← Quay lại trang sách

Chương 3 MUA QUAN BÁN TƯỚC-THEO TA THÌ SỐNG

Quốc Thái hỏi: “Xin nhạc phụ đại nhân dạy bảo; chức quan này nên thực hiện như thế nào? Tô Lăng A đáp: “Năm thứ nhất phải trong sạch, năm thứ hai trong sạch một nửa, năm thứ ba thì đục cả. Quốc Thái nói: Như con làm thế nào chịu đựng được ba năm!”.

- Nạp Lan béo mập đẫy đà hoạt bát nhận Hòa Thân làm cha nuôi. Nhưng nào ai biết được, Nạp Lan lại...

Cách phủ đệ Hòa Thân không xa có một cửa hiệu hàng da. Chủ hiệu là Lưu Quốc Thái, tuổi ngoài hai mươi, ngoài kinh doanh hàng da, còn có mấy cửa hiệu khác, tài sản trong tay có mấy mươi vạn lạng bạc. Mới hai mươi tuổi làm sao có được một gia sản đồ sộ như vậy?

Hai mươi năm trước, trong một ngõ nhỏ ở Bắc Kinh có một người tên là Lưu Tồn Hậu, vốn là một gã bán dầu, suốt ngày gánh dầu đi bán, tay gõ mõ, lang thang khắp kinh thành Bắc Kinh. Suốt ngày lang thang, chẳng bận rộn, thấy người khác ngật ngưỡng trên lưng ngựa, mình đầy vàng bạc, vợ con cả đống, kẻ ở cả bầy, hết sức oai phong, hết sức sung sướng. Còn mình thì năm canh không chợp mắt, chạy đông chạy tây, đế giày mòn vẹt, mồm toạc, mép rách, vậy mà ba năm cũng chẳng sắm được chiếc áo mới, mười ngày không có lấy một miếng thịt vào bụng, không kiếm được một cô vợ, hễ nhìn thấy cô gái nào ngực nở mông tròn, chỉ biết rơi nước giãi thèm khát. Hôm nọ, nhân đùa vui, mó rờ vào một cô gái, bị cô ta nửa đùa nửa thật cho một cái tát thật đau. Suốt ngày gã suy đi tính lại và nghĩ ra một cách, phải có tiền mới được. Bỗng một hôm, gã cười hì hì, vỗ vào mông nói: “Được rồi!”, rồi nhảy xộc vào nhà, thò tay xuống dưới bức chiếu rách lôi ra một cái bọc, nhấc lên thấy nằng nặng, nắn bóp thấy cứng cứng, rất thoải mái tự nhiên. Gã đã nghĩ ra cách vừa lấy được vợ vừa phát tài. Hôm nay, tại Thiên Kiều nghe người ta đọc sách kể một câu chuyện “gã bán dầu độc chiếm hoa khôi”. Chuyện rằng, một gã bán dầu đến một nhà chứa, để lấy một hoa khôi, người kỹ nữ nọ không những đẹp như tiên mà còn có một hòm đầy vàng ngọc! Sau khi lấy được hoa khôi, gã bán dầu từ đó không bận tâm đến chuyện ăn mặc. Lưu Tồn Hậu nghĩ rằng, phải chăng là nói ta? Ta phải đoạt được “hoa khôi” đó. Không những tiền cũng có mà vợ cũng có. Gã bèn đem hết số tiền tích luỹ trước nay đổi lấy một bộ quần áo vừa mới giặt hồ, bôi ít dầu đay lên tóc bện thành chiếc đuôi sam mượt mà óng ánh, hớn hở đi đến nhà chứa nọ. Vừa bước vào sân, mụ chủ nhà chứa đã chạy ra đon đả:

- Ái dà, mời vào, mời vào!

Gã bán dầu họ Lưu đặt cái bọc lên bàn đánh keng một tiếng. Mụ chủ nhà chứa mặt mày rạng rỡ nhoẻn cười:

- Ái dà, quan gia thật hào hoa, mời lên lầu!

- Hoa khôi đâu? Gã hỏi.

- Có, đang đợi trên lầu!

Gã theo mụ chủ nhà chứa vào trong một phòng, sực nức mùi thơm. Mụ chủ nhà chứa nói:

- Quan gia thoải mái. Nói xong mụ đi ngay.

Một cô gái bước vào, tuy không giống người đẹp như chuyện nghe hôm nọ, nhưng mặt mày cũng trắng, ngực cũng nở nang, cánh tay cũng béo tròn. Gã họ Lưu rất chi vừa ý, chỉ có điều là không có nâng cốc mời rượu. Cô gái hết “ối” bên trái lại “ối” bên phải, mở cúc áo để lộ “ruột gan” và “của quý”, đôi vú nõn nà núng nính, tựa vào khuôn mặt gã bán dầu. Gã vốn muốn bắt chước gã bán dầu trong câu chuyện, tỏ ra thật thà, nhưng lúc đó làm sao chịu nổi. Đây là chuyện ngày đêm gã ước mơ. Gã ôm cặp vú, lúc đầu nâng lên, cô gái theo đà nằm sóng soài lên giường...

Tối đến, cả hai đều mệt nhoài. Gã họ Lưu còn nghĩ chuyện cưới xin, cả gan hỏi:

- Cô nàng, ta muốn lấy cô nàng?

- Ha ha, chàng là một chàng trai tốt bụng.

- Ta muốn lấy nàng! Cô nàng, ta muốn lấy nàng! Gã họ Lưu trở mình, trần như nhộng, quỳ trên giường nói.

Bấy giờ, cô gái mới biết gã nói thật, ngồi dậy, da bụng dày hằn những nếp nhăn, hỏi:

- Chàng thật sự cần thiếp ư?

- Thật mà?

- Sau này thật sự yêu thiếp không?

- Yêu lắm chứ!

Cô gái thả mình xuống giường “phịch” một tiếng, ôm chặt đầu gã họ Lưu bán dầu, nước mắt ràn rụa:

- Quả thật không ghét bỏ thiếp, muốn sống chung với thiếp ư?

- Cô nàng, ta đâu dám chê cô nàng!

Cô gái tươi cười ôm chặt gã họ Lưu, “ruột gan”, “của quý” quyện vào nhau.

Cô gái tên gọi Xuân Hồng, vốn là con gái của mụ chủ nhà chứa. Mụ định gửi cô ra ngoài nhờ nuôi, nhưng không ai chịu nhận, nên cô gái đành ở lại kỹ viện. Lúc đầu mụ chủ không cho cô gái tiếp khách, chẳng khác nào mèo cái động đực, chạy khắp nơi kêu gào loạn xạ, nay đã quá ba mươi tuổi, tuy còn trẻ, nhưng hai má đã xệ, mí mắt dã húp xuống, ai lại chịu phí tiền bạc cho của ấy? Hôm nay được mẹ gọi, cô mừng hết cỡ, lại gặp chàng trai khỏe mạnh, nên càng phấn khởi vô cùng. Đến khi nghe chàng trai trẻ khỏe như thế muốn lấy cô, cô cảm động nước mắt tuôn ra đầm đìa đôi má.

Ăn sáng xong, gã bán dầu họ Lưu nói:

- Nàng thưa chuyện với mẹ, mang chiếc hòm đi cùng tôi.

- Chàng phải thật sự yêu thiếp cơ, không phải hỏi mẹ, thiếp cũng là chủ, chỉ có rương hòm là chưa chuẩn bị.

Lưu Tồn Hậu nghe nói không có rương hòm, cả người tê tái:

- Không có rương hòm gì ư?

- Thật ra thiếp chẳng quan tâm, muốn thì có thôi.

- Vậy nàng chớ quên, ta chỉ cần nàng và cái hòm thôi, những thứ khác cóc cần.

- Chỉ cần một cái hòm, quá dễ, đợi thiếp thưa chuyện với mẹ.

Hôm sau, Xuân Hồng đến nhà Lưu Tồn Hậu, mai mối cưới xin đàng hoàng, cũng bày tiệc rượu thết đãi láng giềng. Xuân Hồng vui mừng và theo ý của Lưu Tồn Hậu chỉ khiêng về một chiếc hòm làm của hồi môn.

Khi khách khứa đã về hết. Gã Lưu bán dầu vội vàng mở chiếc hòm ra, lật đi lật lại, chẳng thấy vàng, chẳng thấy trắng, cũng chẳng thấy ngọc ngà châu báu. Gã kêu lên:

- Đâu nhỉ, đâu nhỉ?

- Cái gì đâu nhỉ? Xuân Hồng hỏi.

- Vàng bạc châu báu!

- Làm gì có vàng bạc châu báu!

Gã bán dầu họ Lưu nghe Xuân Hồng nói vậy ngồi thừ xuống đất, nghe Xuân Hồng nói tiếp:

- Châu báu không thể bỏ vào đó được! Nói xong mở thắt lưng ra, để lộ một chiếc gối, nói: - Chàng làm sao biết thiếp dấu châu báu ở đâu, ngay cả mẹ cũng không biết.

Gã họ Lưu vùng đứng dậy, chồm tới chụp lấy chiếc gối xé ra xem, một khối vàng sáng óng ánh.

