Chương 4 ĐẾN VÂN NAM XA XÔI-LẦN ĐẦU THỬ SỨC -
Hòa Thân nói với Càn Long: Lý Thị Nghiêu cậy công ngạo mạn, chẳng xem ai ra gì.
- Càn Long nói: Trẫm suốt đời rất ghét kẻ làm quan tham ô, người dân đâu có vậy!
- Hòa Thân vui chơi hưởng lạc ở Côn Minh, chẳng động chạm đến Lý Thị Nghiêu...
- Ánh đèn vàng nhạt chiếu lên tường một bóng người khổng lồ, gặm dần từng miếng thân hình yểu điệu của người con gái...
Mặt trời đỏ rực khuất dần sau dãy núi phía tây. Ánh nắng chiều tà bỗng biến những đám mây đen, đỏ, xám thành ráng chiều màu sắc rực rỡ. Đất trời một màu đỏ thẫm, như ánh đèn sáng rực sau tấm màn vải đỏ. Cao nguyên Vân Nam “Đất không có được mười dặm bằng phẳng, trời không có được ba ngày nắng ráo” đang ở vào lúc giữa trưa, bỗng trận mưa mai như ở Giang Nam trút xuống, mưa dày đặc ào ào ập đến, che kín đất trời, trong phút chốc núi mây thành một dải, mù mịt chẳng phân biệt được cái gì, những đám mây trắng lững lờ trên đỉnh núi dọc hai bên đường cái lúc ẩn lúc hiện, gió thổi mây tan, gió dừng mây tụ, cứ thế kéo dài đến hơn hai giờ, cho đến lúc các đỉnh núi phía tây lộ hẳn ra. Đưa mắt nhìn chỉ còn thấy hình ảnh những đỉnh núi nổi lên trong ánh chiều tà, như đang nhắc nhở khách đi đường rảo bước, tranh thủ chút ánh sáng còn rơi rớt, tim nơi trú ẩn.
Con đường chính của Côn Minh, nối liền hai cơ quan hành chính đầu não cao nhất của hai tỉnh Vân Nam - Quý Châu lát bằng đá hộc bóng loáng, nhưng do nhiều năm không sửa chữa, nhiều chỗ đá vỡ đất tụt, bước đi lắc lư, có nơi biến thành ổ gà, mưa xuống nước đọng, bùn lầy nhầy nhụa, mỗi bước đi đất bùn tung toé, khách đi đường phải cẩn thận tránh né, bực mình.
- Hòa đại nhân! Có phải kia là trạm xá không? Phía trước có một khách sạn, trên biển treo viết, chuyên dành cho các quan chức đi lại nghỉ chân. Đại nhân xem, đại nhân, trời sắp tối rồi, đường sá lầy lội, khó bước đi được nữa, lính hầu quá vất vả mệt nhọc, ngựa cũng phải ăn một ít cỏ...
- Ái dà? Hòa Thân dụi mắt, ngáp dài, nói: - Tri phủ Đông Xuyên, Hồ Thường Thanh đã đến đón chưa? Rồi nhìn Lý Hộ Vệ ở phía trước, nói tiếp: - Lý Hộ Vệ, cả người ngươi bê bết bùn trông như người đất, nếu cắm thêm mấy lông chim sẻ, không chừng người khác tưởng ngươi là một vị quan lớn đấy!
- Đại nhân, xin đại nhân chớ trêu tiểu nhân. Chỉ cần xong vụ việc này, mong đại nhân cất nhắc cho. Bẩm đại nhân, đại nhân xem kìa, trước nhà nghỉ có một hàng người đứng đợi. Đấy là Tri phủ Đông Xuyên đang chờ đón đại nhân. Họ đến đã lâu, đang lo cho sự an nguy của đại nhân. Rồi nói tiếp: Vừa rồi, tiểu nhân đã gặp họ nói chuyện để họ chuẩn bị. Đại nhân, đại nhân xem đoạn đường kia.
Hòa Thân lúc này mới chú ý đến đoạn đường trước mặt dẫn đến nhà nghỉ đã được phủ cỏ khô, chỉ còn nghe tiếng “ộp, ộp” mỗi khi lính hầu đi đi lại lại dẫm phải chỗ đất bùn nhão nhoét. Hòa Thân bước xuống kiệu. Vừa dẫm lên vừa gật gù nói:
- Xem ra Tri phủ Hồ Thường Thanh cũng biết điều nhỉ. Làm việc nhanh nhẹ chu đáo đấy.
Hòa Thân chỉnh đốn áo mũ bước đi. Dưới ánh đèn sáng rực trước nhà nghỉ, Tri huyện Hồ Thường Thanh đầu to tai dài đang cúi đầu thì thầm với Ca Ngưng bên cạnh. Hòa Thân nhìn thấy cất giọng oang oang:
- Hai vị đang làm gì đấy! Định để lão Hòa này chết cóng trong kiệu ư?
Ca Ngưng pha trò:
- Không ai tao nhã, phàm tục bằng đại nhân, dám hỏi đã có bài thơ hay nào chưa?
Hòa Thân “hì hì” nói vui:
- Không uổng phí chuyến đi này. Xin có hai câu này: “Người thì thế bí cá xâu. Ngựa vào rừng lạnh nhạn bay xếp hàng”. Thế nào?
Ca Ngưng cười, Tri phủ Hồ Thường Thanh đáp:
- Thơ hay, thơ hay! Tuyệt diệu, theo hạ quan thì Lý Đỗ, Tôn Sắc cũng chưa bằng. Vừa nói vừa giũ tay áo cúi đầu: Đại nhân đi đường vất vả!
Hòa Thân chưa kịp đáp, một đám đông quan to quan nhỏ phía sau Tri phủ Đông Xuyên nhất loạt ùa đến nói nịnh nhân vật đầy uy quyền của triều đình, thi nhau hót:
- Vất vả quá! Mệt nhọc quá!
Hòa Thân gật đầu chào, nhìn thấy nhà nghỉ khá khang trang, rồi nói nhỏ với Lý Hộ Vệ:
- Nơi đây xa xôi man rợ, chiến tranh liên miên chắc chắn nhiều người oán ghét quan phủ, phải tăng cường đề phòng.
- Đại nhân an tâm, hạ quan đã tự đi kiểm tra nhà nghỉ, tất cả khách khứa ở đây hôm qua đã được chuyển đi nơi khác.
Hòa Thân đưa tay vẫy các quan, kẻ trước người sau bước vào phòng khách.
Lúc này đã là tháng năm, thời tiết bắt đầu ấm lên nhưng hãy còn giá rét, lại thêm mưa xuân rả rích kéo dài, càng mong nắng ấm, càng thấy giá lạnh. Trên đường đi Hòa Thân không rời chiếc đệm bông và bình nước nóng. Hai đầu gối của ông đau nhất mỗi khi trời mưa, vì vậy, khi vào triều được phép không phải xuống kiệu trước cửa Càn Thanh, mà đi thẳng vào đại nội. Hòa Thân bước vào phòng, tùy tùng dâng trà. Hòa Thân nhấp một hớp. Ca Ngưng nói:
- Đại nhân đi đường vất vả nhưng chắc là cảm thấy hứng thú, tinh thần phấn chấn, không biết đúng vậy không? Đại nhân xem, hạ quan đi Vân Nam lần này e rằng xương cốt càng chóng rão.
Hòa Thân cười:
- Ca đại nhân thật là một lòng vì nước, tôi sẽ tâu lên Hoàng thượng.
- Có đáng là bao, tôi chỉ lo đại nhân chân đau càng thêm khốn khổ. Ca Ngưng khom lưng nói.
Hôm đó, sau khi sắp xếp bố trí và cơm nước xong. Tri phủ Hồ Thường Thanh ngồi trong phòng ngoài đợi gặp Hòa Thân. Nhìn qua rèm vải cũ kỹ treo trên cửa sổ, thấy một gốc cây già rì rào trước gió. Mấy cành cây khô vươn ra trên bầu trời u ám bên ngoài cửa sổ. Lòng nghĩ: Nghe phong phanh cụ lớn Hòa Thân được trong ngoài triều kính mến, mới ba mươi mốt tuổi đã là tiến sĩ, xuất thân từ khoa bảng, làm đại thần ngự tiền, danh vọng to như vậy, ngay đến Thị lang bộ Hình, Ca đại nhân cũng chỉ là người trợ thủ, lại được Hoàng thượng sủng ái. Lý Thị Nghiêu ơi, Lý Thị Nghiêu, vận quan của ngài đến đây đã chấm dứt rồi. Trên đường đi, các Tri huyện Tri châu ai mà không nịnh bợ nghênh đón. Tri phủ Hồ Thường Thanh hiểu rõ, Lý Thị Nghiêu đổ, cây ngã thì khỉ chạy. Nghĩ đến việc mình đã dựa vào uy thế của ông ta, đã biếu ông ta bốn ngàn lạng bạc ròng. Nếu bị phát giác, e rằng liên lụy nguy hại bản thân, chi bằng nịnh bợ kẻ quyền thế. Nghĩ vậy, Hồ Thường Thanh sờ vào tài liệu tố giác mang theo người, bồn chồn lo lắng.
