Chương 11 BAN TƯỚC CỔ VŨ LÒNG TRUNG-TRỞ THÀNH HÀN LÂM CỦA ĐẤT NƯỚC
Hòa Thân nói: “Ta nghe tiếng đàn của nàng như ai oán, nước suối ngừng trôi, nhìn thấy nàng như đã quen biết”...
- Trong chăn gấm ấm êm, đôi trai gái đắm chìm trong giấc mộng giàu sang bị thức tỉnh bởi những tiếng gõ cửa nhặt khoan đều đặn...
- Càn Long nhổ nước bọt, Hòa Thân vội vàng rút khăn tay ra hứng...
Tháng mười một, năm Càn Long thứ năm mươi mốt, một trận tuyết lớn đổ ào ào xuống kinh thành Bắc Kinh. Đô thành nhà Đại Thanh được trang hoàng lộng lẫy, nhà cửa san sát, đường phố phồn hoa, cung điện hùng vĩ, nhà thổ đèn đuốc sáng rực, đã giảm mất khí thế vì trận mưa tuyết.
Sáng sớm hôm ấy, cung Càn Thanh đắm chìm trong giấc ngủ đông, một tiếng động cũng chẳng nghe thấy. Bên ngoài mưa tuyết rất to, đến nỗi trong nhà cũng nghe thấy được tiếng tuyết rơi rào rào xuống đất. Gió bấc thổi vù vù rít lên những âm thanh ghê rợn, khiến những mảnh giấy dán trên cửa số nảy lên đập xuống không ngừng.
Hoàng đế Càn Long quen dậy sớm, qua một đêm ngủ ngon trên giường ấm, bước lên thư án chất đầy tấu chương, đưa mắt nhìn qua những mảnh giấy bóng dán trên cửa sổ, tưởng mình dậy muộn, ngồi bên đầu giường gọi:
- Thái giám trực đâu. Giọng nói uy nghiêm, tiếng vang như chuông vọng.
Ngay lúc đó, từ cửa buồng bên, một thái giám già thân cận Càn Long vội bước ra.
- Sao không gọi Trẫm dậy sớm, tối qua đã bảo rồi cơ mà. Sáng nay Trẫm cùng Hoàng hậu đến hoa viên ngắm hoa mai.
- Tâu Đức vạn tuế, hãy còn sớm lắm. Viên thái giám nhìn nét mặt giận dỗi của Càn Long, run run nói, và đánh lửa thắp đèn.
- “Tuyết rơi tựa trời sáng. Ánh đèn như hoa mai”. Càn Long ứng khẩu đọc, hai câu thơ rồi nói tiếp: - Đêm qua ngủ sớm, hôm nay thức dậy không muốn ngủ nữa, thay áo quần.
Mấy thái giám đứng hầu bên cạnh nhìn nhau nghĩ bụng, Hoàng thượng ơi, Hoàng thượng ngủ ngon suốt đêm, còn mấy người chúng tôi, cứ để áo quần thế này mà nằm, mà ngủ gật, đâu có được ngủ? nghĩ cứ nghĩ, làm cứ làm. Mấy thái giám vừa vội vàng thay áo mũ cân đai cho Càn Long, vừa nói:
- Tâu Đức vạn tuế, không phải bọn nô tài này không biết cách hầu hạ Đức vạn tuế, ngoài kia tuyết rơi rất nặng, phủ kín trời đất, màu tuyết ánh lên giấy dán trên cửa sổ phát sáng, thực ra, hãy còn sớm lắm. Cung Càn Thanh chưa có ai dậy, Thái hậu và các phi tần còn đang trong giấc mộng, chưa thức dậy đâu.
- Đồ khốn, Hoàng hậu ngủ cũng có thể do các ngươi thầm thì thế này thế kia phải không? Trẫm phải phê thêm mấy bản tấu chương. Đợi ngày mai tuyết nhỏ lại, ta sẽ đi ngắm tuyết. Nói xong, Càn Long ngồi bên thư án. Mấy thái giám thè lưỡi, ai làm việc nấy.
Phê xong mấy tấu chương, Càn Long xua tay, hà hơi, đứng đậy, sắc mặt vẫn tối xầm như bầu trời u ám bên ngoài. Càn Long lo lắng không yên vì có một loạt vụ án tham nhũng, giáo hội, báo cáo kế toán, v.v... như tuyết bay vào tay mình, làm sao ngủ yên được? Trận mưa tuyết lớn này giống như trận mưa tuyết kia, khiến không biết bao nhiêu dân chúng khổ sở khó qua mùa đông dài dằng dặc. Vùng lũ lụt dọc miền Giang - Triết - An đã mở kho cứu tế chưa. Theo lệ thường, lúc này tuyết rơi không chỉ riêng ở kinh thành mà còn ở nhiều nơi khác, hàng năm đều có người chết đói, chết rét, chết bệnh, không biết các quan phụ mẫu châu huyện có làm tròn chức trách không, hay làm ô danh “vị vua nhân đức” của ta.
- Tâu Đức vạn tuế.
Càn Long giật mình quay lại, nheo mắt nhìn xem, té ra đó là một thái giám nội cung, đầu tóc đầy tuyết, thở hổn hển, quỳ dưới chân mình. Càn Long hỏi:
- Có việc gì vậy?
- Tâu Đức vạn tuế, hôm nọ các thị vệ bắt được mấy chú gà rừng đưa vào cung, Hoàng hậu lệnh cho nhà bếp hầm với thuốc được mấy bát, lệnh nô tài đến mời Đức vạn tuế đi thưởng thức, nếu bên ngoài trời không giá rét, nô tài đã tiện thể mang đến đây.
- Cảm ơn lòng tốt của hoàng hậu, ngươi về báo với Hoàng hậu, Trẫm còn một số việc chưa giải quyết xong, mấy bản tấu chưa phê duyệt, lẽ ra ta phải đi, nhưng vì quá bận. Đi đi!
- Thưa vâng. Viên thái giám rút lui.