Gã bán dầu họ Lưu cũng không còn là gã bán dầu nữa. Gã thấy những người có tiền đặc biệt là người Mãn rất thích hàng da, nên gã bắt đầu kinh doanh hàng da. Quả nhiên càng ngày càng giàu, càng phát đạt. Một năm sau, Xuân Hồng sinh ra một cậu con trai, đến xin vị kể chuyện ở Thiên Cầu dạo nọ đặt tên cho con, gọi là Quốc Thái.

Lên năm tuổi, Lưu Tồn Hậu mời thầy về dạy Quốc Thái. Quốc Thái tuy mặt mày bình thường, nhưng đầu óc không ngu muội. Thầy dạy nói, cậu nhỏ này sẽ có tiền đồ rạng rỡ, khiến Tồn Hậu và Xuân Hồng vô cùng mừng rỡ.

Thấm thoắt mười mấy năm trôi qua. Quốc Thái đã khôn lớn, đặc biệt to béo. Mười lăm mười sáu tuổi mà bụng phệ, tự mình cũng khó nhìn được gót chân của mình, hai má nhô lên, hai mắt híp lại, không cần tả tỉ mỉ, nếu bạn ra chợ, nhìn thấy cái đầu lợn luộc thế nào thì Quốc Thái thế ấy.

Một hôm, Lưu Tồn Hậu định tìm người đưa hàng đến Thừa Đức, nhưng chưa tìm ra người. Quốc Thái xin đi. Lưu Tồn Hậu không còn cách nào, bèn cử Lưu Nhị là người nhà cùng đi với Quốc Thái, coi như đi chơi một chuyến. Quốc Thái đến Thừa Đức, giao hàng xong, bỗng thấy một đống da lông vụn nát bị vứt bỏ, toàn là chân, móng, lông. Quốc Thái như bắt được vàng, vội chất hết lên xe, dù Lưu Nhị khuyên bảo thế nào, cậu ta cũng không nghe. Người đi đường đều cười chê Quốc Thái lẩn thẩn. Quốc Thái cũng chẳng cần quan tâm, bỏ ra mấy chục lạng bạc mua mấy tấm da thuộc loại tốt, kéo xe ra chỗ vắng người ngoài đồng, lôi đống da vụn xuống, dùng mấy tấm da thuộc buộc chặt đống da vụn thành từng bó, đánh xe đến Thiên Tân, xuống xe, vỗ đôi tay đầy bụi rồi xoa lên mặt mình và mặt Lưu Nhị, rồi đẩy xe đến một hiệu hàng da phía trước. Quốc Thái vừa bước vào cửa hiệu hỏi:

- Đây là nhà bác Trương...Trương Thế Thúc phải không?

- Ai hỏi đó, tôi họ Lý. Từ phía trong có người đáp ra.

- Tìm bác Trương Thế Thúc mấy ngày rồi mà chẳng tìm thấy để giao hàng... hàng da, làm thế... thế nào đây? Quốc Thái khóc thút thít.

- Hàng da gì? Từ trong vọng ra. Một người trạc năm mươi tuổi đứng lên, đưa mắt nhìn người đứng trước mặt và chiếc xe bên ngoài hỏi: - Có việc gì vậy?

- Cha tôi bảo... tôi đưa hàng da đến giao cho bác Trương... Trương Thế Thúc, toàn là hàng tốt, nhưng tìm mất hai ngày mà chẳng tìm được, cha tôi lại bệnh... bệnh nặng, chờ tiền mua thuốc. làm... làm thế nào đây? Nói xong khóc òa.

Chủ cửa hàng vội bước ra, lấy tay sờ bó da:

- Da tốt, đúng là da tốt... ái dà, hai chú em, xem ra hai chú em thật đáng thương, vào đây ăn thứ gì đã.

- Tôi... tôi đói lắm rồi. cho tôi bốn chiếc màn thầu, một bát nước nóng. Quốc Thái cũng chẳng khách sáo.

- Hai chú vào đi, vào đi!

Lưu Nhị đầu óc choáng váng, theo Quốc Thái bước vào. Chủ hiệu bày ra một bàn thức ăn.

- Chắc hai chú đói lắm, ai ra khỏi nhà mà không gặp khó khăn? Ăn đi!

Hai người ăn vội ăn vàng. Đợi hai người ăn xong, chủ hiệu nói:

- Này, hai chú em, tôi là người từ bi, thấy hai chú thật tội nghiệp, khóc rất thương tâm, ai lại không động lòng trắc ẩn? Thế này nhé, tôi mua giúp xe da này với giá một trăm lạng bạc được không?

- Không... không, tôi phải tìm cho được bác Trương Thế Thúc.

- Trương Thế Thúc, chẳng phải không tìm được sao? Biết đâu đã dời nhà đi nơi khác rồi... Chủ hiệu nói chưa dứt lời, Quốc Thái lại khóc. Chủ hiệu thấy con người này có phần đần độn nên nói với Lưu Nhị: - Có lẽ cậu là người giúp đẩy xe, hãy khuyên anh ta.

Lưu Nhị đâu dám mở miệng. Quốc Thái thì khóc hu hu, chủ hiệu vỗ tay nói:

- Này đừng khóc nữa, ta không thích nghe người khác khóc. Một trăm năm mươi lạng nhé, các chú về đi không rõ bệnh tình cha anh bây giờ thế nào.

- Cha tôi bảo, bán ba... ba trăm lạng. Quốc Thái nói.

- Số da này không đáng giá một trăm năm mươi lạng, chỉ vì ta thấy hai chú tội nghiệp. Ở nhà có người ốm đau, nên chẳng lẽ không giơ tay giúp dỡ? Ai mà không có lúc gặp khó khăn? Thực ra ta cũng chẳng cần số da này. Cửa hàng của ta đã đầy ắp rồi.

- Thế, thế cũng được.

- Chuyển! Chủ hiệu ra lệnh.

Mấy người giúp việc chuyển số da đó vào nhà.

Chủ hiệu trả tiền cho Quốc Thái, dặn:

- Cất kỹ số bạc này, chớ để rơi mất dọc đường.

- Tôi... tôi về ngay - Cha tôi đang ốm nặng. Quốc Thái toại nguyện. Lưu Nhị kinh ngạc, há hốc mồm ra.

Nào ngờ, Quốc Thái về đến Bắc Kinh, cha bệnh thật, ít lâu sau thì qua đời, mẹ anh ta cũng mất tiếp theo. Sau khi đậu tú tài Quốc Thái chẳng dòm ngó đến “Tứ thư”, “Ngũ kinh”, chỉ chuyên tâm vào việc kinh doanh. Nhưng, dù anh ta bịp bợm lừa đảo thế nào chăng nữa, công việc buôn bán cũng không thuận lợi như trước. Hôm nay thuế sưu, ngày mai quyên góp, hôm nay cống nộp cho quan này, ngày mai biếu xén cho quan kia, lo lót hối lộ cho các nha môn quan phủ. Bỏ ra thì nhiều, thu vào thì ít, Quốc Thái vô cùng buồn rầu, dần dần tỉnh ngộ: hễ là quan thì bức dân, làm quan là chắc ăn, không phải dầm mưa dãi nắng, mà túi tiền cứ phồng lên. Càng oai phong, người đời càng vì nể. Thế là Quốc Thái quyết chí tìm cách làm quan, mà phải là quan to. Nhưng làm thế nào đây?

Một hôm Hòa Thân cùng cô con gái nuôi Nạp Lan ngồi kiệu về nhà, bất ngờ một phu kiệu phía trước dẫm vào vỏ dưa trượt ngã. Hòa Thân không kịp đề phòng, từ trong kiệu rơi xuống, đang lúc bực mình, nhìn thấy phía trước một cục thịt núc ních lăn qua lăn lại. Người phu kiệu và Hòa Thân ôm bụng cười ha ha, bởi vì con người ở phía trước là một quái vật béo tròn, kì dị khó tưởng, một thân hình béo tròn như vậy lại bắt chước điệu bộ trượt ngã của người phu kiệu, tuy là đùa cợt cho vui: nhưng cũng rất tuyệt vời. Người đó đứng lên rồi ngã xuống, liên tiếp mấy lần, trông nhẹ nhàng lanh lẹ vô cùng. Cô con gái nuôi của Hòa Thân, Nạp Lan không biết bước ra khỏi kiệu lúc nào, nhìn thấy động tác buồn cười của quả cầu thịt đó, cười rúc rích. Ai ngờ quả cầu thịt đó cũng bắt chước giọng cười, thần thái động tác của Nạp Lan, rất chi tài tình. Hòa Thân và Nạp Lan rất thích thú, trước nay trong thiên hạ chưa có ai béo ú như vậy mà lại lanh lẹ khéo léo đến vậy làm trò cười hay như vậy, nên cười tức cả bụng. Quả cầu thịt cũng bắt chước điệu bộ Hòa Thân và Nạp Lan ôm bụng cười rũ rượi. Cười mãi, cười mãi, bỗng nhiên Hòa Thân động lòng, bước lên hỏi:

- Anh bạn trẻ, trú ngụ ở đâu? Họ tên là gì..