Hòa Thân lấy tấm chăn da chó quấn chặt hai đầu gối, nhìn Ca Ngưng đang lim dim đôi mắt hỏi:
- Ca đại nhân, nhớ nhà ư?
Ca Ngưng ngáp dài, đáp:
- Đại nhân e tối nay không có Xuân Tiêu ư? Nên dành một ít sức lực đến Vân Nam. Lão già cổ hủ này chịu thôi.
Hòa Thân nghiêm mặt nói:
- Ca đại nhân, đại nhân nói Lý Thị Nghiêu bất kính ư, không biết cai trị cái đất Vân Nam này. Lại phạm tội lớn tày trời, quả phụ lòng tin của Đức Càn Long.
- Hòa đại nhân nói rất đúng, chẳng qua chúng ta phụng mạng điều tra việc Lý Thị Nghiêu mà thôi, còn Lý Thị Nghiêu có phạm tội tham ô trục lợi hay không là chuyện khác, phải có nhân chứng vật chứng mới được.
- Hừm! Hòa Thân sảng khoái, vừa nhìn Ca Ngưng vừa vuốt vuốt mấy sợi râu dê lộ ra dưới ve áo trắng nuốt, nói tiếp: - Nếu Lý Thị Nghiêu không buôn bán trục lợi thì Hải Ninh phụ trách các kho dự trữ lương thực sao dám vu cáo? Theo tôi, Lý Thị Nghiêu kiêu ngạo hống hách, cậy công ỷ thế, phạm tội như vậy, tuy chưa rõ thực hư, nhưng vì thuộc hạ của ông ta khiếp sợ uy quyền của ông ta, chỉ riêng có Hải Ninh trung thành dám đứng lên tố cáo. Thấy Ca Ngưng cúi đầu yên lặng, bèn nói tiếp: - Đương nhiên nếu xem xét thấy không có chứng cứ, chờ khi trở về, tôi tâu lên Hoàng thượng nỗi oan chưa tỏ của ông ta. Hoàng thượng anh minh như vậy lẽ nào không nhận rõ đúng sai? Cũng không thể chỉ nghe mấy lời tâu sơ sài của Hải Ninh.
- Hoàng thượng một hai căn dặn tôi, “nghe nhiều bên thì sáng, nghe một bên thì tối”. Tất cả còn chờ ý kiến của đại nhân. Tính toán cẩn thận, nước cạn thì sạn bày, để lão già cổ hủ này cùng đi với cụ lớn một phen. Ngày mai đến phủ Vân Nam, đại nhân xem nên bắt đầu từ đâu thì tốt nhất?
Hòa Thân tươi cười, từ tốn nói:
- Đại nhân khách sáo rồi, tài phá án của ngài, trong triều ai mà chẳng biết, Tri phủ Giang Ninh, Lưu Dung chưa chắc đã hơn ngài. Việc này chưa cần bàn đến, không nên sơ suất, Lý Thị Nghiêu không phải kẻ dễ chơi, chó cùng cắn càn, hơn nữa đây là nơi ông ta quản lý. Nơi này không như ở nội địa, xa kinh đô, nơi thường xảy ra loạn lạc. Theo tôi, hãy để yên, vừa đánh vừa xoa, lần theo dấu vết mà tìm ra đầu mối, ngài xem thế nào?
Ca Ngưng gật đầu lia lịa, vẻ mệt mỏi hầu như tan biến. Hòa Thân hưng phấn nói tiếp:
- Trước tiên, kiểm tra các châu, phủ. Hỏi họ có chuyện quan trên cưỡng bức hạch sách không. Nói xong, không đợi Ca Ngưng có phản ứng gì. Hòa Thân đã lên tiếng: - Lý Hộ Vệ, mời Tri phủ Đông Xuyên vào. Có việc cần bàn.
Màn đêm yên tĩnh bao trùm miền núi rừng lạnh lẽo. Vạn vật chìm trong giấc ngủ. Gió núi thổi, thông réo từng đợt, rừng núi âm u dễ sợ. Nhất là khoảnh khắc giao nhau giữa đêm tối và bình minh, những vì sao như bị làn nước dập dềnh cuốn sạch, những giọt nước long lanh lặng lẽ ngắm nhìn cảnh buồn vui li hợp của cuộc đời. Dẫu muôn thú của núi rừng còn ngủ, nhưng tiếng gào thét trong giấc mơ vẫn khiến người ta sởn gáy. Trang Tiếu Thiên ngước đầu nhìn lên ngôi sao mai sắp lặn, lòng không chút lo âu, tràn đầy hi vọng. Anh thắt chặt thắt lưng bằng lụa, tay phải ấn chặt con dao quắm, lấm tấm mồ hôi. Trên con đường sâu thẳm tĩnh mịch này, anh cắm đầu chạy. Vượt qua sườn núi quen thuộc, anh vô cùng ngạc nhiên thấy mấy túp nhà dưới chân núi vẫn le lói ánh đèn. Anh kinh hãi, cảm thấy có điều gì không lành. Cũng chẳng cần suy nghĩ kỹ, chạy thẳng đến túp lều rách nát, lẻ loi. Trang Tiếu Thiên là ai? Vì sao đêm khuya còn phải như vậy?
Cách ngoại thành phủ Đông Xuyên tỉnh Vân Nam hai mươi dặm có một thôn trang gọi là Dung Cách Trang, ở bên đường cái chính. Các thương nhân, quan chức trong phủ qua lại thường nghỉ chân nơi này. Có một cụ già mở một quán trà và mua bán ít hàng lặt vặt. Việc kinh doanh khá phát đạt. Nhờ thế, khách từ trên kinh thành, từ dưới thôn dã đồn nhau, lui tới quán này. Chủ quán là Trang Công Phủ, tuổi ngoài sáu mươi, vợ mất sớm, lúc trẻ có một cậu con trai, sau nhận nuôi một cô con gái. Trang Công Phủ hết sức yêu thương hai cô cậu, coi như hai viên ngọc quý. Hai cô cậu đều khôi ngô tuấn tú. Chỉ đợi đến tuổi trưởng thành là cho lấy nhau. Rất sợ cậu con trai, Trang Tiếu Thiên chết bất ngờ. Hai anh em còn nhỏ không nghĩ rằng sẽ lấy nhau, nên chẳng tỏ tình với nhau. Càn Long năm thứ bốn mươi mốt, thổ ty Kim Xuyên nổi loạn, triều Thanh đem đại quân dẹp loạn. Trang Tiếu Thiên theo đại quân đánh giặc, lâu không có tin tức, chỉ trước nửa tháng khi hết hạn đóng quân canh giữ biên cương mới viết thư về nhà, cho biết được điều về phục vụ tại phủ Đông Xuyên. Trang Công Phủ mừng rơi nước mắt. Cô con gái Ứng Liên cũng hết buồn rầu, mặt mày tươi tỉnh.
Nhìn cô con gái Ứng Liên, Trang Công Phủ như vứt được hòn đá đang đè nặng trong lòng. Mấy năm qua, Ứng Liên tuy là con nuôi nhưng rất hiếu thảo, pha trà đưa nước phục vụ ân cần chu đáo, giúp Trang Công Phủ dọn dẹp sắp xếp quán trà.gọn gàng sạch sẽ. Tuổi đã mười sáu, mắt long lanh, răng trắng bóng, mày đen, mặt đẹp như đóa phù dung, ai thấy cũng mến. Khách qua lại liên tục, buôn bán phát đạt, Trang Công Phủ dành dụm khá nhiều của cải, chỉ chờ cậu con về là toại nguyện, coi như xứng đáng với người vợ đã quá cố.
Người ta nói, phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí. Đội trưởng đội thị vệ của Tổng đốc Vân Nam Lý Thị Nghiêu là Triệu Hóa, biệt hiệu là “Diều hâu”, hôm đó cùng với mấy tên sai dịch đến Tri phủ Quý Châu chuyển giao công văn, xộc vào quán trà Trang Công Phủ. Triệu Hóa thân hình cao lớn vạm vỡ. Là đội trưởng thị vệ của Tổng đốc, nhà tuy không giàu có nhưng cũng có của ăn của để. Ai bị hắn truy bắt, nếu muốn không ăn đòn thì phải lót tay cho hắn ít nhất mấy mươi lạng bạc. Hắn cậy quyền cậy thế, hống hách, hoành hành bá đạo, không từ một điều gì, quen thói ngang tàng: ham gái. Hễ thấy con gái nhà ai có chút nhan sắc, hắn y như con nhặng nhìn thấy máu lao vào hút lấy hút để. Nhìn thấy tên vô lại đó ai cũng buồn nôn nhưng chẳng ai dám nói. Thấy cô gái nào trông được, hắn đến trước mặt ngắm nghía, nom không vừa ý thì buông tha. Bất kể liêm sỉ, bất kể trong nhà đã có năm thê bảy thiếp. Cả thành Côn Minh đều nghe tiếng oán hờn. Anh trai hắn, Triệu Nhất Hằng là tổng quản gia của Lý Thị Nghiêu, thân phận cao sang hơn hắn nhiều, thường khuyên răn hắn, làm người phải biết ăn ở cho phải đạo. Hắn bỏ ngoài tai, chỉ dựa thế Lý Thị Nghiêu, chẳng ai làm gì được hắn. Lúc này, Triệu Hóa và mấy tên sai dịch xông vào quán la hét, rồi tiến đến chiếc bàn bát tiên kề cửa sổ, đá nhào mấy cái ghế quanh bàn, hất tung mấy chén trà chưa kịp dọn dẹp còn sót trên bàn, bát đĩa đổ vỡ loảng xoảng. Trang Công Phủ hoảng sợ, bỏ mặt các vị khách đang tiếp, vội chạy đến mời mọc bọn chúng. Triệu Hóa lên giọng:
- Lão già, chúng ta là khách quen. Mau lau sạch bàn, trải lại khăn bàn?