Càn Long thầm nghĩ, không đến hậu cung, họ già rồi, chẳng có hứng thú, chỉ có Hòa Thân là được việc. Càn Long nhìn ra thế giới trắng xóa bên ngoài cửa sổ, trong sân có mấy bóng đen lay động, tiếng xúc tuyết thỉnh thoảng dội lại, tiếng nô đùa của bọn tiểu thái giám vang lên. Càn Long lên tiếng:
- Truyền lệnh Trẫm, Hòa Thân vào cung cùng Trẫm ngắm cảnh tuyết rơi. Chúng ta đi trước. Càn Long bước ra khỏi cửa, một luồng khí lạnh ập đến, Càn Long rùng mình.
Viên thái giám tùy tùng vội vàng khoác thêm lên người Càn Long chiếc áo da cừu, bên ngoài choàng thêm chiếc áo chẽn da cáo màu tím. Càn Long nói:
- Áo chẽn sao lại khoác bên ngoài?
- Đó là kiểu Đức vạn tuế, có thần sắc hơn.
Càn Long hài lòng gật đầu, vui hẳn lên.
Lúc này nhà bếp mang cơm đến, mấy món ăn Càn Long thích dùng. Đợi viên thái giám rụt rè nếm thử một lượt, Càn Long ăn mấy miếng, uống hơn một bát sữa dê, xoa tay nói với viên thái giám:
- Sáng nay không lên triều, ngươi đi hỏi các đại thần có việc gì tâu báo không, nếu có thì đến thư phòng đợi.
Thái giám giúp Càn Long đội mũ, thay giầy, che chiếc lọng vàng, mở cửa. Không ngờ vừa mở cửa, một luồng tuyết ập vào xen lẫn những viên tuyết vụn giá lạnh cứng đông, đập vào mặt Càn Long. Càn Long định né tránh, chạm phải hai thái giám vừa mở cửa đứng hai bên, nên đành cúi người xuống hất tuyết đi. Hai thái giám lo sợ Càn Long phát cáu, khép nép đứng một bên, không giám giúp Càn Long phủi tuyết. Càn Long cười ha hả, một hơi nóng thoát ra từ miệng khi ông lên tiếng:
- Cảnh tuyết rơi đẹp thật! Đúng là trời ban phước lành cho muôn dân. Sang năm nhất định được mùa lớn!
Đám thị vệ đại nội canh gác cổng thành, mình đầy tuyết đứng nghiêm tại chỗ, giương đôi mắt đen hạt nhãn nhìn Càn Long đi qua.
Đúng là một trận tuyết đẹp. Cầu Ngọc Đái và sông Kim Thủy mờ ảo, ngày thường nước sông chảy êm đềm, giờ đây lặng yên như mặt gương, qua một đêm, tuyết rơi thành lớp dày trên dòng sông đóng băng. Gió thổi lay động những ụ tuyết, hoa tuyết tung bay, quần đảo lượn lờ. Những khóm liễu rũ dọc hai bờ sông đẫm mình trong tuyết rung rinh rì rào trước gió. Những viên băng to bằng quả trám rơi lộp độp, chạm vào các ụ tuyết khiến hoa tuyết tung tóe bốn phía.
Càn Long rảo bước theo dọc hành lang, vuốt tóc, hà hơi, định đến quảng trường điện Thái Hòa dạo chơi. Càn Long rút tay ra khỏi găng tay, như một đứa bé vốc hai nắm tuyết xác vào lòng bàn tay, vừa đi vừa đưa mắt ngắm nhìn thế giới một màu trắng bạc, đôi ủng da hươu dẫm lên tuyết nghe rào rạo. Càn Long cao hứng vừa đi vừa hát một đoạn trong vở kịch “Quý Phi say rượu”, hát tiếp mấy câu “Kế thành trống”, đang hát đến đoạn “Tư Mã ra quân”, thì bỗng hai người hớt hải chạy đến, đưa mắt nhìn xem, hóa ra đó là viên thái giám mình vừa bảo đi truyền lệnh, người đi sau không biết là đại thần nào, hai hình người lờ mờ tiến đến trước mặt, lúc đó mới rõ người kia là Hòa Thân đi giầy da hươu đen, mặc áo bào cửu mãng ngũ trảo, ngoài khoác áo hoàng mã, nổi bật giữa màu tuyết trắng, rét đến môi thâm. Không đợi Hòa Thân quỳ lạy, Càn Long xót xa nói:
- Trẫm đã cho phép khanh ngồi kiệu đến thẳng nội cung cơ mà? Bệnh đau chân của khanh không nên đi bộ trong tuyết.
Hòa Thân cảm động rơi nước mắt:
- Đa tạ sự quan tâm của Hoàng thượng, nô tài mãi mãi không quên ân đức của Hoàng thượng. Nhưng vì đêm qua, tuyết rơi khắp nơi, lúc nô tài ở Cục Quân cơ phê chuyển công văn lên Hoàng thượng, bỗng nhận được tấu chương của Tổng đốc Mân - Triết, Thường Thanh từ xa tám trăm dặm cấp tốc gửi về, nô tài không dám chậm trễ, trời vừa sáng, đã đến triều bái kiến Thánh thượng, nghe công công thái giám truyền lệnh, nên vội đến ngay. Nói xong rút tấu chương từ trong tay áo ra, hai tay run run dâng lên Càn Long.