- Tôi là Lưu Quốc Thái, cửa hàng đồ da kia là nhà tôi. Quả cầu thịt đáp.

- Ồ! Ta quen biết cha anh, Lưu Tồn Hậu, ông ấy thường mang đến cho ta những hàng da quí, nên ta có ấn tượng sâu sắc. Vậy chúng ta là láng giềng cùng phố. Đến nhà ta chơi một lát.

- Có gì ngon ăn không?

- Có

- Đừng lừa tôi.

- Không lừa đâu, đi thôi, có rất nhiều rất nhiều thức ăn. Nạp Lan vừa đỡ anh ta vừa nói.

Đến nhà, Hòa Thân bảo anh ta vào một cái đình. Vợ con cùng tì nữ của Hòa Thân thấy có người ngớ ngẩn, lại pha trò hay như vậy,vây quanh lại, cười rúc rích. Hòa Thân bảo dọn thức ăn. Thoáng một cái, thức ăn đã đặt lên bàn, mùi thơm ngào ngạt vô cùng hấp dẫn. Lưu Quốc Thái thèm nhỏ dãi, vỗ tay, xoa ngực nói: “Nhiều thức ăn ngon thế”. Mọi người thấy anh ta như vậy, cười đến đứt hơi. Quốc Thái đưa tay lấy thức ăn trên bàn, bất ngờ Nạp Lan lấy tay ngăn lại, nói:

- Ái dà! Nếu muốn ăn phải làm một bài thơ.

- Không ăn làm sao có “phân”? Ăn xong mới có “phân” (thơ). Quốc Thái nghẹo đầu nói.

Mọi người cười ồ. Nạp Lan nói:

- Không làm thơ thì kể chuyện, kể phải lưu loát.

- Vậy thì tôi làm được. “Tiểu Hồng Hài, Mao Quai Quai...”

- Không, không được. Các vị yên lặng tí nào, bài thơ phải có bốn chữ: to, nhỏ, nhiều, ít. Câu thứ nhất phải có chữ “to”, câu thứ hai phải có chữ “nhỏ”, câu thứ ba phải có chữ “nhiều”, câu cuối cùng phải có chữ “ít”. Quốc Thái, anh nghe rõ chưa?

- Rõ rồi!

Hòa Thân cười:

- Như vậy càng tốt.

- Con nói trước, rồi đến dì, Quốc Thái nói sau cùng, nếu nói không được thì không được ăn. Nạp Lan nhìn chiếc quạt trong tay Hòa Thân nói: - Quạt trong tay lão gia, mở thì to, gấp thì nhỏ, lão gia dùng nhiều, người khác dùng ít.

Nói xong ngồi xuống ăn cơm uống rượu.

- Chăn trên giường lão gia, trải thì to, xếp thì nhỏ, lão gia dùng nhiều, người cạnh dùng ít. Vợ bé của Hòa Thân nói.

- Quốc Thái, anh nói đi! Nạp Lan bảo.

- To... nhỏ... nhiều... ít.

Mọi người thấy vậy ôm bụng cười phì. Nạp Lan phun bắn cả một miệng thức ăn ra khá xa, gục người lên bàn không dậy nổi. Bỗng Quốc Thái cười, nói:

- Có rồi, có rồi... Anh ta thấy bà vợ bé của Hòa Thân cười đến xịu xuống đất bèn nói: - “Cái kia” của dì bên cạnh lão gia, ngồi thì to, đứng thì nhỏ, lão gia dùng nhiều, người khác dùng ít.

Mọi người cười đến tức thở. Hòa Thân cũng không hề phiền lòng, cười hồi lâu mới ngẩng đầu lên được.

Hòa Thân định thần trở lại, thấy Quốc Thái đang ăn, dầu mỡ dính đầy mồm, bỗng nghĩ rằng: Trên đời này có rất nhiều người ngu đần, nhưng lại cực thông minh; có rất nhiều người được gọi là thông minh nhưng lại cực ngu đần. Hiện tại Quốc Thái là người tài còn ẩn dật, nghĩ đến đấy, giật mình, rồi nghĩ tiếp: Hắn cực ranh ma, cực thông minh, lẽ nào có thể lấn át được ta? Ta phải sử dụng hắn, hắn có tài hơn người. Ăn xong, Hòa Thân dò hỏi Quốc Thái rất tỉ mỉ, Quốc Thái cũng chẳng dấu diếm, trả lời tường tận, nói thật rằng:

- Nô tài chủ muốn làm trò mua vui cho lão gia và mọi người, không có ý vô lễ bất kính, nô tài thật sự kính phục Hòa đại nhân, cúi đầu bái phục, nô tài nguyện làm trâu ngựa cho đại nhân, tùy ý đại nhân sai khiến.

Đương nhiên, Hòa Thân biết nhà Quốc Thái giàu có nghe nói y là người có học, tổ tiên cũng là người dòng Bát kỳ, càng quan trọng là lòng trung thành của y đối với mình, rồi nói:

- Ta gả cô gái trêu anh cho anh, anh thấy thế nào?

Quốc Thái không thể tưởng tượng được, rất đỗi vui mừng như được của trên trời rơi xuống, quỳ ngay xuống đất nói:

- Tạ ơn đại nhân, nếu Quốc Thái này thay lòng đổi dạ với đại nhân, trời sẽ đánh thánh sẽ vật.

Hai người to nhỏ thì thầm nhưng Nạp Lan tuy đứng xa vẫn nghe rõ. Cô ta biết ý đồ gả cô cho người này, lòng cảm thấy không vui.

Vì sao Hòa Thân chịu gả Nạp Lan đẹp như Quý Phi Ngọc Hoàn cho Quốc Thái đần độn, mà Nạp Lan lại không phản đối?

Tô Lăng A là người chánh Bạch kỳ Mãn Châu. Càn Long năm thứ sáu, thi đậu cử nhân phiên dịch, được phong chức trung thư nội các. Sau đó rời kinh đô đến Nhiêu Quảng, Giang Tây làm một đạo đài. Đối với Tô Lăng A bất tài, thì chức đạo đài đó vừa sức anh ta. Nhưng anh ta ngại Giang Tây ruộng đất ít, núi non nhiều, đầy chướng khí, người Mãn người Hán sống lẫn lộn, nên ngày đêm tìm cách thoát khỏi nơi khốn khổ đó và cố leo lên chức quan to. Với Tô Lăng A, quan càng to càng dễ làm, nhiều ông quan, tài cán có hơn gì Tô Lăng A này. Tô Lăng A cũng không có ham muốn gì to lớn, nhưng đó là sự thật. Anh ta muốn mình được làm quan lớn ở kinh thành, nếu làm quan ngoài kinh đô thì cũng phải là viên quan lớn của địa phương. Có cách nào ngoi lên cao đây? Làm sao để Hoàng thượng thấy được tài năng của mình? Tóm cổ mấy tên phản nghịch ư? Sưu tầm mấy câu thơ bất kính đối với triều Đại Thanh ư? Những thứ đó anh ta không làm được. Như vậy không thể đi bằng con đường ra mắt Hoàng thượng, chỉ còn có con đường làm thân với các sủng thần, quyền thần bên cạnh Hoàng thượng mà thôi. Bỗng nhiên mắt anh ta chớp sáng, nghĩ đến một người, người đó không phải Hòa Thân thì là ai?

Tô Lăng A tìm cớ xin nghỉ về thăm nhà, “mượn” một ít tiền bạc trong kho phủ, trở về kinh đô. Ông nội của Tô Lặng A đã từng làm Tổng đốc, cha làm tiểu đầu mục nghề dệt Giang Nam, có một phủ đệ ở kinh thành, nhà cũng có của cải và đồ cổ quý hiếm.

Sau khi về kinh, thường đến người bạn đồng sự cũ là Hòa Lâm thăm chơi, biếu tặng đồ quý, tiền bạc, dần dần rất thân với Hòa Lâm, gọi Hòa Lâm anh anh em em. Một hôm nghe nói con trai Hòa Thân tổ chức mừng sinh nhật, bèn đi cùng Hòa Lâm đến gặp Hòa Thân, biếu bốn ngàn lạng bạc chúc cậu ấm vạn sự như ý, một tượng phật bằng vàng phù hộ cậu ấm bình an suốt đời. Tô Lăng A tưởng biếu tặng như vậy là nhiều, nhưng thấy vẻ mặt Hòa Thân không thèm để ý. Tô Lăng A không nản lòng, nghĩ rằng thế nào Hòa Thân cũng sẽ có ấn tượng sâu sắc với mình. Một hôm Tô Lăng A nói với Hòa Lâm:

- Tôi có hai chậu cảnh phỉ thúy, cha tôi bảo đó là vật quý nhưng tôi thì dốt mù đặc, chẳng biết quý thật hay quý giả. Lệnh huynh và đại nhân, biết nhiều hiểu rộng, nhất định nhận ra giả thật, muốn huynh mời Hòa đại nhân đến xem, không biết ngài có vui lòng không?

Hòa Lâm nói chuyện lại với Hòa Thân, không ngờ Hòa Thân hết sức vui mừng nói:

- Đi ngay bây giờ.