Trang Công Phủ thấy vậy, tức giận, nói lấp lửng:
- Các ngài là khách quen, uống trà trả tiền, lão có quên đâu!
- À! Lão già! Triệu Hóa trợn mắt: - Các ông đây thiếu tiền trà của lão lúc nào? Hôm nay, ông đây đang bực, đập vỡ mấy chén trà làm vui, lão có nghe tiếng “loảng xoảng” không?
Trang Công Phủ không đáp lại, tìm chổi định quét dọn các mảnh chai vỡ. Triệu Hóa gân cổ lên:
- A, lão già này, hôm nay không nể mặt, muốn quét rác ra khỏi cổng. Định làm gì chúng ông nào? Hãy lau sạch bã chè trên bàn đi, nếu không sẽ bẩn cả người lão đấy, ta phá tan cái quán này của lão, xem lão còn làm ăn gì được không?
Vừa nói vừa khoát tay, mấy tên sai dịch đạp bàn đạp ghế, hai bình trà lớn vỡ tung đánh “bịch”, khách xung quanh phải vội vàng lùi ra sau. Mọi người xôn xao bàn tán:
- Quan nha sao vô lễ, ức hiếp người thật thà.
Có người khuyên Trang Công Phủ:
- Cụ già, ở đời này mua bán làm ăn không dễ, không thể để vậy được.
Trang Công Phủ đắn đo trong giây lát, không muốn làm mất lòng, vội vàng xin lỗi, thuận tay lấy tay áo lau bã chè, rồi bước vào nhà trong.
Tiếng ồn ào, đe dọa ở nhà ngoài dội vào nhà trong khiến Ứng Liên đang ngồi khâu vá sợ run lên, lo lắng cho cha. Nỗi vui khi nghĩ đến cảnh anh em đoàn tụ chưa dịu xuống, thì nỗi lo âu lại ập đến. Ứng Liên đặt kim chỉ xuống, nhẹ nhàng bước đến phía cửa phòng ngoài nhìn qua khe hở bức rèm. Nghe tiếng quát tháo chửi rủa không dám ra, bất ngờ chạm phải người cha đang đi vào lấy bộ ấm chén trà mới.
- Cha! Ứng Liên vừa khẽ gọi, cả người lảo đảo, hai tay ôm chầm lấy người cha. Trang Công Phủ nói nhỏ:
- Vào trong nhà nhanh đi!
Ứng Liên quay người bước đi. Từ chỗ bức rèm cửa bị tốc lên, tấm thân mềm mại của Ứng Liên đã lọt vào con mắt của tên bợm. Triệu Hóa nhìn trâng trâng, cả người đờ đẫn, nước bọt trào ra khoé miệng, lè lưỡi liếm môi, xông vào đuổi theo bóng dáng người đẹp.
Trang Công Phủ hai đầu gối nhũn lại, người cứng đờ hiểu ngay là con gái sắp gặp tai họa. Lão cố sức kéo Triệu Hóa lại nhưng chỉ túm được giải thắt lưng. Triệu Hóa bất chấp, lấy chân đạp tung cửa buồng của Ứng Liên, cười híp mắt: “Không ngờ cửa hàng con chốn núi rừng này, ngôi nhà tầm thường này lại có giai nhân tuyệt thế, trước nay ta đây chẳng để ý, thật là không phụ tuổi hoa niên tươi đẹp của cô em, biết tội biết tội”. Vừa nói vừa chồm tới kéo đôi tay mảnh dẻ của Ứng Liên. Ứng Liên vội vàng tránh né. Vật che đỡ đang cầm trong tay chỉ là chiếc quạt vừa vớ được trong lúc hốt hoảng. Thân hình mềm mại của cô càng nổi bật. Nom thấy đôi bàn chân của ứng Liên lộ ra dưới chiếc quần màu xanh nhạt, Triệu Hóa thầm khen: con gái nhà hàng đẹp thế. Chiếc quạt trong tay Ứng Liên run lên bần bật, vừa tức vừa thẹn, mặt mày tái xám. Bộ ngực nở nang cứ phập phồng. Triệu Hóa từng bước tiến sát đến Ứng Liên. Ứng Liên cũng từng bước lùi tránh né. Ngay lúc ấy, nghe tiếng thét:
- Không được đụng đến con gái lão, ngươi là đồ dâm đãng trời đánh thánh vật!
Tiếng kêu thê thảm vang lên rồi im bặt.
- Cha! Cha! Ứng Liên đau đớn gọi, huơ chiếc quạt chạy bổ ra ngoài.
Triệu Hóa vụt quay người lại chặn đường. Ứng Liên đành lùi lại mấy bước, tránh né không để Triệu Hóa tóm bắt, lòng đau như cắt, nước mắt lưng tròng, đau thương muốn chết, cố né tránh, bỗng va phải chiếc giường, gượng mình đứng dậy, loạng choạng, ngã nhào xuống giường. Chiếc quạt rơi “sột soạt” xuống đất như tiếng than não nuột vang lên. Khuôn mặt trắng bệch, đôi má ửng hồng, mái tóc tung ra, vừa đen vừa dày vừa dài, che nửa khuôn mặt, cái cổ trắng mịn, cặp bắp chân thon nhỏ chắc nịch lộ ra dưới chiếc quần. Tất cả cái đó như viên nam châm cuốn hút Triệu Hóa, mỗi dây thần kinh của hắn đều rung lên. Ngọn lửa dục vọng “phụt” bùng lên. Hắn biết, bọn lâu la của hắn sẽ canh gác bên ngoài. Cặp mắt thèm khát của hắn như rớm máu. Hắn hung hăng như hổ vồ mồi, đè lên người Ứng Liên, hai tay sờ soạng lên làn da tươi mát nõn nà của Ứng Liên. Kinh hãi, Ứng Liên gọi to: “Cha...”, tiếng kêu thảm thiết. Hai tay Ứng Liên cào cấu lên mặt Triệu Hóa. Bất chấp đau đớn, ngọn lửa dục vọng của hắn vẫn bừng bừng. Cả thân hình béo chắc của hắn chuyển động, cựa quậy đè lên người Ứng Liên. Ứng Liên như nghẹt thở, cảm thấy đôi bàn tay nhơ nhuốc sờ mó khắp người. Ứng Liên đuối sức, tuyệt vọng, tay cào cấu loạn xị, bất chợt chạm phải một vật cứng lạnh, một cái kéo để bên gối giường. Không chút do dự, cô cầm chiếc kéo, nghiến răng, đầu óc cô chỉ nghĩ đến chiếc kéo; trong giây lát, thời gian như ngừng trôi. Ứng Liên dùng hết sức, vung chiếc kéo trong tay đâm mạnh vào Triệu Hóa. Triệu Hóa thét lên một tiếng, như một con chó chết, lăn phịch xuống đất, chân dãy đành đạch, rồi im bặt.
Ứng Liên như điên chạy vào nhà trong ôm lấy xác cha khóc than thảm thiết, khiến con chim khách đang nằm trong tổ trên ngọn cây cũng phải vụt bay. Những chiếc lá trên cây ngô đồng cũng lả tả rơi. Trang Ứng Liên nhìn mặt trời đỏ ở phía tây đang lặn dần, trông đẹp làm sao. Cô chịu đựng không nổi biến cố to lớn như thế này. Người như sụp đổ. Cảm thấy mọi vật xung quanh đều thay đổi, tất cả đều quay tròn, tất cả đều tối tăm mù mịt. Cô gào đến rát cổ, khóc đến khô nước mắt. Hai tay cào cấu vào hòn đá mát lạnh cứng ngắt bên cạnh, mười đầu ngón tay túa máu. Cô thất thần nhìn thấy máu chảy từ khoé miệng của người cha già, lại cũng không đủ sức đứng dậy nhào đến bọn tay chân của Triệu Hóa đang co ro dưới chân tường. Gió núi thổi, Ứng Liên rét run, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời sâu thẳm khóc than: Trời ơi! ông mở mắt nhìn xem thảm cảnh của thế gian này. Cớ sao những người phúc hậu lương thiện, an phận thủ thường phải chịu cảnh nhà tan cửa nát chết chóc thế này. Cô quyết tâm theo cha. Cảnh thê thảm này phá tan toàn bộ hi vọng và niềm vui của cô. Cô cầm chiếc kéo lên... Tên sai dịch vừa rồi khiếp sợ trước khí thế của Ứng Liên, giờ đã trấn tĩnh lại, kịp chặn tay cô, dùng chân đá tung chiếc kéo. Chiếc kéo bay tít xoáy tròn tung tóe mấy giọt máu của tên Triệu Hóa bất lương. Không đợi phân trần, một sợi thừng đã buộc chặt tấm thân yếu ớt của Ứng Liên. Bọn sai dịch thi nhau đấm đá, chửi rủa, lôi Ứng Liên đi trước những cặp mắt đầy phẫn nộ, thương xót của những người xung quanh.