Càn Long nói:
- Ái dà? Hòa khanh, trận tuyết này đủ nói lên Trẫm đã lấy đức trị thiên hạ, rất được lòng dân khiến trời đất cảm động, tuyết rơi khắp nơi. Trẫm tin rằng, trong vòng hai ngày, các nơi sẽ tấu báo về. Trẫm dám mười phần khẳng định là trận tuyết chưa hề có trong vòng mấy chục năm qua, có lợi mà không có hại. Tuy nhiên, mối lo của trẫm không phải năm tới mà lo hiện lại, cái lo của bậc vương giả và cái lo của thứ dân không giống nhau. Trẫm đã nghĩ sẵn trong bụng, ngày mai Cục quân cơ gửi về các địa phương. Trẫm đọc khanh nghe: “Trời đổ tuyết, thật đáng vui đáng mừng. Sau mùa hè và mùa thu các nơi ít nhiều đều bị hạn hán, lũ lụt ; bước vào tháng mười một, lại có tuyết rơi nhiều, cũng có thể là mối lo. Thật đáng thương cho người đói rét không nhà để ở, mùa thu thu hoạch kém lại thêm thiên tai dồn dập, mong quan phụ mẫu khắp các châu phủ huyện, kiểm tra xem xét cẩn thận, không được để dân chúng đói rét, qua đông an toàn. Như vậy mới thực sự hợp với ý trời. Các quân cơ phải cử người đi các địa phương nắm chắc dân tình, tấu báo cụ thể”. Càn Long thao thao bất tuyệt tuôn ra những gì đã nghĩ trong bụng, lúc đắc ý, lúc trầm buồn.
Hòa Thân cười nịnh:
- Hoàng thượng cực anh minh, lo lắng cho muôn dân, khi về Cục quân cơ thần sẽ chuyển đạt ngay ý chỉ của Hoàng thượng đến khắp nơi để dân chúng thiên hạ đều biết tấm lòng nhân từ của Hoàng thượng.
- Đợi mấy hôm nữa cũng không muộn. Càn Long khoát tay.
- Tấu chương của Thường Thanh... Hòa Thân nói tiếp.
Càn Long hơi khó chịu, vung tay, một cục tuyết văng ra, đập “bịch” vào thân cây liễu. Hòa Thân cảm thấy một luồng hơi lạnh từ dưới chân xông lên rất khó chịu nên kéo viên thái giám lại chỉ vào chân. Viên thái giám hiểu ý, đến sau Càn Long, rụt rè tâu:
- Tâu Đức vạn tuế, theo nô tài, Người và Hòa đại nhân nên vào trong nhà trò chuyện. Trời rét lắm!
Càn Long nhìn thấy chân của Hòa Thân hơi quị xuống, gật dầu.
Từ bên ngoài gió tuyết rét buốt bước vào trong nhà ấm áp. Càn Long thấy cả người nóng rực, ánh tuyết chiếu qua cửa sổ, khiến trong nhà rực sáng màu tuyết trắng. Trong nhà có hơi lửa sưởi ấm, Hòa Thân cảm thấy dễ chịu. Càn Long thay áo giầy ẩm ướt, ngồi vào chiếc ghế mèm bằng da chồn, ra hiệu cho Hòa Thân thay giầy. (Thực ra, lúc mới quen biết Hòa Thân, Càn Long đã thầm kín sắp xếp để Hòa Thân cùng ngủ với mình một giường, dùng chung vật dụng, vì lý do gì, phần trước đã nói). Càn Long mở tấu chương do Hòa Thân đề trình xem kỹ:
“Kính gửi Cục quân cơ: Tổng đốc Mân - Triết, Thường Thanh xin cấp báo. Phỉ Lâm Sáng Văn, huyện Chương Hóa, Đài Loan tụ tập bè đảng, uy hiếp nghiêm trọng trật tự trị an trên đảo, quấy nhiễu dân chúng, giết người cướp của, chặn đường cướp tiền lương của quân đội, khí thế ngày càng hung hăng. Ngày hai mươi bảy tháng mười một, Tri huyện Chương Hóa, Dụ Tuấn khi đến Đại Đồn bắt giặc thì thành huyện cũng bị giặc chiếm. Thần đã cử Thủy sư đề đốc Hoàng Hóa Giản đưa hai ngàn quân qua eo bể để diệt phỉ, và cử các phó tướng, tham tướng, đô tư mang quân theo nhiều ngả tiến công”. Thần ở Tuyền Châu, cùng với Đề đốc lục quân Nhiệm Thừa Ân phối hợp chỉ huy, đã cử Tổng binh trấn Kim Môn, La Anh Cấp gấp rút đến Hạ Môn trấn áp, và lệnh cho các châu huyện vùng ven biển cảnh giới đề phòng, đã gửi công văn yêu cầu tuần phủ Quảng Đông, Triết Giang kiểm soát chặt chẽ các cửa biền...”
Càn Long xem xong, chau mày, nói với Hòa Thân:
- Hòa ái khanh, ý khanh thế nào?
Hòa Thân hiểu ý Càn Long qua ánh mắt, vừa cười vừa nói:
- Hoàng thượng, theo ý nô lài, Lâm Sáng Văn chẳng qua là một tên vô danh tiểu tốt, muốn chết mà không có gan, chỉ mê hoặc mấy tên mu muội cùng chết, theo nguyện vọng của hắn, hãy bắt hắn và mấy tên đồng đảng xử chết lăng trì.
- Hòa ái khanh, khanh mới nói đúng một nửa, ý Trẫm là đã sắp đến mùa đông giá rét, lẽ nào Thường Thanh không biết dùng binh vào mùa đông là tối kỵ của người làm tướng, điều đó không cần phải bàn, Trẫm biết, quân đội Đài Loan có Tổng binh, phó tướng và hơn một vạn hai ngàn lục quân thường trực, hơn hai ngàn thủy quân. Lẽ nào quốc gia nuôi nhiều quân như vậy mà đều vô dụng, để ngắm mà không dùng được? Một tên Lâm Sáng Văn cỏn con mà Thường Thanh đã làm toáng lên. Rõ là việc nhỏ làm to, mắt chuột nhìn gần, quá ư sợ hãi.