Tô Lăng A đang ở trong phòng ngắm nghía chậu cảnh bích ngọc yêu thích của mình. Ngày nào cũng ngắm nghía như vậy. Bỗng nhiên nghe người nhà báo: “Tướng gia Hòa Thân đến”. Tô Lăng A nghe xong, đằng hắng một tiếng rồi quỳ xuống đất, dập đầu bái lạy ba lần chậu bích ngọc, khấn: “Hoàng thiên không phụ kẻ thành tâm, tổ tiên phù hộ tôi”. Khấn xong ra đón Hòa Thân, đứng trước Hòa Thân vò đầu vò cổ tỏ vẻ xin lỗi:

- Hòa đại nhân sao không báo trước với hạ quan một tiếng, hạ quan lại không ra tận cổng nghênh tiếp, mong đại nhân tha lỗi.

- Anh và Hòa Lâm đã gọi nhau là anh em, vậy với ta cũng là anh em, không cần lễ nghĩa nhiều, không cần khách sáo.

- Hạ quan cả gan kết tình anh em với hiền đệ Hòa Lâm, hạ quan vô cùng lo sợ. Hôm nay gặp đại nhân sao có thể vứt bỏ lễ nghĩa trên dưới?

Nói xong quỳ xuống khấu đầu lạy Hòa Thân ba lạy. Tô Lăng A béo mập, mắt híp như mắt lợn. Lúc ấy vào mùa hè, Tô Lăng A đứng dậy, đất dưới chân nơi quỳ ướt đẫm.

Một đoàn người đang bước vào phòng khách, bỗng một cô gái độ mười ba mười bốn tuổi, tóc xõa nhảy tưng tưng đến trước mặt Hòa Thân, cười khanh khách, cặp mắt long lanh nhìn đăm đăm Hòa Thân:

- Ông là Hòa đại nhân ư? Cha cháu thường nói, ông là quan lớn, có tài, cháu cứ tưởng ông là một cụ già cơ... trông thật dễ mến, thật đấy!

- Trẻ con không biết trên dưới, sao lại vô lễ như vậy, cút ngay! Tô Lăng A thấy con gái sàm sỡ vô lễ, sợ hết hồn, liền mắng.

- Đây là lệnh ái phải không? Hòa Thân hỏi.

- Vâng ạ, Nạp Lan, con gái của hạ quan, rất nghịch ngợm.

Hòa Thân xoa đầu Nạp Lan, nhớ đến câu văn miêu tả Trương Lệ Hoa, một phi tần của Trần Hậu thời Nam Triều: “Tóc dài bảy thước, đen như mực sơn, óng ánh dễ thương”. Lòng lại nghĩ: đen óng ánh dễ thương, trắng óng ánh cũng dễ thương chứ. Bụng nghĩ miệng nói:

- Tô đạo đài quả có phước, trời đã ban tặng cho một cô con gái đẹp như ngọc ngà. Ta mà có cô con gái như vậy, chắc suốt ngày hết sức vui mừng.

Cặp mắt tinh ranh của Tô Lãng A đã nhìn thấy những động tác tinh tế của cái ngón tay và ánh mắt long lanh của Hòa Thân, vội nói:

- Nếu Hòa đại nhân yêu thích cháu như vậy, không chê cháu nghịch ngợm sàm sỡ, cháu xin nhận đại nhân là cha nuôi được không?

- Con gái nuôi, đồng ý không? Hòa Thân cúi người dùng tay nâng mặt Nạp Lan hỏi.

- Nạp Lan, con chưa khấu đầu gọi cha nuôi ư!

Nạp Lan vừa rờ vào đầu vào trán Hòa Thân vừa nói:

- Cha đẻ có râu, cha nuôi không có râu, lại có nốt ruồi đỏ, rất đẹp.

Hòa Thân thấy Nạp Lan sờ vào nốt ruồi đỏ, không né tránh, chỉ thấy mát lạnh, trơn lịm, toàn thân như chạm phải điện. Hòa Thân nói:

- Đã gọi ta là cha nuôi, sau này hàng ngày ta để cho con nhìn.

Nạp Lan thích thú vỗ tay.

Tô Lăng A thầm nghĩ: Thế là tốt rồi. Cha nuôi sao lại không yêu con gái nuôi. Ta có thể vút tận trời xanh.

Tô Lăng A bê hai chậu cảnh bích ngọc vào phòng khách, bỗng nhiên cả phòng mát rượi. Hòa Thân không ngớt trầm trồ tán thưởng, lấy tay sờ vào chậu cảnh như sờ lên mặt Nạp Lan, nói:

- Người ta nói ấm nhuận như ngọc, đông ấm hè mát, hôm nay ta mới nghiệm được, đúng là vật quý!

Không biết ông nói chậu ngọc hay nói Nạp Lan.

Tô Lăng A nói:

- Nếu là vật quý xin tặng đại nhân. Tôi nhìn nó như nhìn tảng đá.

Tô Lăng A bày yến tiệc trong dinh, Hòa Thân vô cùng phấn khởi, vừa được đôi chậu bích ngọc phỉ thúy, vừa được cô gái nuôi. Đêm đó, Hòa Thân về phủ, Nạp Lan đòi về theo. Tô Lăng A sợ Hòa Thân không vui, nhưng nào ngờ Hòa Thân vui vẻ đồng ý.

Đêm đó, Tô Làng A nằm lăn tròn trên thảm, thét to: “Ta sẽ làm quan to, ta sẽ nhanh chóng làm quan to rồi! “

Một hôm Hòa Thân đang ở trong thư phòng xem sách, nghe thấy mùi thơm thoang thoảng, đôi bàn tay ấm áp mịn màng bịt kín cặp mắt của mình, cười hì hì không ngớt. Hòa Thân cảm thấy từng khúc xương, từng mạch máu trong người nhũn như bông. Ông cố ý hỏi cô gái là ai, cô gái cười rũ rượi, một làn hơi ấm thổi vào cổ Hòa Thân. Hòa Thân xoay người, ôm chầm cô gái, lấy tay sờ lên cổ thọc vào nách cô gái, cô gái nằm gọn trong lòng Hòa Thân cười khúc khích. Lúc ấy vào mùa hè, Nạp Lan mặc chiếc áo dài mỏng tanh, bộ ngực nhô lên mềm mại đầy sức đàn hồi, Nạp Lan vẫn cười không dứt, cặp vú nõn nà cứ rung lên, Hòa Thân không chịu nổi. Hòa Thân lại thấy Nạp Lan, mặt trắng như ngọc, hai mắt long lanh, thân hình quyến rũ, nơi đáng béo thì béo, nơi đáng tròn thì tròn, tuy béo, nhưng không phì nộn tí nào. Hai người đùa nghịch với nhau một lát, Hòa Thân bảo Nạp Lan ra ngoài, Nạp Lan không chịu, rồi đứng bên cạnh xem sách.

Từ đó, Nạp Lan thường đến phòng Hòa Thân xem sách. Một hôm, Hòa Thân đứng bên bàn xem sách, mất cả buổi chẳng xem hết một trang, không nghe sau lưng có động tĩnh gì. Chờ lâu, Hòa Thân hỏi: “Nạp Lan, con làm gì đấy?”, phía sau chẳng có ai lên tiếng. Hòa Thân tiếp tục hỏi mấy lần, Nạp Lan cũng chẳng đáp lại, Hòa Thân quay người lại, nhìn thấy Nạp Lan đang nằm sấp trên giường của mình chăm chú xem sách, Hòa Thân hỏi:

- Con xem sách gì đấy, có hấp dẫn không?

- Đây đây.. Nạp Lan vội gấp sách lại, mặt đỏ gay.

Hòa Thân đến bên cạnh, Nạp Lan vội nhét cuốn sách dưới người. Hòa Thân hỏi:

- Con xem sách gì của cha đó?

Nạp Lan vẫn không trả lời, chỉ nhìn chằm chằm Hòa Thân, đôi mắt như khiêu khích đợi chờ. Đợi lúc Hòa Thân lật người cô để lấy cuốn sách Nạp Lan vùng ghì chặt cổ Hòa Thân. Hòa Thân lảo đảo ngã đè lên tấm thân Nạp Lan. Nạp Lan như điên, õng ẹo nói:

- Con muốn... Con muốn cái vẽ trong sách, tả trong sách cơ!

Không rõ thế nào, các cúc áo đều tung ra, chiếc lưng ong uốn éo, cái mông núng nính. Hòa Thân nhìn thấy cặp đùi ngà ngọc, thế rồi... áo quần Hòa Thân cũng bị cởi tuột. Hai người ôm cuộn lại với nhau. Trước nay Hòa Thân chưa hề gặp phải một người đàn bà nào mãnh liệt như vậy, cào cắn, hôn hít, lăn qua lật lại.. sức lực tràn trề. Nạp Lan là cô gái non trẻ, đầu tiên cả gan trắng trợn chẳng chút e dè. Nằm trên người Nạp Lan, Hòa Thân như trẻ ra, sung sức và cuồng nhiệt.