Sự việc xảy ra đúng trước một ngày Trang Tiểu Thiên trở về nhà.
Trăng non đầu tháng từ từ lộ khỏi đám mây, tỏa chiếu ánh sáng mờ dịu, lạnh lẽo, mông lung trùm lên cao nguyên núi rừng trùng điệp. Lúc này tại nhà nghỉ được trang hoàng đẹp đẽ kia, người đi kẻ lại nhộn nhịp. Bên ngoài cứ mười lăm thước là một lính gác, thỉnh thoảng lại có ám hiệu tuần tra của Lý Hộ Vệ. Không khí khẩn trương, nhộn nhịp của nhà nghỉ và sự yên tĩnh xung quanh đạt đến mức hài hòa trong cái không thể hài hòa. Hầu như tất cả đèn đuốc đều sáng rực. Trong chốn núi sâu rừng thẳm bỗng hiện lên một tòa nhà lộng lẫy. Cửa phòng đóng chặt. Ở đây đang bàn tính bước đi cụ thể về vụ án Lý Thị Nghiêu tham ô trục lợi đang làm chấn động triều đình và các châu huyện.
Hòa Thân ngồi trên chiếc ghế tựa. Lúc này, hơn ai hết, ông biết rõ mục đích và ý nghĩa sâu xa thật sự của chuyến đi vùng tây nam lần này của ông và Ca Ngưng. Ưu thế của ông là giỏi nắm bắt được ý muốn của Hoàng thượng. Qua nụ cười, khoé mắt, cử chỉ chân tay của Hoàng thượng. Hòa Thân đoán được Hoàng thượng nghĩ gì, sau đó nhờ tài khéo léo đưa ra những lời hay ý đẹp, khiến Hoàng thượng vui mừng phấn khởi. Nhưng Hòa Thân cũng biết mình chưa đủ sức, so với các đại thần trong triều, không có công lao hiển hách, không phải người khoa cử chính quy, dẫu một bước lên mây, cũng chỉ nhờ vào sự sủng ái của Hoàng thượng. Nếu không có thành tích to lớn, khó khiến người khác tâm phục khẩu phục. Các đại thần như A Quế, Phúc Khang An,... xuất thân từ gia đình giàu sang quyền thế, nhưng mỗi bước tiến thân phải đổi bằng máu đào và sinh mạng. Mỗi lần họ có sai sót nhỏ, Hoàng thượng đều nói họ đã trải qua trăm trận, có công mở rộng biên cương bảo vệ đất nước, thế là miễn tội, cho qua. Với họ, Hòa Thân này chẳng ra cái gì. Mục tiêu theo đuổi của đời ta là quyền, tiền, gái, chỉ đạt được mục đích ấy thì đời ta mới không uổng phí. Nghĩ đến những cặp mắt khinh bỉ, những lời nói châm chọc của nhiều đại thần trong triều, Hòa Thân như ngồi trên tấm thảm đầy kim. Đây là điểm nhức nhối của Hòa Thân, một con người tâm địa hẹp hòi. Trán Hòa Thân nổi lên những đường gân xanh. Bấc ngờ Hòa Thân “hừm” lên một tiếng. Ca Ngưng nghi hoặc nhìn Hòa Thân:
- Hòa đại nhân, đại nhân nói ư?
Hòa Thân định thần, gật đầu tỏ ý bảo Tri phủ Hồ Thường Thanh đứng bên cạnh ngồi xuống và nói:
- Hồ tri phủ, ngài biết rõ, vậy ý ngài thế nào?
Hồ Thường Thanh nhìn Hòa Thân mặt đỏ hồng hào, đáp:
- Đại nhân, hạ quan nghe nói ở kinh thành có Hòa đại nhân, là người tài ba cự phách, hôm nay gặp mặt, quả là tài học xuất chúng, phong độ khác người.
Ca Ngưng nói chen vào:
- Lý Thị Nghiêu có cưỡng bức hạch sách không?
- Ca đại nhân. Hạ quan có chuẩn bị một bản sao, xin hai đại nhân xem, nếu sử dụng được chỗ nào thì sử dụng. Các quan khác, hạ quan không dám nói, riêng hạ quan Tuần phủ đại nhân cưỡng ép lấy của hạ quan mấy lần bao nhiêu lạng bạc, hạ quan đều nhớ rõ, xin dám ra đối chất.
Hòa Thân chỉ vào mặt bàn nói: “Được”. Rồi quay sang Ca Ngưng:
- Hồ tri phủ một lòng trung thành như vậy, ở đất Vân Nam thật ít có.
- Với sự giúp đỡ của Hồ tri phủ, chúng ta sẽ tâu lên Hoàng thượng. Hòa đại nhân, chúng ta đi nghỉ thôi. Ca Ngưng nói.
Hòa Thân nằm trong chiếc chăn bông vỏ gấm mềm mại, cái trán bóng nhoáng tựa vào chiếc gối làm bằng hạt trà Đại Lý. Lúc lâu vẫn chưa ngủ, đầu óc mãi suy tư. Hòa Thân nghĩ rằng Hoàng đế Càn Long đang coi trọng tin dùng mình, có ngọn núi dựa, ta còn sợ ai. Không giải quyết tốt vụ Lý Thị Nghiêu, thì người ta chẳng biết đến Mã Vương phủ, nhất định phải ra sức phá án, bóc trần Lý Thị Nghiêu, làm triệt để. Hòa Thân hít thở mùi thơm lan tỏa trong phòng, cặp mắt đăm đăm nhìn vào bức trướng hoa văn được thêu bằng sợi vàng sợi bạc, đầu óc lại suy nghĩ về kinh thành cách xa ngàn dặm. Mặt Hòa Thân thoáng hiện lên nỗi vui mừng.
Phủ Hòa Thân là một tòa nhà to nhất, hùng vĩ nhất trong các tòa nhà của các đại thần ở Bắc Kinh. Mái nhà rực rỡ, tăng thêm vẻ uy nghi lộng lẫy. Hai cánh cửa lớn màu tím khảm thêm tám mươi mốt núm đồng màu vàng óng ánh, gỗ tốt, dày vững chắc. Tám gia đinh được bố trí gác cổng. Mái nhà bằng ngói lưu li màu vàng long lanh chói mắt dưới ánh nắng. Một đôi sư tử đá lông xoắn màu bạch ngọc được chạm trổ tinh vi sống động, há chiếc mõm to như chậu máu, ngạo nghễ nhìn người qua lại, dân thường đi qua không dám ngước mắt nhìn. Vườn hoa toàn hoa thơm cỏ lạ, ngọn giả sơn chập chùng, suối nước tuôn chảy. Thật là đẹp mắt!
Càn Long năm thứ bốn mươi lăm, Hòa Thân ba mươi mốt tuổi đã là đại thần ngự tiền, Tổng lý hành dinh sự vụ, Tổng quản Phủ nội vụ tức là lo liệu mọi việc ăn ở đi lại, vui chơi giải trí của Càn Long kể cả những việc quan trọng. Hòa Thân hộ giá Hoàng thượng nam tuần lấn thứ năm, là đi chơi ngắm cảnh đẹp phương nam, việc chi tiêu đều do Hòa Thân quyết định, hướng dẫn, không để ngân sách nhà nước tốn phí một xu một hào. Do vậy, Càn Long nhiều lần khen ngợi công tích của Hòa Thân. Thực ra, mỗi khi đi đến đâu Hòa Thân cũng như Càn Long tận hưởng cảnh thiên đường ở trần thế này, thưởng thức không ít quốc sắc thiên hương và cũng không quên vơ vét thêm vàng bạc châu báu, đồ cổ, tranh đẹp. Hòa Thân thường nói với người nhà là Lưu Toàn rằng: Vui sướng trên đời, ta đều trải qua, có thể nói không thiếu cái gì.
Sau chuyến nam tuần, Hoàng thượng cho nghỉ ba ngày, ở nhà tĩnh dưỡng. Hòa Thân tâu:
- Nô tài đi theo Hoàng thượng làm gì có chuyện mệt nhọc!
- Hòa ái khanh, hãy nghỉ ba ngày, vui sướng với gia đình, bù lại những ngày xa vắng. Trẫm cũng vậy, nếu không các bà đánh ghen, sẽ khó dàn xếp đấy.
Hòa Thân vâng lệnh về nhà tĩnh dưỡng.
