. Anh nghe thêm, thấy thêm biết bao nhiêu chuyện khổ của dân mình. Nhưng anh tự dặn mình, sẽ không làm quen thêm với một người nào khác nữa. Anh sợ sẽ thân thiết với họ, và sẽ buồn khi họ xuống tầu, như em đã đến và đã đi. Vậy mà, dù không thân mật với ai khi mọi người xuống bến, anh vẫn thấy bâng khuâng nhè nhẹ, thấy buồn vu vơ. Và anh nhớ em tha thiết. Có lúc anh đã tự nói với mình, nếu anh có cơ hội ở cạnh em lâu hơn thời gian đã có, nếu chúng mình gặp gỡ ở một nơi nào khác – không phải là con tầu này – biết đâu em đã chẳng yêu anh (như em đã nói hôm nào) thắm thiết và anh đã chẳng mất em.
Từ khi em đi, hằng đêm anh vẫn lên ổ súng bốn mươi ly đôi nằm nhìn chùm hoa Mơ tuyệt diệu của chúng mình. Anh cũng tưởng tượng ở một chỗ nằm nào đó trong trại tạm trú ở Đồng Tâm em cũng nhìn lên chùm hoa đó với những ước mơ. Em có mơ gì không, như anh? Anh đã ao ước bằng tất cả chân thành, tha thiết của lòng mình về một ngày. Một ngày nào đó trong tương lai, không còn chiến tranh, không còn bom đạn. Những người con trai thôi phải nhập ngũ để chiến đấu tranh giành lại mảnh quê hương trong tay kẻ ác. Những người con gái thôi còn long đong lận đận, thôi phải mòn mỏi đợi mong. Những – người – tình – một – đời thôi chết để khỏi buồn những người tình còn sống. Những chồng, cha, anh, em sẽ về với mẹ cha, vợ con, anh em họ. Nước mắt vẫn còn rơi, nhưng là nhưng giọt lệ sung sướng, những tiếng khóc mừng vui như tiếng khóc của người con gái vu quy, phải không em?
Súng ống sẽ không dùng để giết chóc, mà để trang trí cho đẹp mắt. Thù hận tan đi theo tiếng cười vui. Và mọi người tận lực đem tâm sức ra phụng sự cho đời sống của mình cùng những người thân mà không phải băn khoăn vì những âu lo khác.
Ngày đó đẹp quá phải không Mai? Người ta tin tưởng ngày đó sẽ đến với quê hương, người ta vẫn nói một mai khi hòa bình…và không ai ngừng tin tưởng. Vì mọi người sẽ chết khi không còn tin tưởng nữa.
Một mai khi hòa bình! Anh nhớ có đọc một cuốn truyện dài như niềm ao ước của những người trong truyện. Trước kia, anh chỉ ao ước cho anh, nhưng bây giờ anh ao ước cả cho em.
Anh ước ao hai đứa mình – ngày đó – đã…yêu nhau, anh sẽ đưa em về thăm quê chồng tương lai một chuyến. Chúng mình sẽ gặp lại khu vườn xưa một lần anh đánh mất. Em sẽ có dịp nhìn tận mắt cây Mơ thực sự, để so sánh với đóa hoa Mơ hiện tại trên trời cao. Em sẽ thơ thẩn trong khu vườn đầy hoa trái – với anh, dĩ nhiên – để thưởng thức những chua ngọt nồng nàn của quê nhà qua mùi vị những trái cây trồng trọt được. Mơ, mận, đào, chanh, ổi, nhãn, bưởi, na, cam, táo, hồng, bồ quân, quýt, chuối… Và cả đến những trái sung chín ngọt lự, trái mây chan chát, trái sắn chua chua… Em sẽ được ăn cà pháo sống với mắm cáy, ăn rau diếp với mắm tép, ăn dưa hành với thịt đông, ăn ngô rang (hay luộc) trong chăn ấm, ăn cốm vòng thơm ngát. Em sẽ có dịp thưởng thức hương vị những bông đòng đòng trước mùa gặt, ăn khoai mật luộc khô nước, ăn cơm nguội để cách đêm với muối vừng…
Trời ơi, Ngọc Mai. Còn nhiều nữa. Lúc đó… vợ chồng mình (biết đâu chúng mình chẳng lấy nhau?) sẽ tay trong tay bước đi trên những tảng đá xanh khổng lồ lót từ sân ra cổng ngõ bên hàng dậu thưa. Anh sẽ có dịp chỉ cho em nơi anh Thăng ngồi thổi sáo, chỗ anh đã nằm nghe chị Ánh kể chuyện hằng đêm: Ngày xưa… Hay chúng mình sẽ ngồi tựa bên nhau, nhìn đóa hoa Mơ trên cao – buổi tối sao sáng trên trời – mà đếm đua (và hẳn nhiên là em sẽ thắng):
Một ngôi sao sáng
Hai ngôi sáng sao
Ba ngôi sao sáng
Bốn ngôi sáng sao
Ngọc Mai. Quê hương mình đó, biết bao giờ thì chúng mình hết còn mơ ước, vì mơ ước đã trở thành sự thực?