Từ đó, Hòa Thân không rời Nạp Lan một bước, hai người suốt ngày quấn quýt nhau, cùng đi cùng về. Người trong phủ Hòa Thân đều nói Nạp Lan là con gái nuôi của Hòa Thân, thoạt đầu cũng không nghĩ đến chuyện xấu xa như vậy. Về sau dần dần mới biết rõ sự tình, nhưng đố ai dám đả động đến Hòa Thân.

Ngày tháng trôi qua, Hòa Thân sợ người ta bàn tán, để tránh tai tiếng, không gì hơn, gả quách cô ta cho người khác, cóc cần con nuôi nữa. Nếu gả cô ta, Tô Lăng A lẽ nào không đồng ý? Hơn nữa, Nạp Lan tình dục quá mức, có lần làm cho cậu con của Hòa Thân cả người ướt đẫm mồ hôi, khiến mọi người kinh sợ, không lâu thì qua đời, Hòa Thân đau đứt ruột.

Hòa Thân đã nghĩ cách tìm cho Nạp Lan người chồng. Đến nay nhìn thấy Quốc Thái, nghĩ rằng: “Ta rất thích ngươi giả đần giả dại, nếu ngu đần thật thì không tốt, không ngu đần càng không tốt, hạng người như Quốc Thái lúc cần ngu đần thì ngu đần, lúc cần thông minh thì thông minh là tốt nhất”.

Tô Lăng A lúc đầu cũng không hài lòng lắm về cuộc hôn nhân này, sau cũng hiểu ra, đây là “kiểu” tính toán của Hòa Thân; sau khi gặp gỡ nói chuyện với Quốc Thái. Tô Lăng A đoán chắc rằng Quốc Thái đại phú đại quý, nên rất hài lòng vui mừng.

Không bao lâu, việc hôn nhân giữa Quốc Thái và Nạp Lan đã hoàn tất. Nhân dân cả thành Bắc Kinh đều nói Tô Lăng A là một tên quan tham lam, ham của nên đem con gái gả cho một kẻ đần độn. Có người nói là vì gia tài Quốc Thái đồ sộ, có người nói đó là ý đồ của Hòa Thân. Con gái của Tô Lăng A nhận Hòa Thân làm cha nuôi, nên Hòa Thân gả con gái của Tô Lăng A cho một thằng đần, ý của Hòa Thân là dễ tiện chuyện thông dâm; có người lại nói gả con gái cho một tên đần là chỗ sáng suốt của Hòa Thân và Tô Lăng A, bạn xem trên đời này bao kẻ thông minh rốt cục như thế nào? Còn kẻ đần độn, suốt đời yên ổn, những người biết được nội tình thì đều cho rằng, Tô Lăng A là con người rất tinh.

Luật lệ trong kinh thành qui định, con gái lấy chồng sau sáu ngày phải về nhà, thế mà người đi đón Nạp Lan lại không phải là người của nhà Tô Lăng A, mà là Hòa Thân tự đến đón Nạp Lan. Hòa Thân ngồi xe đến trước cổng nhà Quốc Thái. Quốc Thái đã đứng chờ sẵn ở đấy, quỳ xuống nghênh tiếp. Hòa Thân nghĩ rằng, Quốc Thái vui vẻ giả vờ đần độn, ta phải nhắc nhở hắn, bắt hắn phục tùng, cái gì nên xem thì xem, cái gì không nên xem thì không xem; cái gì nên nói thì nói, không nên nói thì không nói. Hòa Thân nghĩ: Nên dùng cách nào để hắn hiểu được lý lẽ đây?

Hòa Thân xuống xe. Quốc Thái thưa:

- Nhạc phụ đại nhân hạ cố đến tệ xá, quả khiến con rể cảm thấy vô cùng vinh dự.

- Nạp Lan tuy là con nuôi của ta, nhưng ta rất yêu mến nó, từ nay về sau, vợ chồng ân ái, chớ quên hiếu kính cha nuôi, anh phải hiểu được nỗi lòng yêu thương của ta đối với đứa con gái.

- Con rể đâu dám không nghe lời dạy bảo, từ nay con đã là con của cha rồi. Cả đời chỉ biết hiếu kính, ngoài ra không biết gì nữa.

- Trông anh phúc hậu thật thà, tất có đầy lòng hiếu thảo, nhất định là đứa con hiếu thảo của ta.

Lưu Quốc Thái mời Hòa Thân bước vào cổng. Khi đến bên cổng thứ hai, Hòa Thân lại nghĩ rằng, tại sao ta không lấy câu chuyện Triệu Cao chỉ hươu thành ngựa để phù phép hắn. Hòa Thân chỉ vào cái cây bên phía đông cửa hỏi:

- Đây là cây đào phải không?

Lưu Quốc Thái biết đó là cây táo, nghĩ bụng, lẽ nào Hòa Thân không phân biệt được cây đào với táo? Suy đi nghĩ lại rồi hiểu ra rằng: đây là lấy câu chuyện Triệu Cao chỉ hươu thành ngựa để phù phép ta. Năm nọ, Triệu Cao chỉ hươu nói là ngựa, ai trái ý Triệu Cao, nói hươu là hươu đều bị giết cả. Nghĩ đến đây, Quốc Thái đáp:

- Nhạc phụ đại nhân, đấy đúng là cây đào, mùa xuân năm nay ra quả trĩu cành, quả nào cũng vừa to vừa ngọt, rất ngon, con định đem biếu lão gia một làn, nhưng vì vừa qua một cơn gió lớn thổi qua làm rơi rụng tất cả xuống bùn, lão gia chưa được thưởng thức.

Hòa Thân nghĩ thầm, cậu này quả là thông minh, rồi chỉ vào cây đào phía bên tây nói:

- Đây là cây táo phải không?

- Nhạc phụ đại nhân, đó đúng là cây táo, mùa thu năm nay ra quả trĩu cành, quả nào cũng to cũng ngọt, rất ngon, con định đem biếu lão gia một làn, nào ngờ một cơn gió lớn thổi qua, làm rơi rụng tất cả xuống bùn, lão gia chưa được thưởng thức.

Hòa Thân nghĩ bụng: người ta cần phải là người như thế này, khi cần ngu đần thì phải ngu đần. Đang suy nghĩ thì đã đến nhà khác, ở đấy có một cây hòe, ngọn cây cao vút, Hòa Thân nghĩ, ta đùa với hắn một lần nữa xem hắn ứng phó thế nào, chỉ vào cây hòe:

- Đây là cây gì?

Quốc Thái thật sự bối rối, nghĩ không biết nói là cây gì cho phải.

Lúc này Nạp Lan đứng trước cửa nhà khách thấy Quốc Thái lúng túng, liền đằng hắng một tiếng, đặt tay trước bụng ra hiệu, bảo Quốc Thái nói là cây hòe. Quốc Thái nhận ra, nghĩ bụng: ta sao không đùa được với Hòa Thân, để tỏ lúc ta cần ngu đần thì nhất định ngu đần:

- Nhạc phụ đại nhân, đấy là cây vú sữa, hè năm nay ra nhiều quả trĩu cành, quả nào quả nấy cũng to cũng ngọt, rất ngon, con định đem biếu lão gia một làn, nào ngờ một trận gió lớn thổi qua, làm rơi rụng tất cả xuống đất bùn, lão gia chưa được thưởng thức.

Hòa Thân và Nạp Lan cười đến vỡ bụng.

Từ đó, Hòa Thân mỗi khi ở triều đình về đều đi ngang qua nhà Quốc Thái. Quốc Thái cũng thường vắng nhà vào lúc ấy. Nạp Lan và cha nuôi Hòa Thân mặc sức vui vẻ với nhau. Ở thư phòng nhà mình, Hòa Thân có phần dè dặt, không dám nói to không dám động mạnh. Còn ở đây, không ngại, có gì là hưởng tất. Cách năm ba hôm, Quốc Thái lại mang hàng da đến biếu Hòa Thân, toàn là những thứ quý hiếm như da báo, da tuyết báo, còn khó kiếm hơn là vàng ngọc.

Bỗng một hôm, Nạp Lan nói với Hòa Thân:

- Quốc Thái muốn làm quan, cha xem anh ấy có làm được không?

- Nếu nó thật sự muốn thì làm được, có gì mà được với không, nói được là được, không được cũng được; nói không được là không được, có được cũng không được.

Hòa Thân cho gọi Quốc Thái đến hỏi:

- Con muốn làm quan thật ư?

- Nhạc phụ đại nhân, đúng con muốn làm quan.

- Thế Nạp Lan có đi theo không?

- Tốt nhất là ở nhà trông nom cửa hàng, nhạc phụ đại nhân cũng ở gần đây, có thể cử người thỉnh thoảng đến trông nom hộ, nếu buôn có lãi thì tốt, bèn không thì nghỉ cũng được.

- Vậy thì được, cho anh làm huyện lệnh huyện Tứ Dương ở Sơn Đông. Anh chuẩn bị đi nhận chức.

- Cảm ơn nhạc phụ đại nhân. Quốc Thái quỳ xuống cúi đầu tạ ơn.