Một hôm, Hòa Thân gọi Lưu Toàn đến hỏi:
- Này Lưu Toàn, những ngày ta vắng mặt ở kinh thành, có đại thần nào đến thăm viếng không?
- Đại nhân hộ giá Hoàng thượng nam tuần, phần đông các đại thần trong triều đều biết, nên người đến không nhiều. Tuần phủ, Tri huyện ở các nơi ngoài kinh thành thì đến nhiều, có Tuần phủ Ứng Châu ở Thiểm Tây là Đinh Đại Cán, có Tri huyện Cán Nam ở Giang Tây là Phương Nhị Hóa, và...
- Được rồi, ta biết mà, toàn là một lũ người vô dụng. Hòa Thân xẵng giọng.
Lưu Toàn vỗ trán, nghĩ bụng, rốt cục ai là người vô dụng? Rồi nói tiếp:
- Đại nhân, họ đều mang quà biếu, riêng ngài Hải Ninh phụ trách lương thực dự trữ Vân nam nói là có việc gấp cần gặp đại nhân, hiện có mặt tại kinh thành, chờ đại nhân trở về, nô tài sẽ đi báo, mời ông ta đến.
Hòa Thân suy nghĩ: Hải Ninh đến có mục đích gì? Đôi mắt chuyển động, người có vẻ mệt mỏi. Hải Ninh gần đây không còn giữ chức vụ cũ, bị điều đi làm phủ doãn Phụng Thiên ở Thẩm Dương, có thể là đến cám ơn về mấy câu nói khéo của ta tâu lên Hoàng thượng, nên được đi khỏi nơi rừng núi xa xôi, nay đến từ biệt ta. Hòa Thân này một ngày rời khỏi kinh thành, bọn đại thần kia quan hệ với nhau, nói xấu những gì sau lưng ta, mà chẳng có ma nào báo với ta. Ông ta tức tối Trong lúc trầm tư suy nghĩ, Lưu Toàn cúi người ghé sát tai thì thầm:
- Ngài Hải Ninh đến, mang biếu hai trăm lạng vàng, một ngàn lạng bạc, một bộ thìa trà bằng vàng, hai bộ bình điếu bằng ngọc, hai cây đèn thủy tinh màu giáng hương, một bức tranh tự hoạ, con đã vào sổ và cất trong kho, cả những tặng phẩm của một số quan chức khác cũng đã ghi chép rõ.
Hòa Thân lộ vẻ vui mừng, nghĩ bụng: té ra hắn cũng mạnh tay đấy, không phụ sự nâng đỡ của ta, biết nhớ ơn báo đáp, quả ta không nhầm, gật đầu nói:
- Làm việc tốt đấy! Thưởng cho bác năm trăm lạng bạc, đến ngõ Bát Đại ở kinh thành vui chơi cho biết, xem lầu xanh nào có món mới.
- Nô tài đâu có thiếu tiền xài, tiền đại nhân thưởng nô tài đâu dám phung phí, tạm thời xin nhận, có lúc đại nhân cần.
Hòa Thân cười nói mỉa:
- Bác là con mèo ranh mãnh, bây giờ khác với trước đây, nghĩ lại lúc ta còn trẻ, bác cùng ta đi khắp đó đây van nài vay mượn tiền bạc gian khổ biết chừng nào. Ngày nay có tiền phải biết tiêu. Tiền bạc sẽ cuồn cuộn chảy đến. Mấy cửa hàng của bác làm ăn ra sao?
- Nhờ uy danh của cụ lớn, không dám nói là mỗi ngày kiếm được hàng đấu vàng, nhưng có thể nói mỗi ngày cũng được khoảng ngàn lạng bạc trắng.
Đó là cái hay của sự kết hợp làm quan với buôn bán. Hòa Thân đắc ý.
Hòa Thân liếc mắt nhìn Lưu Toàn nói:
- Mang bức tranh của Hải Ninh xem.
Lưu Toàn cười, vái Hòa Thân, rồi nói:
- Đại nhân sai rồi, không phải bức tranh của Hải Ninh, mà là vật quý của riêng đại nhân.
- Bớt mồm mép đi, nhắc đến công lao trước đây của bác, bác lại phổng mũi lên.
- Vâng, nô tài đi lấy ngay. Vừa nói vừa quay mình bước đi, một lát sau, như bê thánh chỉ, Lưu Toàn hai tay nâng bức tranh cuộn tròn bọc bằng nhung, tháo sợi chỉ vàng, rút ra đặt trước cặp mắt lim dim của Hòa Thân, rồi từ từ mở ra. Hòa Thân càng xem càng mở to đôi mắt. Đây là bút tích của Lâm Bá Miên, một họa sĩ tài ba dưới thời Bắc Tống, tên bức tranh là “Vụ lý sơn trang thủy mặc đồ” (tranh thủy mặc tả cảnh thôn xóm núi rừng trong sương mù - ND). Chỉ nhìn vào thôn xen kẽ nhau có trật tự bị một làn sương mù bao phủ vẽ trên bức tranh, thoát ẩn thoát hiện, hư hư thực thực, chỗ trắng chỗ đen rất hòa hợp nhịp nhàng. Thôn xóm bốn bề đều là sông nước, như nguồn gốc của sương mù, giữa sông nổi lên con thuyền, nghiêng mình như đang chạy, tư thế vững vàng, qua chiếc cầu ngắn, xuyên con đường nhỏ hai bên toàn trúc, bước vào cổng thôn, từ đó mới nhìn thấy. Cảnh trước bức tranh là, cuối thôn có một con đường vòng vèo lượn khúc chạy mãi tận chân trời. Một dòng suối chảy từ khe núi vượt qua những tảng đá gồ ghề lởm chởm, bọt nước tung toé như những viên ngọc nhảy múa, tiếng “tưng tưng” vang dội vào tai. Dọc theo thôn xóm sát bờ sông, mọc lên những cây tùng, khóm trúc, bụi mai, mềm mại lả lướt. Dòng nước quanh co, vòng vèo theo hàng trúc, xa xa là nhà cửa, có nhà đã đỏ lửa, khói lam vấn vít bay cao. Cảnh sau bức tranh là, dãy núi uốn lượn nhấp nhô, ngọn núi này tiếp ngọn núi kia, đỉnh cao đỉnh thấp, nhìn kỹ thấy mấy con đường núi giao nhau, mấy người dân mang gùi lên núi. Hòa Thân có tài xem biết tranh, nhìn thấy bức tranh quý, đã khen ngay: “Hay! Hay! khiến lòng người trong như nước, mọi phiền não đều tiêu tan. Những người lên núi, cất bước thong thả, tìm đường đi, như trong mơ, thần và vật giao du với nhau”. Vừa nói vừa vỗ vào Lưu Toàn nói:
- Nói những thứ này với bác, cũng như gảy đàn tai trâu mà thôi.
Lưu Toàn đứng đực người nhìn Hòa Thân mặt mày hớn hở, thần thái sảng khoái, lòng dạ hồ hởi, nghĩ bụng: ai cũng nói “cao phúc thọ làm cho người ta phấn chấn”, xem cụ chủ thế này, còn khoái hơn là ăn “cao phúc thọ”, rồi nói:
- Bây giờ nô tài đi tìm ngài Hải Ninh, hay đợi vài hôm nữa? Nô tài cho rằng, ngài ấy chưa bái kiến đại nhân, thì chưa đi đâu.
Hòa Thân cười ranh ma:
- Hắn chưa dám đi đâu. Nếu không đến chào mà bỏ đi, ta cắt gân chân của hắn. Đi, đi, tìm hắn đưa vào phòng khách.
Hải Ninh đến kinh thành đã nửa tháng, do Càn Long ngự giá nam tuần, Hải Ninh có việc cần, nên phải ở lại kinh chờ. Thực ra, Hải Ninh có thể đến thẳng Phụng Thiên nhận chức Phủ Doãn, bởi vì đã có lệnh vua, nhưng Hải Ninh chưa an tâm, bởi lẽ chưa bái từ ân sư. Sốt ruột trông chờ, cuối cùng cũng gặp được người thầy của mình. Hải Ninh lớn hơn Hòa Thân mấy tuổi. Hôm đó đang nằm nghỉ ở trong quán trọ, bỗng nghe có tiếng gõ cửa, mở cửa xem, té ra là Lưu Toàn, người ở thân tín của Hòa Thân, chớ coi thường tên nô tài này, Hải Ninh biết rõ mối quan hệ giữa Lưu Toàn và Hòa Thân, nói là chủ tớ, đó là việc của họ, nhưng với ta, đều phải gọi là cụ, chẳng ai bắt bẻ, không ai hỏi tội, nếu tự phụ, khinh trọng sẽ hỏng chuyện. Hôm nọ đến phủ cụ Hòa cống nộp, đã lót tay cho Lưu Toàn không ít hơn ngàn lạng bạc, một bình điếu bằng ngọc như ý. Hải Ninh vội vàng, khiêm tốn hỏi:
- Thưa bác, Hòa đại nhân đã về chưa?
- Ngài còn phải hỏi ư? Lưu Toàn bước tới nói tiếp: - Hòa đại nhân bảo ta đưa ngài đến gặp đại nhân.