Càn Long đầy vẻ tức giận, Hòa Thân ngồi không yên, bởi vì Thường Thanh là môn sinh đáng yêu của ông. Chức Tổng đốc Mân - Triết của Thường Thanh là do ông vun đắp. Viên ngọc dạ minh châu to nhất thế gian trong nhà Hòa Thân là của Thường Thanh biếu. Hòa Thân nhớ rõ, tất cả châu báu trong hoàng cung không có viên nào sánh nổi với viên ngọc ấy, ông vui thích suốt mấy ngày liền khi được nó, cứ đêm thức dậy cầm hộp đựng viên ngọc, từ từ mở, ánh sáng viên ngọc tỏa ra bốn phía, bên trong viên ngọc như có chất thuỷ tinh chuyển động, lấp lánh. Hòa Thân khom người sát sau lưng Càn Long nói:
- Hoàng thượng nói chí lí, Lâm Sáng Văn chẳng qua là một tên phỉ cỏn con, Thường Thanh sao lại làm cho các tỉnh, các vùng lân cận lo sợ, sao lại cử đề đốc hai lộ đến Đài Loan tiễu trừ tên giặc cỏ họ Lâm. Đức vạn tuế, chi bằng gọi Thường Thanh về, nô tài sẽ cho hắn một bài học. Tất cả do nô tài không quản giáo tốt, mới gặp chuyện bằng con muỗi mà đã tưởng là con voi sợ bóng, sợ gió, thần hồn nát thần tính, còn đâu là khí phách của một Tổng đốc?
Càn Long nghe rất hợp ý mình, nói:
- Hòa ái khanh còn nhớ không, trong lịch sử nhà Đại Thanh ta, từ khi thu phục Đài Loan từ tay Trịnh Thành Công của nhà Minh đến nay, hòn đảo này luôn an toàn, dân chúng an cư lạc nghiệp, chỉ hai năm qua, đây là lần đầu tiên, trên đảo có hiện tượng lộn xộn bất an, Trẫm cho là do các quan lại địa phương không làm tròn trách nhiệm, ngày thường chỉ lo lợi riêng, không lo cai trị, để cái sảy nảy cái ung, gây ra tai họa.
Càn Long biết rõ, trước nay Thường Thanh và Hòa Thân rất thân nhau, mà Hòa Thân là tâm phúc của mình, là cánh tay của mình, một ngày không thể xa. Do vậy khi nói, cố ý đổ trách nhiệm cho bên dưới. Hòa Thân khá tinh ranh, thầm cảm ơn và tâu:
- Hoàng thượng nói chí phải. Hoàng thượng cực kỳ sáng suốt. Việc nhỏ như thế này cũng lo lắng, quả thực không có cách nào bày tỏ, nô tài sẽ cảnh báo Thường Thanh để ông ta biết việc gì nên tâu, việc gì không nên tâu lên Hoàng thượng.
Càn Long an ủi:
- Như vậy Hòa ái khanh không những yêu môn sinh của mình, mà còn là tấm gương cho triều đình, tấm gương cho các đại thần. Bất tất phải cảnh báo. Thường Thanh cũng vì xã tắc Đại Thanh, nhưng vì tầm mắt thiển cận, sợ địch như sợ hổ. Càn Long đừng lại một lúc, đưa mắt nhìn hoa tuyết đang bay lượn bên ngoài cửa sổ, nói tiếp: - Không ít người xưa ví hoa tuyết như tơ liễu, Trẫm cho rằng, đó là một tầm nhìn sâu xa. Mùa đông giá rét, tuy không đẹp bằng mùa xuân hoa nở, mùa thu trĩu quả, nhưng cũng có tiết xuân thu không có cảnh đẹp. Như việc chinh chiến chúng ta đang bàn luận, không tránh được việc chém giết quá nhiều, nhìn trời cao, những đám tuyết trắng rơi xuống, thật không hòa hợp, ít nhiều trái khoái. Hôm nay nhàn rỗi, nếu không ngại, hãy ngồi bên cửa sổ cùng Trẫm chơi cờ được không? Xem tài nghệ của khanh ra sao?
Hòa Thân cả mừng vỗ tay cười nói:
- Đức vạn tuế có nhã ý như vậy, nô tài đâu dám từ chối. Trời đất Đại Thanh đã định, gốc rễ sâu bền, Đức van tuế đã tính toán sẵn mọi việc, bàn cờ này là trời đất, nô tài đâu phải là đối thủ của Đức vạn tuế. Trời đất to nhỏ này đều nằm trong tay Đức vạn tuế. Chỉ chơi cờ thôi ư? Hình như còn thiếu thứ gì nữa cơ?
Càn Long thấy Hòa Thân còn vòng vo tam quốc bèn nói thẳng:
- Khanh sao qua được mắt Trẫm. Rượu, phải không nào? Đã chuẩn bị mấy vò rượu ngon kia rồi.
- Đức vạn tuế quả thật chu đáo, đúng là vị vua nhân đức.
Thái giám mang bàn cờ đến, một lát sau mùi rượu hâm nóng xông lên ngào ngạt. Càn Long cùng Hòa Thân, vừa là quan hệ vua tôi, vừa là quan hệ chủ tớ, thưởng thức rượu ngon, nói cười thoải mái. Đâu có nghĩ đến, lúc này Đài Loan đang rơi vào cảnh mưa sa bão táp, lửa cháy mù mịt.
Đài Loan giàu đẹp lôi cuốn đông đảo người dân đại lục. Theo đà di dân ồ ạt, kết cấu chủng tộc cư dân Đài Loan có nhiều biến đổi. Dân tộc Cao Sơn bản địa ngày càng ít đi, so với những người từ miền duyên hải như vùng Mân, Quảng, Triết dời đến, phần lớn trong số đó là những kẻ vi phạm lệnh cấm nhập cảnh. Từ lâu họ trốn tránh sự kiểm soát của quan lại, nhưng từ khi triều Đại Thanh thống nhất, việc quản lý hộ tịch rất chặt chẽ, nếu không được lệnh quan, dân chúng không được tuỳ tiện di chuyển. Những người từ miền duyên hải di dân đến khai khẩn đất hoang không tránh khỏi các cuộc xung đột với cư dân bản địa, giữa những người di cư với nhau, thỉnh thoảng cũng xảy ra xung đột tranh giành đất đai. Bởi vậy, theo đà di dân ồ ạt, các tài nguyên trên đảo cũng được khai thác, dẫn đến các cuộc xung đột liên tiếp giữa dân di cư với dân bản địa, giữa người Mân và người Việt (Quảng Đông), các cuộc đấu đá giữa các châu Chương, Tuyền, Hồ, Huệ. Lại thêm cảnh quan lại tiến hành hòa giải không vì mục đích công chính, mà chỉ dựa vào danh nghĩa cai trị để vơ vét của cải, khiến việc cai trị thối nát. Dân chúng người Hán từ đại lục đến Đài Loan mưu sinh buộc phải kêu gọi người dân tha phương nơi đất khách lập ra những phe đảng theo nguyên quán, cùng nhau hỗ trợ giúp đỡ, liên hiệp lực lượng, để sinh tồn, phát triển. Mỗi khi có mâu thuẫn với di dân gốc gác nơi khác hoặc với cư dân bản địa, thì huy động toàn thể, khi bị quan trên trừng trị hoặc đàn áp thì nổi dậy chống lại.