Hôm sau, Quốc Thái mang một số hàng da đến nhà nhạc phụ đại nhân sinh ra Nạp Lan, Tô Lăng A càng thích cậu con rể hơn trước kia, Quốc Thái quả là con người rất tinh, tầm mắt Hòa Thân còn cao hơn mọi người. Mỗi lần đến, Quốc Thái đều mang biếu những hàng da quý hiếm, khó kiếm trên đời, anh ta càng được săn đón. Tô Lăng A bảo Quốc Thái ngồi, Quốc Thái không ngồi, bước đến trước mặt Tô Lăng A, đứng nghiêm nói:

- Con sẽ đi làm quan, xin nhạc phụ đại nhân dạy bảo, chức quan ấy nên làm như thế nào?

- Năm đầu phải trong, năm thứ hai trong một nửa đục một nửa, năm thứ ba đục tất.

- Vậy làm sao con chịu đựng được ba năm!

- Làm quan bây giờ, khi đã ngồi lên ghế là phải vơ vét, không vơ vét thì ai chịu làm quan? Anh là người có triển vọng, nên nhẫn nhục chịu đựng thời gian, rồi sẽ được làm quan to, vơ vét được nhiều tiền của.

- Dẫu sao làm quan cũng hơn nghề mua bán của con, vơ tiền nhanh mà lại đơn giản.

- Anh đi, Nạp Lan cũng đi theo anh chứ? Ta rất thích nó, anh định sắp xếp thế nào?

- Trước hết con để Nạp Lan ở nhà trông nom việc mua bán. Hơn nữa Hòa đại nhân ở gần nhà con, có thể tuỳ lúc chăm nom hộ. Đợi một năm rưỡi nữa, khi nào Nạp Lan muốn đi, con sẽ đón cũng không muộn.

- Như vậy càng tốt.

Nhưng Nạp Lan không muốn xa Quốc Thái. Lần đầu gặp Quốc Thái, tuy thấy anh ta xấu xí, nhưng không ghét bỏ anh ta, ngược lại thấy đáng thương, sau đêm động phòng hoa chúc, Quốc Thái ôn hòa mềm mỏng, pha trò đùa nghịch gây khoái lạc cho cô ta hơn Hòa Thân. Suốt ngày, Quốc Thái luôn mồm cười nói, luôn luôn trêu đùa. Nạp Lan từ nhỏ đã thích náo động, phóng túng buông thả, Quốc Thái quả hợp khẩu vị cô ta. Nhưng Nạp Lan là cô gái thông minh, biết tiền đồ của cha và chồng đều nhờ vào cô ta, cô và cha nuôi tốt với nhau, mọi người đều sống bình an, hơn nữa Hòa Thân đúng là hơn hẳn Quốc Thái, việc phòng khuê ý vị kín đáo, vóc dáng càng dài càng khỏi phải nói, do đó tuy không muốn rời Quốc Thái, nhưng lại muốn Hòa Thân bên cạnh.

Lưu Quốc Thái vô cùng phấn khởi đến nhậm chức ở thành Tứ Dương. Tô Lăng A làm thị lang bộ Lại, không phải trở lại chốn hoang vu hẻo lánh trước đây, đúng là có tiền mua tiên cũng được, đúng là... mua tiên. Hòa Thân cho Tô Lăng A làm thị lang bộ Lại, vì ông cho rằng bộ Lại rất quan trọng, bộ Lại tuyển chọn văn nhân trong thiên hạ, quản lý các quan văn trong cả nước, phải có người thân tín của mình ở đấy, huống hồ Thượng thư bộ Lại, Vĩnh Quý tố giác việc của Hòa Thân đến nay vẫn còn ám ảnh trong tâm khảm, Hòa Thân ngẫm nghĩ: “Bộ Lại này, sớm muộn ta nắm”.

Một hôm Càn Long gọi Hòa Thân đến nói: “Cam Túc năm nào cũng xảy ra hạn hán, nhân dân nghèo khổ, Trẫm không an tâm. Nghe nói Cam Túc thu được sáu triệu thạch lương thực, Trẫm e rằng không đúng. Trẫm cho rằng việc này nghiêm trọng, khanh thay Trẫm đi tuần tra vùng Thiểm - Cam”. Hòa Thân lãnh mệnh đến Thiểm - Cam.

Càn Long năm thứ ba mươi chín, Tổng đốc Thiểm - Cam, Lặc Nhĩ Cẩn tâu lên Càn Long rằng: “Hai tỉnh Thiểm - Cam hàng năm không có mưa, hạn hán nhiều hơn nơi khác, đất đai cằn cỗi, nhân dân nghèo khổ quẫn bách, nhà không mái che, bếp không gạo nấu”. Càn Long xem bản tấu xong, lòng như lửa đốt, vua lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm trời, dân nghèo tất sinh gian tà. Đất nước ổn định gốc ở nhân dân. Do vậy đã nhanh chóng phát phiếu gạo cứu tế, và lệnh cho Tổng đốc Thiểm - Cam chăm lo công việc cai trị, phát chẩn cứu tế, phát triển sản xuất.

Không lâu, Lặc Nhĩ Cẩn lại tâu: “Thiểm - Cam hàng năm đại hán, nếu năm nào cũng dựa vào nhà nước, gây phiền hà đến tiền của nhà nước, thần thật áy náy xấu hổ, chi bằng cho Thiểm - Cam tuyển giám sinh, lệnh cho dân nộp thóc đậu để đổi lấy chức quốc tử giám sinh, được thi làm quan”. Ý định của Lặc Nhĩ Cẩn là các đồng sinh, tú tài có thể nộp lương thực cho nhà nước đổi lấy chức giám sinh như vậy khỏi dùng tiền của nhà nước để phát chẩn cứu tế. Sau này các giám sinh và chức quan có thể đổi bằng cách giao nộp lương thực. Càn Long phê chuẩn bản tấu của Lặc Nhĩ Cẩn, và điều Bố Chánh sứ tỉnh Triết Giang, Vương Đảm Vọng đến Thiểm - Cam chủ trì công việc đó.

Vì vậy, từ Càn Long năm thứ ba mươi chín bắt đầu có việc “tuyển giám”, chỉ trong ba năm, đã có mười lăm vạn giám sinh được tuyển theo kiểu quyên góp lương thực. Theo sổ sách, đã thu được hơn sáu triệu thạch lương thực. Từ đó về sau, năm nào Cam Túc cũng báo có hạn hán, để quyên góp lương thực cứu tế. Thực tế, hạn hán hàng năm là giả, các cấp quan lại từ Tổng đốc Lặc Nhĩ Cẩn, Bố chánh sứ Vương Đảm Vọng trở xuống cho đến các huyện lệnh châu phủ đều lấy danh nghĩa cứu tế nuốt chửng số “lương thực” tuyển giám. Từ khi có chuyện tuyển giám, quan lại các cấp tranh nhau vơ vét tiền bạc, trên dưới cấu kết, gọi là “quyên góp” nhưng thực tế là vơ vét.

Thậm chí, Bố Chánh sứ Vương Đảm Vọng cả gan che dấu Hoàng thượng, tâu lên Càn Long rằng: “Số lương thực tuyển giám trong mấy năm liền quá nhiều, kho tàng hiện có không đủ chứa, đề nghị lập thêm hai mươi sáu kho mới, tấu xin Hoàng thượng cấp tiền làm kho chứa”. Càn Long chuẩn y, lệnh cấp cho tỉnh Cam Túc mười sáu vạn lạng bạc để làm kho chứa. Thực ra, lương thực không có, làm kho chứa cái gì? Mười sáu vạn lạng bạc đó đều vào túi riêng tất.

Hòa Thân lãnh chỉ đến Cam Túc, kiểm tra sự tình “Giám lương”.

Lặc Nhĩ Cẩn vội truyền cho Vương Đảm Vọng và Tri phủ Lan Châu là Tưởng Toàn Địch đến, cùng nhau bàn bạc. Lặc Nhĩ Cẩn nói:

- Hoàng thượng đã phái Thượng thư bộ Hình là Viên Tôn Đồng, Tả thị lang bộ Hình là A Dương A đến đây kiểm tra một lần rồi, bây giờ cử Quân cơ đại thần Hòa Thân đến, xem ra Hoàng thượng có phần không an tâm với Cam Túc, vậy nên ứng phó thế nào đây?

Vương Đảm Vọng nói:

- Không có chó nào không ăn cứt, dê nào không ăn lúa non. Ví như Thượng thư bộ Hình, Viên Tôn Đồng, Thị lang A Dương A, chẳng phải tự cho là thanh cao ư? Nhưng cũng thấy tiền là híp mắt. Huống chi Hòa Thân, tôi biết rõ, con người này tham tài hiếu sắc, ham thích của quý, thậm chí đến mức nghiện rồi. Nếu chúng la vỗ béo ông ta, chẳng lo gì ông ta không vì chúng ta.

Thế là mọi người chia nhau lo liệu.