Hải Ninh vội vàng sửa sang áo mũ, bước ra cửa, lên kiệu, lúc la lúc lắc đến phủ Hòa Thân, vừa nhìn thấy Hòa Thân đã vội bước lên, quỳ hai gối, nói:
- Đàn em vái chào đại nhân.
- Miễn lễ, mời ngồi. Hòa Thân ngước đầu, ưỡn ngực nói.
Hải Ninh đứng dậy, rồi lại ngồi xuống nói:
- Đại nhân hộ giá Hoàng thượng tuần thú Giang Nam, đi đường vất vả, hôm nay hạ quan xin đến vái chào, một là tạ ân, nhờ ân điển của đại nhân, đàn em được nhận chức Phủ Doãn Phụng Thiên, vô cùng cảm ơn; hai là đàn em có việc cần thưa, không biết nên nói không? Hải Ninh liếc mắt nhìn, nom thấy Hòa Thân ngồi oai vệ, nói tiếp: - Thời gian đàn em còn làm Tiếp Sát Sứ Quý Châu đã nghe nói nhiều về công tích của đại nhân Tổng đốc Lý Thị Nghiêu.
- Công tích cái khỉ gì, ta nghe không ít chuyện tham ô trục lợi của ông ta! Hòa Thân không đợi Hải Ninh nói xong, đứng phắt dậy, cầm cái bình điếu bằng ngọc gõ gõ lên mặt bàn bát tiên bằng gỗ thạnh đàn nói tiếp: - Tại sao ngươi không bẩm báo sự thật? Đến nay Lý Thị Nghiêu vẫn không làm sao cả.
Hải Ninh mừng thầm, nói gì thì nói chứ lúc này không thể để lỡ cơ hội, đứng dậy bước đến bên Hòa Thân:
- Đại nhân, đây chính là lý do đàn em này phải ở lại kinh thành cho đến hôm nay, đàn em luôn nghĩ rằng, đương kim Hoàng thượng rất ghét tệ nạn hối lộ, tham ô, đã mấy lần chỉ dụ nói rõ ràng, bá quan văn võ phải giữ mình trong sạch, giữ gìn kỷ cương phép nước, vậy Lý Thị Nghiêu đã chống lại thánh chỉ, ham lợi, lòng dạ đen tối, tội đáng chém, dẫu sao đó chỉ là ý của đàn em, trước nay chưa dám nói ra, Lý Thị Nghiêu có thần thế ở triều đình, cây to rễ sâu, đàn em e rằng khó đổ dù thân xác đã hôi thối, cho nên, việc này phải xin đại nhân chỉ bảo.
Hòa Thân yên lặng, đôi mày nhíu lại, khoé miệng động đậy, tay sờ sống mũi, cổ họng ậm ực mấy tiếng. Hải Ninh thấy vậy kéo kéo cái bình điếu, hai tay bê đưa cho Hòa Thân. Hòa Thân cầm bình điếu rít mạnh một hơi, rồi từ từ nhả ra một làn khói đặc, cảm thấy vô cùng khoan khoái, máu nóng sục sôi, rồi bỗng nhiên cất tiếng cười “ha, ha, ha”, như trút được gánh nặng đè nén từ lâu, như rút được chiếc xương cá lâu nay vướng mắc trong cổ họng, thật là dễ chịu, thật là khoái trá, hơn cả ôm hôn gái đẹp vào lòng, hơn cả cùng nằm với kỹ nữ, hơn gấp trăm ngàn lần. Xem ra Hòa Thân còn diệu kế gì đây, chỉ chờ mở mồm nói ra. Hòa Thân mở to cặp mắt cú vọ:
- Hắn có công tích gì? Vì sao không tố cáo hắn, ngày mai vào chầu, ta sẽ đưa ngươi vào gặp Hoàng thượng, kể hết những gì ngươi biết.
Hải Ninh lắp bắp nói:
- Lý Thị Nghiêu tham lam vô đáy, khi đàn em còn làm việc ở đấy; lễ sinh nhật của ông ta tổ chức rất lớn, trước nay chưa hề có, các châu phủ quận huyện đều phải có mặt, cống nộp lễ vật rất nhiều, đàn em này sợ uy danh của ông ta, sợ ông ta chê trách, cũng phải cống nộp hai trăm lạng vàng. Đại nhân hãy nói chuyện này, đàn em chỉ là Phủ doãn Phụng Thiên, nên e dễ mất mạng như chơi...
- Hừm, nhát như thỏ đế, vậy làm học trò của ta sao được. Có mặt ta tại buổi chầu, đứa nào có ăn gan hùm cũng chẳng dám động đến một sợi lông của ngươi. Ngươi dám tố cáo, chứng tỏ lòng trung thành của ngươi đối với Hoàng thượng. Hoàng thượng là đức vua anh minh, tài giỏi xuất chúng, mưu trí hơn người, lại không hiểu rõ việc ngươi tố giác Lý Thị Nghiêu là nguy hiểm ư?
Câu nói chân tình khiển Hải Ninh hiểu ra, nói:
- Đại nhân giảng giải thật chu đáo, học trò xin nghe theo.
Lúc này Lưu Toàn bước vào báo:
- Bẩm đại nhân, vừa rồi nô tài được biết Mã công công trong hoàng cung phụng mạng Hoàng thượng đem biếu đại nhân một ít chè Nữ Nhi Bích La Xuân, nói là của Hòa thượng chùa Linh Ẩn ở Hàng Châu biếu Đức vạn tuế.
- Lưu Toàn! Nghe xong Hòa Thân nói.
- Có nô tài.
Hòa Thân nói tiếp:
- Bác lấy mấy bát đại yến bằng ngọc, tiền vàng và các đồ bằng ngọc khác do Sứ thần Triều Tiên biếu ta đem biếu dâng Đức vạn tuế ngay. Tiện thể bảo Tiểu Nô mang trà và không cho ai vào quấy rầy, ta đang bàn việc với ngài Hải Ninh.
- Thưa vâng. Lưu Toàn đáp, rút lui.
Một lát sau, một cậu bé bưng chiếc khay trên có mấy cái cốc con bằng ngọc bích long lanh chạm trổ tinh vi bước vào lấy ít chè Nữ Bích Nhi La Xuân cho vào hai cái cốc, rồi nâng bình nước sôi rót vào hai cốc chè khô lập tức nở ra nghe tiếng xèo xèo. Hải Ninh lắng nghe tiếng lá chè nở trong nước sôi, hết sức chăm chú, hết sức cẩn thận, nhìn vào màu nước trong mỗi cốc. Cậu bé từ từ rót thêm nước. Hải Ninh ngạc nhiên há hốc mồm, vì thấy nước chè màu hổ phách, mùi chè thơm ngào ngạt khắp phòng. Hải Ninh vừa cười vừa nói:
- Đàn em ở Vân - Quý nhiều năm, chè Đại Hoa Lý chỉ bằng một phần mười loại chè này. Nước chè, chất chè không được ngon thơm, chỉ được cái uống vào là tỉnh người, hết khát mà thôi. Một cậu bé giúp việc cho đại nhân còn tinh thông đạo trà như vậy, đủ biết học vấn của đại nhân uyên thâm thế nào!
Hòa Thân khoát tay nói:
- Vừa rồi ngươi nói mùi thơm lan tỏa khắp nơi, đó mới là mùi thơm hiện bên ngoài, chỉ cần hít một tí vào mũi là thấy ngay mùi thơm ẩn bên trong, ngửi tí xem.
Hải Ninh vội vàng đặt chiếc mũi to tướng như mũi sư tử vào miệng cốc hít nhẹ, đúng là mùi thơm hơn, đậm hơn, xông lên sực nức như mùi nước hoa lan trong chốn rừng sâu yên tĩnh, man mát đi vào tâm hồn. Kề miệng tợp mấy hớp, lắc lắc chiếc đầu, nhướn mày mở mắt nói:
- Đúng như đại nhân nói, không uống một ngụm chè, không có một học vấn rộng lớn thế này, khâm phục, khâm phục, khâm phục, quả thật đáng phục, coi như đàn em đã sáng mắt. Vừa nói vừa giơ hai ngón tay cái thẳng đứng ra. Hòa Thân thấy vậy nở ruột nở gan hạ giọng:
- Nếu hôm nay không gặp nhà ngươi, ta không biết mời ai thưởng thức vật quý thánh thượng ban cho.
Hải Ninh nói:
- Đàn em vô cùng cảm kích, đàn em được quen biết đại nhân là một vinh dự lớn. Ngay tức khắc rút trong tay áo ra một bản tâu đưa cho Hòa Thân: - Đây là chứng cứ về tội tham nhũng trục lợi nghiêm trọng của Lý Thị Nghiêu được đàn em chuẩn bị sẵn, xin đại nhân xem, chỗ nào chưa được, chỗ nào không hợp lý cụ lớn, nô tài sẽ sửa chữa lại.
Hòa Thân nghĩ thầm: Được, Hải Ninh, mày dám vòng vo với tao. Hòa Thân cầm, lướt nhìn qua rồi nói:
- Không có chỗ nào là không thỏa đáng, chỉ cần có bản tấu là được. Nói xong đứng dậy.