Trong bối cảnh đó, dân chúng được tôi luyện trong điều kiện ngặt nghèo, có thể chịu khổ, giàu tinh thần chống đối, kết bè bạn có thể liều chết để bảo vệ quyền lợi chứ không chịu thua thiệt, họ lập ra những tổ chức bí mật, ví như: Hội Thiếc Tiên, Hội Tiểu đao, Hội Thiếc xích, Hội Phụ mẫu, v.v... Hội Thiên địa là một tổ chức bí mật có ảnh hưởng khá lớn. Lâm Sáng Văn là thủ lĩnh của Hội Thiên địa.
Lâm Sáng Văn vốn là người huyện Bình Hòa, Châu Chương, tỉnh Phúc Kiến, sinh năm Càn Long thứ 22. Lâm Sáng Văn mười sáu tuổi theo cha và cả gia tộc đến định cư tại Đại Lí Y Trang, huyện Chương Hóa, Đài Loan. Thuở nhỏ Lâm Sáng Văn đẩy xe, phục dịch ở huyện nha, nhưng phần lớn thời gian làm lụng ngoài đồng ruộng. Cấy cày tuy có vất vả hơn, nhưng thu hoạch nhiều hơn ở nội địa. Có nhà sử học triều Đại Thanh từng phân tích như sau: “Đài Loan không thể có loạn, ở đây đất tốt của nhiều, làm một thu ba, ban đêm nhà không đóng cửa”. Qua đó, thấy rõ Đài Loan giàu có. Năm Càn Long thứ 48, Lâm Sáng Văn gia nhập Hội Thiên Địa, do vậy những người đồng hương ở các nơi như Chương Hóa, Chư La, Đạm Thủy, Phong Sơn, v.v... đều gia nhập Hội Thiên Địa. Khẩu hiệu “Một người gặp nạn, mọi người cùng giúp” của Hội Thiên Địa tăng thêm sức mạnh kết dính của tập đoàn di dân. Lâm Sáng Văn lại nghĩa khí hào phóng, đem của cải nhà mình ra giúp đỡ hội viên và dân nghèo, nên có uy tín và ảnh hưởng rất lớn trong hội viên, mọi người rất khâm phục. Trong quá trình truyền bá giáo nghĩa của Hội Thiên Địa, Trang Đại Điền, người cùng quê Bình Hòa nay cư trú ở huyện Phong Sơn trở thành bạn tâm đầu ý hợp với Lâm Sáng Văn, thường thư từ qua lại với nhau, anh hùng gặp anh hùng.
Tháng bảy, năm Càn Long thứ năm mốt. Quyên cống Dương Quang Huân, huyện Chư La và người em là giám sinh Dương Công Khoan đấu đá nhau vì chuyện tranh giành tài sản do cha mẹ để lại, quên mất tình cốt nhục. Dương Quang Huân đã tham gia Hội Thiên Địa, được Hội ủng hộ. Khi người em đến nhà, người anh liền cho một chưởng, máu chảy đầm đìa, người choáng váng, cô vợ nước mắt đầm đìa cõng anh ta về nhà. Một ngày rưỡi sau, Dương Quang Huân lại đến đòi tài sản thừa kế. Dương Công Khoan cố gượng dậy, tay cầm cây dùi sắt dài đâm thẳng vào ngực người anh. Dương Quang Huân né tránh, nhưng bị chiếc dùi sắt đâm thủng vành tai trái, làm đứt nửa vành tai. Dương Quang Huân ôm nửa vành tai còn lại quỳ trước Hội trưởng Hội Thiên Địa là Lâm Sáng Văn, khóc thảm thiết, yêu cầu giúp đỡ. Lâm Sáng Văn không nói không rằng dẫn một nhóm hội viên bao vây nhà Dương Công Khoan. Hội Thiên Địa quy định, hội viên khi vào Hội đều được gọi là anh em, phải quỳ xuống thề với trời đất trước hương án có đặt rượu pha máu gà, rồi cùng uống máu ăn thề. Do đó Lâm Sáng Văn phải giúp đỡ người anh em của mình là dĩ nhiên. Chỉ một lát, họ đã đập phá tan tành các vật dụng trong nhà Dương Công Khoan.
Cả nhà Dương Công Khoan, già trẻ năm người, tức quá chửi mắng Hội Thiên Địa. Sau khi tính toán kỹ, Dương Công Khoan viết một tờ cáo thị lập Hội Lôi Công, đem của cải giúp đỡ hội viên, ai cũng là người bằng da bằng thịt cả mà, nên nhiều người chạy theo Dương Công Khoan. Thế là chuyện tranh giành tài sản giữa hai anh em biến thành cuộc đấu đá tập thể giữa Hội Thiên Địa và Hội Lôi Công.