Từ khi em đi cứ mỗi lần tầu cập bến Phnom Penh anh lại có dịp lang thang trên phố. Anh la cà trong quán rượu lộng gió, lâng lâng say với Quảng Vạn An rồi lững lờ bước đi trên hè phố. Rồi tưởng như trên phố này đã có bước chân em đi, trên đường kia đã có nơi em qua lại. Hình ảnh nào, kỷ niệm nào của em cho đã khiến anh tìm lối đến trường Providence em học, để rồi bâng khuâng vì không nhận ra được một nét quen thuộc gần gũi nào nhắc nhớ đến em. Nhiều lần đến đó anh cũng đã làm quen (hay được họ làm quen) với gia đình người Bắc qua đây sinh sống từ lâu. Họ kể cho anh nghe Nam Vang ngày trước, về trường nữ Trung học Bà Phước này. Anh thấy như đang nghe những mẩu chuyện liên hệ đến em. Anh hỏi họ về Kompong Cham, về bãi biển Kep… là những nơi em đã sống. Chuyện dài, thời gian qua mau, đến giờ cơm họ giữ anh ở lại. Ngồi vào mâm cơm với gia đình họ, anh lại tiếc sao chẳng phải là bữa ăn của em lo cho anh, của những sửa soạn chứa chan tình ý vợ chồng?
Sự gần gũi thân mật ấy đã xui dục anh trở lại với họ vào những lần sau. Anh gửi tiền để họ giúp anh cơ hội thưởng thức những món ăn xứ… Mọi (dân mình thường gọi xứ Miên là xứ Mọi, nhưng theo anh thì dân Miên chẳng “mọi” tí nào, trừ nhân dáng họ hơi kém phần sáng sủa). Thế là anh đã được nếm mùi Bồ Hóc với những món Cượng, Nâm bờ Chóc, Sùm lô Cà Cô… Toàn bằng cá biển. Vậy mà bên mình cứ bảo mắm Bồ Hóc làm bằng chuột, rắn, rết… kinh khủng.
Ăn no, uống say, lúc ra về thì trời đã tối. Anh ngồi ngất ngưởng trên chiếc xích lô về tầu. Anh xích lô nói tiếng Pháp như gió, ngỏ ý muốn đưa anh về ngủ đêm ở La Peillotte. La Peillotte thì hẳn em chẳng lạ, đó là khách sạn. Nhưng em không biết đâu, ở đó có những gái bán phấn buôn hương được các anh phú lít Miên chăm sóc để kiếm chác thêm. Cũng như nhiều nơi khác, mà nổi tiếng nhất là số 18 Samdech Iem.
Nhưng anh không về đó. Những nơi đó chỉ làm anh buồn, sợ khi bước chân vào, bất ngờ nghe một cô gái chào bằng tiếng Việt: “Vô đây với em đi, cưng” rồi sau đó tự giới thiệu bằng giọng bùi ngùi “em tên là Nguyệt, là Lan, là Cúc… ở trại Russey Keo, ở Séminaire, ở Miche… phải “nhẩy dù” để kiếm nuôi gia đình sống qua ngày, chờ được tới lượt xuống tầu về xứ”. Cay đắng thế đó em, xót xa quá nhỉ Mai?
Nên anh sợ, trở về tầu ngủ vùi. Và để khỏi đi “trả thù dân tộc” với chính… dân tộc mình, anh đã một mình lê la khắp nẻo, đi thăm cung Vua, đến viếng chùa Tháp… Để qua đi thời gian ngơi nghỉ, rồi lại tiếp tục đón dân xuống tầu đưa về quê Mẹ.