Hải Ninh thấy thế, biết điều nói khéo:
- Hôm nay đàn em đến đây kể lể hơi nhiều, làm phiền quá, mong đại nhân rộng lượng, đàn em xin cáo từ. Ngày mai như thế nào?
Hòa Thân nói:
- Ngươi đứng ngoài cổng triều chờ đợi, ta sẽ có cách đưa ngươi đến gặp Hoàng thượng.
- Vậy thì được rồi, đàn em xin cáo từ. Hải Ninh vừa nói vừa khom người bước lùi tới tận cổng, thở một hơi dài.
*
Trang Tiếu Thiên lòng như băng giá. Chàng đau buồn nhìn về ngôi nhà năm năm trước đây, đã hoàn toàn thay đổi, bàn ghế trong phòng tiếp khách, chén bát, tất cả đồ dùng của quán hàng đều bị đập phá. Chỉ còn một đống đổ nát. Cái tủ sát tường đã biến thành những mảnh gỗ vụn, vung vãi ở một góc phòng. Đầu tường góc nhà đầy cỏ khô vàng úa, run rẩy trong gió trông thật thê lương, như báo cho người ta biết đã xảy ra chuyện gì. Ngoài sân còn đọng vũng máu, dưới ánh trăng lạnh lẽo trông càng đen thẫm. Chàng trai sao không khỏi đau lòng? Chàng chẳng biết người cha hiền lành chất phác, cô em gái yếu đuối đã đi đâu. Chàng vào buồng em gái, đánh viên đá lửa lên, bỗng giật mình, nhìn thấy hai người phía trước. Đó là hai kẻ ăn xin, quần áo rách rưới, đầu tóc bù xù, đang nằm trên chiếc đệm hoa của cô em gái, ngủ ngáy như sấm. Trên bàn khâu vá của cô em gái đặt hai cái bát ăn cơm sứt miệng, hai chiếc gậy tre xua chó để cạnh bên. Buồng của em gái cũng như phòng khách bên ngoài, bị kẻ bất lương đập phá. Trang Tiếu Thiên càng thấy càng tức, dậm chân thét lớn: “Đồ chó, to gan thật!”. Nhanh như chớp, Trang Tiếu Thiên xông tới, rút xoẹt con dao đeo bên hông, đặt lên cổ một gã ăn xin, tay kia nắm chặt gã thứ hai, đấm đá túi bụi. Hai gã ăn xin sợ quá vội vàng khấu đầu cầu tha, đầu tóc bê bết đất cát toàn thân run bần bật, lạy như tế sao, không dám thở mạnh, trước một chàng trai hung hăng như mãnh hổ. Bỗng một trong hai gã ăn mày cất tiếng nói:
- Chúng tôi ăn xin kiếm sống chưa hề làm điều gì thất đức, phạm pháp, gây hại cho ai.
Trang Tiếu Thiên nghe vậy lại nhìn thấy dáng vẻ của hai người, nghĩ bụng, họ là người chân thật, nên rút dao lại, không quát mắng nữa, hỏi thăm hai gã về tăm tích của cha và em gái:
- Hai người đến đây lúc nào? Có biết chủ của quán này đi đâu không? Con gái chủ quán bị kẻ xấu nào bắt di?
Gã ăn xin đứng tuổi hơn vuốt chòm râu lưa thưa rối tung, lấm lét nhìn Trang Tiếu Thiên nói:
- Cậu ơi quán này chẳng còn ai cả, ba hôm trước ở đây xảy ra vụ giết người, nghe nói chủ quán chết, được bà con láng giềng chôn cất tại gò sau thôn, con gái chủ quán vì đã giết sai nha nên bị áp giải lên phủ Tổng đốc Vân - Quý. Nghe nói bà con ở đây đã cùng nhau viết đơn đưa lên tri phủ Đông Châu, vì vùng này thuộc quyền cai quản của Tri phủ Đông Châu. Chờ ho xong, nói tiếp: Nghe nói cô gái chủ quán sẽ bị chém đầu, chưa biết ngày nào, và cũng chẳng có tin tức gì thêm.
Sáng sớm, vạn vật thức dậy sau đêm rét dịu. Mặt trời ở phương đông từ từ nhô lên khỏi mặt đất, Vân Nam tháng năm, chìm ngập trong biển cả một màu xanh biếc, đồi núi dọc hai bên đường cái lớn là cỏ xanh vô tận, hoa cúc màu đỏ màu trắng, hoa mã lan màu tím, hoa bách hợp màu phớt hồng, hoa đại tử đầu màu đỏ thẫm, hoa sơn tô tử màu cánh sen, đẹp nhất to nhất là những đóa hoa trà rực rỡ, và nhiều loại hoa khác, tranh nhau khoe sắc, phơi bày hình dáng đáng yêu. Một dòng suối từ trên đỉnh núi xa xa đổ xuống hình thành một thác nước như dải lụa chảy qua vùng đất khá bằng phẳng, dọi lên ánh sáng mát dịu, gợn lên những làn sóng dập dờn, từ từ chảy về hướng đông, mơn trớn vỗ về những lùm cỏ dọc hai bên bờ suối.
Hòa Thân trên đường đến Côn Minh vào một buổi sáng như vậy. Con người tài ba như Hòa Thân nhìn thấy cảnh đẹp như vậy sao khỏi kinh ngạc, thầm nghĩ: Vân Nam xa xôi hẻo lánh, đường đi núi cao hiểm nguy, nhưng phong cảnh đẹp hơn cả vườn Viên Minh. Tuy không có đền đài lầu các, dã sơn phun nước, hành lang uốn khúc, hoa thơm cỏ lạ, nhưng làm cho tinh thần sảng khoái phấn chấn. Hòa Thân hít một hơi dài, lục phủ ngũ tạng như được rửa sạch, nói với Ca Ngưng:
- Miền đất hoang vu hẻo lánh, mà cảnh làm người đắm say!
- Hòa đại nhân, đây cách Côn Minh không quá mười mấy dặm đường, Côn Minh được mệnh danh là Xuân Thanh, nghĩ ràng phong cảnh Côn Minh có thể so với Triết Giang “bốn mùa liễu rủ xanh tươi, thôn xóm giàu có yên lành”. Ca Ngưng nói.
- Cảnh tuy đẹp, nhưng không nhất định làm cho người ta vui, nghĩ đến chuyến đi lần này gánh vác trọng trách chỉnh đốn công việc cai trị ở Vân - Quý, nhớ đến lời căn dặn sâu sắc của Hoàng thượng, lòng vô cùng lo lắng, hận là không thể làm rõ ngay vụ án này.
- Việc này cần phải bàn bạc nhiều, hôm qua Tri phủ Hồ Thường Thanh đã trình bày kế hoạch, có chỗ chưa thỏa đáng, đại nhân và tôi nên duyệt xem lại. Ca Ngưng nhíu mày nói tiếp: - Lý Thị Nghiêu là một lão thần chiến công hiển hách. Bình thường vào triều yết kiến Hoàng thượng, tâu gì cũng được Hoàng thượng chấp thuận, khó khăn lắm!
Không nói đến chuyện này thì thôi, chứ nói đến việc Lý Thị Nghiêu về kinh, Hòa Thân càng thêm bực tức.
Nguyên là, Hòa Thân và Lý Thị Nghiêu có mối thù sâu sắc, dồn nén từ lâu. Hòa Thân lòng dạ hẹp hòi, ghi nhớ hằn thù rất đậm. Lý Thị Nghiêu coi thường con người có bộ mặt đẹp, ăn nói khéo, nịnh nọt giỏi đó thường chê Hòa Thân từ cách nói năng đến hành động. Thực ra, chuyến đi Vân Nam này là do Hòa Thân bày đặt ra. Hòa Thân cười nhạt: “Rừng có mạch vách có tai, ta không nói thì ai biết được, cáo ranh ma không thoát khỏi cặp mắt người thợ săn, một khi tội của ông ta được công bố, xem ông ta còn có thể làm mưa làm gió được không. Hòa Thân hùng hồn nói với Ca Ngưng: “Chúng ta lên đường nào”. Vừa nói vừa bước lên kiệu, thị vệ Lý Thanh trải chiếc đệm da chó. Hòa Thân ôm chiếc lò sưởi, hai mắt lim dim, chìm trong suy nghĩ...
Buổi sáng hôm đó, Hòa Thân vô cùng sảng khoái. Bản tấu của Hải Ninh khiến ông hết sức phấn khởi nỗi mệt nhọc của chuyến nam tuần bỗng chốc sạch trơn, nghĩ đến sự tín nhiệm của Hoàng thượng đối với mình, việc tố cáo Lý Thị Nghiêu không khó lắm. Vội uống mấy ngụm nước hạt sen. Ngồi kiệu đi thẳng đến Tây Hoa Môn. Lúc ấy trời vừa hửng sáng, vừa bước xuống kiệu đã thấy Hải Ninh dầm mình trong hơi lạnh dưới ánh sáng những vì sao còn lại trên bầu trời. Một lát sau, các vị đại thần, trong đó có Thị lang bộ Hình Ca Ngưng, Đại tướng quân đại thần quân cơ đại học sĩ A Quế lục tục kéo đến. Các vị đại thần này rất coi thường Hòa Thân, chẳng hiểu vì sao lại là sủng thần của Đức Vạn tuế, nên không chiều ông ta không được. Giờ thìn vừa đến, lệnh truyền vang lên:
- Hoàng thượng có chỉ, buổi chầu bắt đầu.