Người đứng đầu địa phương cấp tốc báo cho Tổng binh Đài Loan, Sài Đại Kỷ. Sài Đại Kỷ, người Giang Sơn, Triết Giang, xuất thân tiến sĩ võ, lần lượt nhận chức phòng vệ Phúc Kiến, Tổng binh trấn Hải Đàn, Tổng binh Đài Loan. Sài Đại Kỷ cùng Vĩnh Phúc, đảo trưởng Đài Loan lệnh cho thuộc hạ đi điều tra. Tổng binh Trần Hòa bắt được Trương Liệt, hội viên hội Thiên Địa. Một nhóm trong Hội Thiên Địa, ngay chiều hôm ấy phục kích Tổng binh Trần Hòa trên đường về. Lâm Sáng Văn thét:
- Thả người anh em chúng ta ra! Vừa thét vừa vung đao đâm chém quan binh.
Trần Hòa thua chạy. Lâm Sáng Văn giương cung bắn trúng yết hầu của Trần Hòa. Trần Hòa rơi xuống ngựa chết, quân lính đi theo thấy chủ tướng chết, hoảng sợ tranh nhau chạy trốn. Hội Thiên Địa cứu được Trương Liệt. Sài Đại Kỷ tức giận, sáng hôm sau tự mình cùng Vĩnh Phúc đến Chư La, bắt Dương Công Khoan và năm mươi ba người, ra cáo thị lùng bắt Lâm Sáng Văn, gọi Hội Thiên Địa là Hội Thêm Huynh, nhằm biến chuyện to thành chuyện nhỏ, kết thúc vụ án bất hòa giữa hai anh em Dương Quang Huân, tránh sự khiển trách của triều đình vì liên quan đến Hội Thiên Địa vi phạm lệnh cấm. Quả nhiên động tác đó lừa được Càn Long.
Càn Long xem xong bản tâu của Thủy sư đề đốc Phúc Kiến, Hoàng Sỹ Giản, mặt mày hớn hở, ban lệnh khen thưởng Sài Đại Kỷ và Vĩnh Phúc, cho rằng họ xử lý vụ việc thỏa đáng. Càn Long cảm thấy Hội Thêm Huynh, mấy từ đó rất có ý nghĩa, ngẫm nghĩ một lát, bật cười nghĩ bụng, đảng phái ở Đài Loạa thì rất nhiều, mang nhiều tên thật kỳ quặc, Hội Thêm Huynh là tổ chức như thế nào?
Vì sao Sài Đại Kỷ gọi Hội Thiên Địa là Hội Thêm Huynh? Vì sao Càn Long suy nghĩ như vậy về các tên của những tổ chức đó? Nguyên là, Tổ chức Hội Thiên Địa hình thành từ thời Khang Hy. Trương Nhất Quý, nguyên quán ở phủ Chương Châu, lớn lên di cư đến Phong Sơn, là một trong những thủ lãnh của Hội Thiên Địa ở Hồng Môn, sống bằng nghề nuôi vịt, nhưng rất hào hiệp, nên có nhiều chí sĩ dưới triều Đại Minh, các lục lâm hảo hán vùng Sơn Trạch, các hiệp khách tăng lữ thường đến giao du, uống rượu bàn chuyện thời sự, rất chi hợp ý. Tri phủ Đài Loan lúc bấy giờ là Vương Trân, một tên quan tham ô lại, tàn bạo, bày đặt bao nhiêu thứ thuế, tìm cách vơ vét của cải; nếu dân chúng không nộp thì đánh đập, bắt giam năm ba tháng, những vụ kiện tụng, ai có tiền thì thắng, ai không tiền thì thua. Dân chúng Đài Loan vô cùng căm phẫn. Mùa đông, năm Khang Hy thứ 59, trời rét đậm lạ thường, lại xảy ra động đất, nhiều người thất nghiệp, khắp nơi phao tin đồn nhảm. Chu Nhất Quý được các chí sĩ phản Thanh phục Minh khuyến khích, phất cờ đứng lên, thanh thế ngày càng lớn, chỉ sau ba tháng đã có đến hàng ngàn người hưởng ứng, đánh bại quân Thanh, đánh thành cướp đất, phần lớn quan lại nhà Thanh không biết xử lý thế nào, đành kéo nhau chạy về Phúc Kiến, làm chấn động khắp nơi trong nước. Khang Hy lệnh cho Tổng binh Áo Môn, Lam Đình Trân vượt biển diệt phỉ. Lúc này Chu Nhất Quý đã xưng vương hiệu. Trong số người theo ông có một số chí sĩ trung thành với nhà Minh, còn đa số chỉ vì tham lam của cải, muốn giàu sang phú quý, say sưa với danh vị hão huyền, khiến nội bộ hàng ngũ nghĩa quân mâu thuẫn, tàn sát lẫn nhau, lực lượng bị suy yếu nhiều. Lam Đình Trân họp các cánh quân tấn công An Bình, nơi cố thủ của Chu Nhất Quý, trong vòng bảy ngày đã chiếm cứ xong. Chu Nhất Quý thua và bị bắt, nhưng vẫn hiên ngang bất khuất bị giải về kinh, quan lại bộ Hình hỏi ông, là một người dân thường, mưu chuyện phản nghịch, vì sao vậy? Chu Nhất Quý bình tĩnh trả lời vì muốn khôi phục giang sơn Đại Minh. Tuy cuộc nổi loạn chỉ hoạt động được trong mấy tháng trời, nhưng Khang Hy cũng phải vất vả lắm mới giải quyết xong, mãi đến cuối, mới tạm gọi là yên ổn. Chu Nhất Quý bị xử tử lăng trì, đồng đảng chỉ cần thừa nhận sai lầm thì được tha chết, khỏi phải truy cứu. Các quan lại chạy trốn khỏi Đài Loan thì nghiêm trị. Đối với Tri phủ Vương Trân tham ô tàn bạo, tuy đã tự vẫn vì lo sợ, nhưng không được miễn tội, phải đào mồ phơi xác. Các tướng sĩ có công đều được ban thưởng. Tổ chức phi pháp Hội Thiên Địa ở Đài Loan tan rã.
Sài Đại Kỷ đương nhiên không dám tâu ở Đài Loan có Hội Thiên Địa.