Gần ba tháng sau, mãn nhiệm kỳ công tác tầu anh trở về Sàigòn. Thư em gửi cho anh đã tới, nằm ngay ngắn trên mặt tủ sách. Anh mừng quá. Được bốn ngày phép, anh “bay” xuống Đồng Tâm ngay ngày phép thứ hai, sau khi về thăm Thầy và các anh chị.
Tìm Mai không dễ như anh tưởng. Mất cả buổi sáng và buổi trưa anh mới tìm ra “dấu vết” em. Bấy giờ mới biết em không còn ở trại tạm trú. Một người hồi hương biết anh (trên chuyến tầu về nước cùng với em) nói rằng em quen một ông Sĩ Quan gì đó, ông này đã tìm dùm nhà cho em ở với chị Hai và các cháu, lại hứa kiếm hộ việc làm cho hai ngwòi. Anh mừng cho em đã gặp may.
Nhưng không biết em ở chỗ nào mà tìm đến, anh trở về Sài Gòn.
Sáng nay chủ nhật (một tuần sau lần đi tìm em) anh lại được nghỉ. Anh quyết định xuống Đồng Tâm lần nữa và lần này lại có người quen – có phải là anh may mắn chăng, hay là rủi? – chỉ cho anh biết nơi em ở.
Anh tìm đến.
Nhưng khi đến nơi, anh không dám tin mình vào đúng nhà. Ngôi nhà xụp đổ một nửa phía sau, cửa bỏ ngỏ. Anh bước vào, bỡ ngỡ. Không có ai, anh quay trở ra tần ngần đứng nhìn quanh.
Một người đàn bà đi ngang dừng lại nói với anh:
- Căn nhà này không có ai ở đâu ông ơi. Hồi đầu tháng Việt Cộng pháo kích trúng nhà, sập hết phía sau đó. Tội nghiệp, trong nhà có ba mẹ con và một cô gái thì hai người lớn một chết ngay, một chết ở nhà thương. Hai đứa con nít bị thương nặng, người ta đưa đi mất rồi, cũng chả chắc gì sống. Nghe nói một trong hai người đàn bà là vợ nhỏ ông Đại Úy, mới được một tháng nay. Ông biết không, mấy người này là dân mình từ bên Miên về, lúc trước ở trại tạm trú trong kia. Bây giờ vừa mới được ông Đại Úy bảo bọc thì đã chết. Con người ta có số thiệt mà.
Người đàn bà nói nhiều nữa, nhưng không thấy anh bắt chuyện nên bỏ đi. Anh không nghĩ gì kịp để hỏi bà ta, mà chắc bà ta cũng chả biết gì thêm.
Anh đứng đó một lúc lâu, như người bị tê liệt. Rồi anh bỏ đi. Anh sợ. Nhiều lý do để anh sợ và bỏ đi. Anh sợ sẽ biết chắc chắn là Mai đã chết. Anh sợ sẽ biết rõ tên người đàn bà trở thành vợ nhỏ ông Đại Úy “nhanh tay lẹ mắt” nào đó. Anh sợ anh sẽ trở thành người xa lạ, ở chỗ này. Nên anh bỏ đi.
Trên chuyến xe lô trở về, xe chạy ngang cầu Bến Lức, anh nhìn xuống. Mấy chiếc giang đỉnh chạy ngược xuôi, lờ lững. Anh nhớ tới những ngày ở Nam Vang, chuyến trở về có em, những mẩu chuyện đối đáp, những kỷ niệm vụn vặt mà em dự phần vào dó. Dù em còn hay mất, hình như em đã tách khỏi những liên hệ với anh. Hình như em đã quá xa, quá cao khỏi tầm tay anh với.
Thôi em, hãy vĩnh viễn ngủ yên, quên đi phiền muộn. Vượt bao cây số từ bên ấy về quê Mẹ em chẳng được sống để nhìn thấy hết quê hương. Để đi thăm khắp mọi nơi, cả miền Bắc xa xôi có quê quán anh ở đấy. Để thăm khu vườn có hoa Mơ bất tử trong anh, trong em.
Thôi em, nếu em đã nằm xuống. Hãy là một trong những vì sao của chùm hoa sao anh vẫn thấy hằng đêm. Chùm hoa Mơ mà anh hằng mơ ước, thì em hãy làm một phần nhỏ trong nỗi niềm ước mơ xa vời đó. Để anh thấy em còn sống mãi. Để em còn đẹp, còn hiền và còn dễ thương mãi trong anh.
- Lia ôn!
(Vĩnh biệt em
VÕ HÀ ANH
(10 – 1970)