- Tạ chỉ. Các đại thần hô to, chia thành hai hàng, khom người tiến vào Càn Thanh Cung. Tám thị vệ đeo gươm đứng nghiêm trên bậc thềm. Hai thái giám buông thẳng tay đứng hầu trước ngai vàng. Một hàng người sắp thành hàng ngang khom lưng trước Càn Long đang ngồi trên ngai vàng đồng thanh hô “vạn tuế “.
Càn Long truyền:
- Các ái khanh, có việc thì tâu, không việc bãi triều.
Càn Long tuy ngồi trên bệ ngọc, nhưng hồn còn vấn vương tận bờ sông Hoài, trong con thuyền lênh đênh trên sông Vận Hà, mơ màng tận miền Tô Châu, Hàng Châu. Các đại thần lần lượt dâng sớ tâu. Càn Long trước nay tự khoe mình là vị minh quân, chưa hề lơ là chính sự, ngay trong lúc nam tuần vẫn xét phê các sớ tấu, xử lý công việc, bận rộn suốt ngày, nhưng không hề mỏi mệt. Càn Long đang định khoát tay ra lệnh bãi triều, Hòa Thân bước ra khom lưng sát đất tâu:
- Hải Ninh, quan lo việc lương thực ở Vân Nam, từng làm án sát sứ Quý Châu có bản tấu, đang chờ bên ngoài.
Càn Long muốn gặp viên quan từ nơi xa xôi về, nên chuẩn y:
- Cho vào!
Hải Ninh đang bồn chồn đợi lệnh, bỗng nghe có lệnh truyền:
- Thánh thượng có chỉ, truyền Hải Ninh vào chầu!
Hải Ninh vội vàng vào Càn Thanh Cung.
Làm lễ xong, Hải Ninh rút ra từ tay áo bản tấu. Một tiểu thái giám tiếp nhận đệ trình lên Càn Long. Hải Ninh bấy giờ mới thở phào. Nhìn thấy các vị đại thần đứng hai bên, có vị nghi ngờ chưa rõ, có vị thầm thì bàn tán, lòng cảm thấy lo lo, đưa mắt nhìn làn khói thơm lượn lờ từ miệng con hạc trước bệ rồng bay lên, thấy rõ mặt mày của đấng Thiên tử Càn Long, chiếc áo long bào bằng gấm màu vàng Càn Long đang mặc, chiếc vương miện bằng vàng nạm một viên bích ngọc chính giữa. Mặt như trăng rằm, mắt mày thanh tú, nếu không có mấy nếp nhăn ở cuối mày, khó biết được Càn Long đã gần bảy mươi tuổi.
Càn Long đón nhận bản tấu, nhìn lướt qua, tức giận bừng bừng, nói to:
- Trẫm có nghe chuyện Lý Thị Nghiêu tham ô trục lợi chẳng qua Vân - Quý miền biên phòng quan trọng, Lý Thị Nghiêu đã vì triều đình chinh chiến nhiều năm, việc binh vất vả, nguy hiểm không nề, nên lượng thứ. Không ngờ Lý Thị Nghiêu coi thường ân huệ của Trẫm, to gan làm bậy, coi thường phép nước. Trẫm coi trọng đất nước, không vì tình riêng để hỏng xã tắc, việc Lý Thị Nghiêu không thể chỉ nghe một bên và bản tấu đơn sơ này.
Hải Ninh nghe vậy vội vàng dập đầu xuống đất tâu:
- Thần không đám dối trá Thánh thượng, xin Thánh thượng minh xét.
- Trẫm không có ý đó, lòng trung thành của ngươi, Trẫm rõ! Ý Trẫm là việc này rất quan trọng, nên cử một đại thần phụng chỉ điều tra trước, không vị tình riêng mà bỏ qua, điều tra tận gốc, Trẫm lấy xã tắc làm trọng, cân nhắc xử lý.
Đại thần quân cơ A Quế bước ra tâu:
- Thần xin lãnh chỉ.
Càn Long nhìn A Quế, nói:
- Trẫm biết tấm lòng trung của khanh, nhưng ngại khanh tuổi cao, Vân Nam lại là nơi xa xôi hẻo lánh, núi cao đường sá hiểm trở, sơn lam chướng khí, rất gian nan vất vả, Trẫm cho rằng....
- Nô tài xin lãnh chỉ. Hòa Thân vội quỳ xuống tâu.
- Trẫm hỏi khanh, khanh có tin Lý Thị Nghiêu tham ô trục lợi không?
Hòa Thân đảo qua đảo lại cặp mắt, nghĩ rằng đối với lớp công thần này, không đập tan thói ngạo mạn của họ thì uy phong của mình không thể nổi lên được danh vọng của mình cũng lu mờ. Đắn đo xong tâu tiếp:
- Lý Thị Nghiêu là Tổng đốc Vân - Quý xưa nay lập nhiều công trạng, ỷ thế đó làm điều xằng bậy. Trước đây, nói chuyện với nô tài, ông ta khoe khoang từng chinh chiến khắp nơi, lập nhiều công trạng, biên cương được yên ổn, khắp nơi bình yên, không sóng to gió lớn, đều nhờ ông ta. Coi thường các đại thần của triều đình, tự cao tự đại, chẳng ai bằng mình, muốn nhiều tiền nhiều của, coi thường kỷ cương triều đình, vậy là bất tuân bất kính những lời khuyên răn nhắc nhở của Hoàng thượng, ân đức của Hoàng thượng, là coi thường Hoàng thượng, nô tài cho rằng, trước hết cách chức ông ta, cho điều tra làm rõ, gọi ông ta về kinh, giao cho bộ Hình xét xử.
Càn Long đồng tình phần đầu lời tâu, nhưng bỗng chốc cách chức Lý Thị Nghiêu, nên chăng, suy nghĩ khá lâu. “Việc này bàn sau, đến đây, bãi triều” Hoàng thượng truyền. A Quý và các đại thần khác dám đối đầu với Hòa Thân mừng thầm, nhưng cũng có phần lo lắng và bực tức. Mừng vì mục đích của Hòa Thân lấy việc hất chân Lý Thị Nghiêu để đe dọa các quan không thành, lo và bực vì quả thật Lý Thị Nghiêu cậy công tư cao, coi thường kỷ cương triều đình, cũng cần tra xét. Bãi chầu xong, Hòa Thân không về phủ, đoán Càn Long sẽ đến Bắc Hải, lệnh cho phu kiệu đi thẳng đến Bắc Hải. Việc Hòa Thân đang tính toán chưa hoàn thành, ông đâu có chịu!
Ngũ Long Đình nằm về phía tây bắc hồ Thái Dịch, là nơi Càn Long thường đến dạo chơi. Từ đó nhìn lên chùa Bạch Tháp, Bạch Tháp xây theo kiểu người Tạng, như chiếc ô úp trên mái nhà, nguy nga, trang nghiêm, vút cao lên trời xanh, mặt tây của tháp, khói sương mù mịt, chiếc cầu vồng màu sắc rực rỡ bắc ngang như lướt trên ngọn sóng, những con hải âu tung cánh trên mặt nước, mải mê bay lên lượn xuống. Trời đất như hòa nhập làm một, hùng vĩ tráng lệ, khiến người ta cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Càn Long từ bờ Tây Bắc Hải bước lên đình Phù Thúy, nghỉ tại đó một lát, truyền cho thị hầu và mọi người cùng đi qua đình Dũng Đoan, bước vào đình Nhị Long Trạch, đình đầu tiên trong Ngũ Long Đình. Phía bắc hồ Thái Dịch, có một cái đình giữa nước gọi là đình Long Trạch, bên phải là đình Trừng Dạng và Tư Hương, bên trái là đình Dũng Đoan và Phù Thúy, phía sau có hai viên đá lớn. Ngũ Long Đình, mái lợp bằng ngói lưu li màu vàng, được xây dựng từ đầu thời Thuận Trị, tổ phụ của vua Càn Long, trải qua một trăm mười năm. Nét vẽ sơn dầu trên cột còn tươi rói, vì Ngũ Long Đình xây trên nước lại có những chiếc cầu đá uốn lượn kết thành hình con rồng vàng như dạo chơi trên mặt biển, Càn Long rất thích.
Trong Ngũ Long Đình, đình Long Trạch nằm chính giữa, mái tròn, bốn đình kia đều là hình vuông, theo thuyết trời tròn đất vuông lưu hành thuở ấy. Tròn thuộc trời, vuông thuộc đất. Đình Nhị Long Trạch hình tròn là nơi Hoàng đế Càn Long ngồi câu cá, bốn đình kia là nơi