Hòa Thân vừa bước đến địa phận Cam Túc, đã có ngay huyện lệnh, tri phủ quỳ bái đón tiếp, hai bên đường đầy hoa, lại thêm mấy cổng chào màu sắc rực rỡ, cử hành nghi lễ đón tiếp đơn giản. Sau đó tiến về phía thành Lan Châu, trên đường đi qua hết phủ này đến huyện nọ, đâu đâu cũng tiền hô hậu ủng, nước trong rượu trắng, nhà cửa quét vôi trắng xoá, đương nhiên không thiếu những bữa ăn đầy sơn hào hải vị, những tặng phẩm như trân châu bảo ngọc. Hòa Thân gần đến thành Lan Châu, phía ngoài cửa đông thành đã dựng cổng chào màu sắc sặc sỡ, trên cửa thành cắm đầy cờ hoa, những tấm biểu ngữ trương lên, tung bay giữa trời xanh mây trắng: “Cung nghinh Hòa đại nhân đến tỉnh ta thị sát”, “Làm quan ban phước bốn phương”, “Phát chẩn cứu dân ơn vua to lớn”... Người đứng chật hai bên đường, tay cầm cờ hoa, hô to khẩu hiệu với nội dung như đã viết trên biểu ngữ.

Lặc Nhĩ Cẩn dẫn mấy trăm quan lại và thân hào bước lên tới trước chào hỏi: “Hòa đại nhân đi đường vất vả”. Hai người làm đại lễ chào nhau: lúc làm lễ, hai người đứng thẳng đối diện nhau, hai vai chạm nhau, trái trước phải sau; tay phải ôm eo lưng, tay trái vỗ lưng nhau, chạm mặt chạm cổ, cuối cùng chắp tay vấn an nhau. Lễ xong hai người nắm tay nhau bước đi. Lúc này một đội trống cơm tiến đến nhảy múa đón chào, tất cả đều y phục màu đen, đầu chít khăn trắng, thắt lưng màu hồng, tiếng trống vang lên nhịp nhàng tiết tấu bước nhảy uy phong lẫm liệt. Đội trống cơm đi qua, tiếp đến là một đoàn thiếu nữ xinh đẹp áo quần sặc sỡ đứng thành khối vuông, cất giọng hát khúc ương ca. Hòa Thân như lơ lửng bồng bềnh. Sau đội ương ca là đội hình vuông kèn sáo, nam thổi kèn nữ thổi sáo, duyên dáng phấn chấn, màu sắc rực rỡ. Lồng ngực Hòa Thân ưỡn cao, đầu ngẩng lên đầy thần khí, bước đi vững chắc. Ông cảm thấy mình oai phong làm sao, cao quý làm sao, vĩ đại làm sao. Lại đến cổng chào, ở đây một cái lễ đài cao được dựng lên bằng những khúc gỗ to, trên đài cờ bay phất phới. Hòa Thân cùng với Tổng đốc Lặc Nhĩ Cẩn, Bố chánh sứ Vương Đảm Vọng bước lên lễ đài. Vương Đảm Vọng chủ trì lễ đón tiếp, Lặc Nhĩ Cẩn đọc lời chúc mừng:

“Tôi thay mặt mấy chục triệu dân hai tỉnh Thiểm - Cam nhiệt liệt hoan nghênh Hòa đại nhân đến đây (phía dưới vỗ tay như sấm, chẳng khác nào mưa to gió lớn vượt biển cả, ngàn vạn tuấn mã băng qua sa mạc mênh mông). Hòa đại nhân lần này đến Thiểm - Cam, mang theo ân đức của Hoàng thượng, mang theo tấm lòng yêu thương của Hòa đại nhân, Hòa đại nhân tài trí, trung thành son sắc với Hoàng thượng, vì quốc gia cúc cung tận tuỵ, vì trăm họ mà dốc hết tâm huyết, thật là tấm gương quan trên yêu dân, đúng là cột trụ của triều đình. Thiểm - Cam chúng ta năm nào cũng gặp thiên tai, nhưng nhờ có Hòa đại nhân thương yêu trăm họ, một đại thần yêu thương dân chúng, Thiểm - Cam chúng ta mới vượt được tai nạn. Lần này, Hòa đại nhân không ngại vất vả, tự thân đến Thiểm - Cam thị sát mang đến cho Thiểm - Cam tôi niềm hạnh phúc, xin thay mặt trăm họ, và các tầng lớp dân chúng Thiểm - Cam một lần nữa nhiệt liệt hoan nghênh Hòa đại nhân đến đây!”

Tiếp theo, Hòa Thân phát biểu dài dài. Ông đứng trên đài cao, nhìn một lượt hàng ngũ quan lại phía dưới, rồi nhìn trăm họ dân chúng đứng dưới. Ông ta, lần đầu tiên thật sự và cụ thể thấy địa vị của mình được tôn sùng như thế nào. Ông nói:

“Các vị phụ lão hương thân, các vị quan chức địa phương, trước tiên tôi xin thành kính tấm lòng yêu quý và trung thành của các vị đối với Hoàng thượng (tiếng vỗ tay rào rào như ngàn vạn thác nước từ núi cao đổ xuống). Xin cám ơn sự tiếp đón thịnh tình của các vị! Hai tỉnh Thiểm - Cam, năm nào cũng hạn hán, trăm họ khổ sở, Hoàng thượng thương dân như con, triều đình cảm thương trăm họ. Lần này đến Thiểm - Cam, bản quan thấy khắp nơi, dưới sự cai trị cần mẫn của các quan, trăm họ an cư lạc nghiệp...”

Lặc Nhĩ Cẩn, Vương Đảm Vọng,.. nghe Hòa Thân nói như vậy khấp khởi mừng thầm.

Nghi lễ xong, Hòa Thân và Lặc Nhĩ Cẩn bỏ kiệu lên ngựa, sóng đôi vào thành.

Dẫn đầu là đội kỵ binh, tiếp đến là đội cờ quạt, rồi đội kèn tấu khúc nhạc hùng tráng, rồi đội sáo, đội cờ ngũ sắc, với những tấm biển mang chữ “Khâm sai” “Chẩn tế”, sau đó là Hòa Thân và Lặc Nhĩ Cẩn cưỡi ngựa đi theo. Sau hai người là các quan trực thuộc tỉnh và các quan phủ Lan Châu, tiếp đến là đội trống cơm, đội ương ca. Khắp phố treo đầy biểu ngữ màu sắc rực rỡ, hai bên đường là những dải lụa điều, những bó hoa tươi quần chúng đứng chào, nhà nhà treo đèn kết hoa, khắp nơi tưng bừng náo nhiệt.

Cam Túc tổ chức đại tiệc chào mừng Hòa Thân. Khách chủ vào tiệc, đọc chúc từ ngắn gọn, một trăm mâm tiệc bày ra khiến Hòa Thân cũng kinh ngạc, nhưng toàn là bướu lạc đà, chế biến thành nhiều món.

- Lặc Nhĩ Cẩn đại nhân, hàng năm ngài báo về triều đình, Thiểm - Cam hạn hán, nhưng bản quan xem ra, Thiểm - Cam khá giàu. Hòa Thân lên tiếng trước.

Lặc Nhĩ Cẩn nghĩ bụng: có thể qua bữa ăn này đổi trắng thay đen nên đáp ngay:

- Thiểm - Cam tuy năm nào cũng hạn hán, nhưng vì muốn tẩy trần cho Hòa đại nhân sau chặng đường vất vả, tạ ân Hòa đại nhân đã đem lòng thương yêu trăm họ ở hai tỉnh Thiểm - Cam, dẫu Thiểm - Cam có phung phí chút ít để bày tỏ tấm lòng, cũng là điều nên làm.

- Đây phải chẳng là, nên ăn mà không ăn là không đúng? Mọi người đều cười, Hòa Thân nói tiếp: - Ta không thích phô trương hình thức.

Lặc Nhĩ Cẩn, Vương Đảm Vọng nghĩ bụng: đúng là tham lam, vừa mới đến đã vòi quà cáp. Vương Đảm Vọng liền đáp:

- “Giám lương” trong toàn tỉnh đều đã chuẩn bị sẵn sàng, kính mời đại nhân kiểm tra nghiệm thu.

- Không nói việc công trên bàn tiệc. Nói xong cầm đũa lên: - Xin mời.

Tất cả các quan lớn bé trong tỉnh đều đến chúc rượu Hòa Thân, mời Hòa đại nhân về địa phương mình thị sát, đến chiều tối, thì tiệc xong. Lặc Nhĩ Cẩn nói: “Ca múa ở Thiểm - Cam chúng tôi không giống ở Trung Nguyên, Giang Nam, Quảng Đông. Mời đại nhân vào điện cùng thưởng thức”. Hòa Thân theo Lặc Nhĩ Cẩn, Vương Đảm Vọng bước vào đại điện, ngồi phía trên. Trước bàn Hòa Thân, một thiếu nữ đang quỳ một tay rót rượu, một tay nâng cốc mời rượu. Hòa Thân bảo lấy trà thay rượu. Phía sau Hòa Thân là hai thiếu nữ, bóp vai đấm lưng cho Hòa Thân. Giữa điện, ba thiếu nữ miền Tây múa điệu “phi thiên”, để hở cả rốn và bộ ngực nở nang. Cặp vú đồ sộ nhưng căng phồng không sệ, eo bụng tuy to khỏe nhưng rất linh hoạt. Vũ nữ mặc váy, đôi vai trần ngọc ngà quàng dải lụa màu, lượn bay theo điệu múa, như tượng gỗ đang luân chuyển, thân hình to béo nhưng mềm dẻo vô cùng, biểu diễn những động tác uốn éo vặn vẹo, tưởng chừng toàn thân đều là thịt không có xương. Càng hấp dẫn hơn, cặp mắt long lanh bên sóng mũi dọc dừa, chuyển động liên tục theo động tác tay chân... Hòa Thân trước nay chưa từng thấy điệu múa nào như vậy, không ngớt lời khen, tình dục dâng lên. Lặc Nhĩ Cẩn thấy thế, vẫy tay ra hiệu, vũ đạo âm nhạc đều dừng lại. Lặc Nhĩ Cẩn nói: “Đại nhân đi đường vất vả nên nghỉ sớm một tí”. Ba cô vũ nữ đưa Hòa Thân vào phòng trong.