Đầu tháng mười một, Tổng binh Sài Đại Kỷ đi tuần đến Chương Hóa. Tri huyện Chương Hóa đề nghị Sài Đại Kỷ đưa quân trấn áp Lâm Sáng Văn. Sài Đại Kỷ không đáp ứng, cho rằng Lâm Sáng Văn chẳng qua là một tên tép riu, cần gì phải đao to búa lớn. Yêu cầu một Tổng binh như tôi ra tay, chẳng phải nực cười ư, chẳng phải đề cao hắn ư? Về đến doanh trại Sài Đại Kỷ cử Cảnh Thế Văn dẫn ba trăm lính, cùng với Tri phủ Đài Loan, Tôn Cảnh đến Chương Hóa. Tri huyện Chương Hóa, Dự Tuấn cử sai dịch Dương Chấn Quốc đi trước bắt Lâm Sáng Văn. Dương Chấn Quốc diễu võ dương oai lùng sục thôn xóm, nhưng chẳng gặp một ai, toàn vườn không nhà trống, nhưng vừa định quay về, hơn hai trăm hội viên Hội Thiên Địa từ dưới đất ào ào xông lên bao vây Dương Chấn Quốc và quân của ông ta. Hảo hán tạm thời chịu mất mặt, giơ tay đầu hàng. Suốt hai ngày liền, Dự Tuấn và phó tướng không dám đem quân đến cứu, ngồi chờ Cảnh Thế Văn đến. Hạ tuần tháng mười một, Dự Tuấn và Cảnh Thế Văn dẫn sáu, bảy trăm quân đến thẳng Đại Đôn, vì nghe tin Lâm Sáng Văn đã đến đấy, cướp giật của cải của các tổ chức khác, may cờ xí, chế tạo vũ khí, chiếm cứ mấy chục nhà dân, chuẩn bị giương cờ khởi sự. Dự Tuấn và Cảnh Thế Văn đóng quân tại bên ngoài làng, bàn bạc suốt cả buổi trưa mà chẳng quyết định được ai cầm quân tiến vào trước, toàn là lũ tham sống sợ chết. Bàn đi bàn lại, Dự Tuấn nói:
- Cảnh tướng quân, trước đây liên quân Tôn Quyền - Lưu Bị đánh Tào Tháo tại trận Xích Bích đã dùng kế gì?
Cảnh Thế Văn nghĩ thầm, con cáo già này thật xảo quyệt, Lâm Thế Văn là người dân thuộc địa phương hắn quản lý, ta chỉ đến đây hỗ trợ mà thôi, hắn muốn dùng kế hỏa công đốt nhà, nên nói:
- Dự tri huyện, đốt nhà dân, hậu quả ai chịu?
Dự Tuấn lầm lỳ nói:
- Cảnh tướng quân khỏi lo. Chúng ta chẳng ai chịu trách nhiệm. Vì, một là, ai cho phép dân chúng bỏ nhà đi nếu truy cứu, còn phạm tội thêm; hai là, nhà cháy, Lâm Sáng Văn buộc phải chạy ra, chúng ta tóm hắn, mọi tội lỗi đều trút lên đầu hắn.
Cảnh Thế Văn gật đầu. Mọi việc được chuẩn bị xong. Cả thôn Đại Đồn chìm trong bể lửa. Khói lửa mịt mù, ngọn lửa bùng lên theo sức gió, nhờ gió lửa càng ra oai. Cả thôn Đại Đồn đẹp đẽ như vậy đã biến thành đống tro tàn sau hai giờ bị đốt cháy. Dân làng khóc than vang trời, ruột gan xé nát, ngơ ngác nhìn đống của cải được tích luỹ qua mất đời bị cháy rụi, thành quả lao động do mổ hôi nước mắt làm ra tan thành mây khói. Những người khỏe mạnh thì căm thù, cầm dao liềm gậy cuốc mở đường máu chạy theo Lâm Sáng Văn. Người già yếu và đàn bà trẻ em thì đứng đó vỗ ngực khóc than. Ngọn lửa đã thổi bùng quyết tâm chống Thanh của di dân Đài Loan. Dự Tuấn và Cảnh Thế Văn bắt được mấy người già yếu bệnh tật chạy loạn, hỏi dò mới biết Lâm Sáng Văn không ở Đại Đôn, nên rất lo sợ.
Dân thôn Đại Đôn vô cớ bị nhà nước thiêu hủy nhà cửa, bị quân lính cướp bóc, của cải mất trắng, vô tội mà mang họa, ai nấy đều liều mạng chạy vào rừng Đại Lý, than khóc với Lâm Sáng Văn và yêu cầu che chở. Trước tình hình đó, Lâm Sáng Văn nói với thuộc hạ:
- Xưa nay, quan hiếp dân chống, lẽ nào dân không chống? Mấy năm qua chúng ta làm lụng vất vả đã được những gì? Theo lý, quan phải yêu dân như con, có vậy mới gọi là quan phụ mẫu của dân. Bây giờ chúng ta đã thấy những người làm quan ở đảo này, có người nào là không tham quan ô lại, không hãm hại dân lành? Từ Sài Đại Kỷ mới làm quan chưa đến hai năm đến Tri phủ Tôn Cảnh Toại, các cấp quan lại, có người nào không ức hiếp dân, không cướp bóc, đốt nhà cửa? Sống kiếp trâu ngựa, chẳng băng dựng cờ khởi nghĩa, diệt trừ tham quan ô lại, cứu vớt muôn dân.
Dân chúng nghe rất kích động, ngay cả tên nha dịch huyện Dương Chấn Quốc cũng hết sức cảm động đứng trên bàn nói to:
- Có thể mọi người không biết, Sài Đại Kỷ tham ô hai vạn lạng, Tôn Cảnh Toại bỏ bê công việc, để hao hụt hàng triệu lạng bạc của nhà nước, trong lúc đó hầu bao của ông thì căng phồng. Nghe lời hiệu triệu của Lâm đại sư, tôi xin thuận thiên hành đạo, diệt hết bọn quan lại chó má chuyên áp bức dân chúng.