Vào phòng ngủ, ba cô gái cúi người đứng nghiêm, Hòa Thân đang sốt ruột, thì thấy cửa trong tiến ra một thiếu nữ, da trắng như ngọc, từ từ hiện ra, ba cô vũ nữ kia còn kém xa, đôi mắt cô này long lanh sắc xuân, thân hình cao lớn đẫy đà. Ba cô vũ nữ thay áo quần cho Hòa Thân. Cô thiếu nữ kia cũng cởi cả áo quần, giang đôi cánh tay ôm chặt Hòa Thân vào lòng, đôi chân ngọc ngà kẹp chặt đôi chân Hòa Thân. Hòa Thân cảm thấy cả người cô ta nóng bỏng, lòng dạ khát khao vô hạn, đang muốn cử động, đột nhiên cô gái ôm bổng Hòa Thân đặt nằm lên giường. Thế là Hòa Thân đè lên tấm thân ngọc ngà của người đẹp, tựa như nằm trên chiếc đệm bông mềm mại láng mát...

Lần đầu được thưởng thức mùi vị của gái miền Tây, Hòa Thân vô cùng thỏa mãn. Hôm sau, lúc ăn sáng, cô gái đó, chân đeo lục lạc, lại đến múa, đẹp hơn ba cô vũ nữ múa điệu “phi thiên” tối qua. Thế là Hòa Thân còn đâu nghĩ đến việc đi kiểm tra, suốt hai ngày vui đùa với ả. Đến hôm thứ ba, gặp lại Lặc Nhĩ Cẩn và Vương Đảm Vọng. Vương Đảm Vọng nói:

- Đại nhân yêu thích mấy cô gái miền Tây đó như vậy, thuộc hạ đã chuẩn bị xe ngựa sẵn sàng, hôm nay đưa bốn cô ấy đến phủ. Thuộc hạ cho rằng hôm nay là tốt nhất.

- Không vội, không vội, để các cô ấy ở lại thêm mấy ngày.

- Đại nhân chỉ biết cô gái miền Tây, chứ chưa biết cô gái phương Tây, hấp dẫn hơn. Đại nhân để hạ quan đưa bốn cô gái ấy đi.

Tổng đốc, Bố Chánh sứ và Tri phủ đưa Hòa Thân đi xem sổ sách, và đến xem một kho thóc. Xem xong, Hòa Thân nói:

- Sổ sách rõ ràng, kho đầy thóc, rất tốt. Không biết dưới các châu huyện thế nào?

- Hạ quan cho rằng, đại nhân ở Lan Châu mấy ngày, giờ lại xuống đó không biết nên chăng? Vương Đảm Vọng nói.

- Thế cũng được. Hòa Thân đồng ý.

Tối hôm ấy, Vương Đảm Vọng thết tiệc đãi Hòa Thân. Hòa Thân đến dự, ngồi bên bàn tiệc, nghe giới thiệu các món ăn dưới đây mà tròn xoe mắt ếch:

“Bao tử thủy tinh, linh đài thất khổng, linh chi thái vấn, long nhãn trân châu, kim táo sao hồng, mũi kỳ lân hầm, nhung hươu hong, môi vượn nướng vàng, cúc hoa bách ngọc, tú cầu tơ vàng, bầu trăm hạt, gan rồng ướp rượu, hỉ vọng phong pha, thiên khai thái thương, trụ vàng cột ngọc, cát tường như ý, sợi ngọc điểm hồng, gân hươu hầm rượu, mắt hổ cắt lát, băng tuyết màu xanh, phước lộc đầy nhà, tuyết đả ngân hoa, trẻ mãi không già, phật đội trân chân, thiên ngọc kim đỉnh, lá vàng ngậm mây, quạt ngọc đón gió, vạn năm xanh biết, song long bảo châu, cổng bạc cột vàng, phú quý kim tiền...”

Vương Đảm Vọng thấy Hòa Thân không biết ăn các món ăn như thế nào, bèn nói:

- Đại nhân, “đây là đại tiệc toàn dê”, đặc sản của Cam Túc, tuy tên gọi không có một từ dê nào cả, nhưng mỗi món ăn đều là thịt dê cả đấy.

Nói xong, gắp cho Hòa Thân một món ăn: - Đây là món “thiên tầng thê tử”, làm từ xương mềm ở cổ họng con dê, đại nhân nếm thử xem sao?

- Khá, khá lắm, vừa dòn vừa mềm. Hòa Thân vừa nhai vừa khen.

- Đây là món “linh chi thái vấn”. Vương Đảm Vọng lại gắp một món khác và giới thiệu: - Món này là cục thịt nhỏ ở mũi con dê, là món ăn quý. Tương truyền Mao Tị Cương không những dùng gái đẹp nổi tiếng mà ăn uống cũng rất cầu kỳ. Có một lần ông ta tổ chức đại tiệc tại Thủy Hội Viên chiêu đãi các danh sĩ. Ông mời một bà đầu bếp nổi liếng ở kinh đến, hỏi bà ta cần những nguyên liệu gì. Bà ta đáp: tiệc có ba hạng, chủ nhân muốn loại nào? Mao Tị Cương hỏi, ba hạng khác nhau thế nào? Bà đáp: Loại một phải dùng năm trăm con dê, loại hai ba trăm, loại ba một trăm, các thứ khác cần gì lấy nấy. Mao Tị Cương cho rằng, loại một thì lãng phí, loại ba thì quá tồi nên bảo: loại hai là vừa. Theo yêu cầu của bà đầu bếp, dê và các vật phẩm khác được chuẩn bị sẵn. Mọi người đều muốn xem bà đầu bếp này làm thế nào. Đến ngày bà đến đúng hẹn, cùng đến với bà có hơn trăm người giúp việc Bà ăn mặc sang trọng, ngồi trên cao chỉ huy, mọi người vào bếp chuẩn bị dao thớt theo lệnh điều khiển. Ba trăm con dê, con nào cũng chỉ bị cắt một cục thịt ở dưới môi, các bộ phận khác đều vứt bỏ. Có người thấy lạ hỏi, bà ta đáp: vị ngon của dê, đều tập trung ở nơi này, các chỗ khác đều tanh hôi không dùng được. Nhưng cục thịt tròn ở đầu mút mũi con dê còn ngon hơn cả cục thịt dưới môi dê, món này rất quý.

Hòa Thân nghe nói, ngớ người ra một lúc, chỉ đến khi Tổng đốc Lặc Nhĩ Cẩn mời ông ăn, ông mới định thần lại. Một lát sau, ông ta hiểu rõ một số món ăn, “hỉ vọng phong pha” là thịt hai bên sườn mũi dê, “thiên khai thái thương” là hai dái tai con dê, “ẩm gián đài tử” là cục thịt dưới má con dê,...

Vương Đảm Vọng giới thiệu xong các món ăn thịt dê, rồi nâng cốc:

- Ở kinh đô chỉ có Tuyết Tửu là còn khả dĩ, đại nhân xem thứ rượu này, mùi thơm sực nức, trong suốt màu vàng, để dưới hầm trọn năm năm mới lấy ra.

- Ta cứ cho ở kinh đô phồn hoa không đâu sánh, thế mà đến đây mới biết, còn hào hoa hơn cả kinh đô, đi chuyến này không thiệt, cũng không thể nói là thiệt. Hòa Thân ngẫm nghĩ.

Tối hôm đó, yến tiệc, múa hát xong. Vương Đảm Vọng nói với Hòa Thân:

- Đại nhân từ xa đến, không có gì để tỏ lòng thành kính, vật trong hòm này, chỉ là chút lòng của Tổng đốc đại nhân và hạ quan.

- Sao có thể phiền hà đến hai vị đại nhân? Như vậy quả không dám.

- Vậy là đại nhân coi thường Tổng đốc đại nhân và hạ quan rồi.

- Thực là nhận thì hổ thẹn, không nhận thì bất kính.

Vương Đảm Vọng bảo mấy người khiêng hai cái hòm vào phòng Hòa Thân.

Hòa Thân bước vào phòng, vội mở hai cái hòm ra, há hốc mồm trợn tròn mắt. Trong hòm này có mười tám vị la hán bằng mã não, hòm kia mười tám vị la hán bằng vàng. Không n?