Tối hôm đó, Lâm Sáng Văn lãnh đạo dân chúng đứng lên khởi nghĩa, đưa ra khẩu hiệu: “Diệt trừ tham quan”. Lâm Sáng Văn tự xưng Đại soái, tức là Đại Nguyên Soái của các minh chủ các nơi, giết trâu uống máu ăn thề, chế tạo vũ khí, dựng cờ soái. Ngay đêm đó tấn công vào doanh trại quân Thanh. Dự Tuấn, Cảnh Thế Văn và quân lính đang ngủ say không kịp phản ứng, đều bị quân khởi nghĩa Hội Thiên Địa tiêu diệt toàn bộ. Có lẽ Dự Tuấn và Cảnh Thế Văn ban ngày đốt phá tung hoành, không nghĩ rằng, chỉ mấy giờ sau, nắm tay nhau xuống chầu Diêm Vương. Sáng sớm hôm sau, Lâm Sáng Văn thừa thắng truy kích, đánh chiếm thành huyện Chương Hóa, giết chết các tên tham quan như Tri phủ Tôn Cảnh Toại, Tri huyện Lưu Hưởng Cơ, Đô tư Vương Tông Vũ, Thử điển Phùng Tông Khởi... Đầu tháng mười hai, đánh chiếm Trúc Tiệm, giết chết Tuần kiểm Trương Chi Kinh. Lực lượng quân khởi nghĩa liên tiếp giành thắng lợi và lớn mạnh, nhận được nhiều lương thực và vũ khí, những tù nhân trong ngục được thả ra cũng gia nhập nghĩa quân Lâm Sáng Văn.
Lâm Sáng Văn tự xưng “Thuận thiên minh chủ” đưa ra cáo thị, giương cao lá cờ “Diệt trừ tham quan”, để hiệu triệu dân chúng, rất được lòng người. Cáo thị như sau: “Vì bọn tham quan ô lại, áp bức dân đen, do vậy minh chủ thuận theo ý trời mà làm, dựng cờ khởi nghĩa, diệt trừ tham quan, cứu vớt muôn dân, thỏa mãn lòng dân. Riêng với nghĩa quân, không được giết người cướp của, bất nhân bất nghĩa chết dưới gươm dao...”. Sau khi chiếm được Chương Hóa, nghĩa quân thành lập bộ máy chỉ huy quân sự lâm thời. Ngoài việc tự xưng Đại Nguyên soái, Lâm Sáng Văn cử Dương Chấn Quốc làm Phó Nguyên soái, và phong chức cho người có công. Quân khởi nghĩa cũng ra cáo thị thực hiện quân kỷ nghiêm minh: “Từ nay về sau nếu trong nghĩa quân có ai bất chấp kỷ cương, cả gan quấy nhiễu thôn xóm, cướp của hiếp người, cho phép dân chúng bắt trói đưa về thủ phủ, theo luật nghiêm trị, quyết không dung tha”. Quân khởi nghĩa còn định ra chế độ thuế: Đất đồi núi thu chín phần trăm, ruộng nước thu mười sáu phần trăm, nếu không đủ dùng thì quyên góp thêm những hộ giàu. Trung tuần tháng mười hai, nghĩa quân tấn công Chủ Hạ, giết chết Tri huyện Đổng Khởi Diên, Điện sử Chung Yến Siêu. Thanh thế nghĩa quân đã cổ vũ các tổ chức Hội Thiên Địa những nơi khác. Trang Đại Điền ở Đài Nam sẵn có mối thâm giao với Lâm Sáng Văn, nghe tin Lâm Sáng Văn đã phất cờ khởi nghĩa, nên cùng với người anh em trong họ tộc lãnh đạo dân làng uống rượu ăn thề, chế tạo vũ khí, tuyên bố khởi nghĩa. Chỉ trong mấy ngày, đã có hàng vạn người đi theo. Chẳng mấy chốc, Trang Đại Điền đã đánh chiếm thành huyện Phong Sơn, hợp đồng với Lâm Sáng Văn tấn công thành phủ. Quân Thanh trong thành phủ tăng cường phòng bị, Tổng binh Sài Đại Kỳ, tướng Thái Phan Long chia nhau phòng thủ hai mặt nam bắc.
Sài Đại Kỷ đốc chiến suốt ngày đêm, cố thủ thành phủ, tự mình dẫn hơn một ngàn quân ra khỏi thành năm mươi dặm đánh nhau với Lâm sáng Văn và Dương Chấn Quốc. Trên đường tháo chạy, Dương Chấn Quốc bất ngờ bị quân phản bội giết chết. Sài Đại Kỷ cho người đến Phúc Kiến cấp báo, Tổng đốc Mân - Triết Thường Thanh, một mặt cấp báo lên Càn Long, một mặt cử Thủy sư đề đốc Hoàng Sỹ Giản, Lục quân đề đốc Nhiệm Thừa Ân đem quân vượt biển đến Đài Loan cứu viện. Sau khi được viện binh, Sài Đại Kỷ thấy chức vị mình thấp hơn hai đề đốc nên đề nghị Hoàng Sỹ Giản tạm thời làm Tổng chỉ huy, khôi phục các thành. Không ngờ viện binh của Phúc Kiến toàn là vô dụng, đều bị Lâm Sáng Văn đánh bại; Lục quân đề đốc Nhiệm Thừa Ân tuy tự mình lên ngựa ra trận, đánh vào sào huyệt quân địch, nhưng cũng bị nghĩa quân đánh lùi nên không dám tiến đánh nữa. Từ sau khi tấn công Lộc Cảng, huyện Chương Hóa, quân Thanh ngồi nhìn không dám tiến quân. Lâm Sáng Văn nắm thời cơ thuận lợi quan quân nhà Thanh không dám tiến đánh đã cùng với Trang Đại Điền thừa thế mở cuộc tấn công lớn, ra sức cắt đứt liên hệ giữa thành phủ với Lộc Cảng. Trước thế Lâm Sáng Văn mạnh, Hoàng Sỹ Giản cố thủ trong thành phủ, Nhiệm Thừa Ân ngồi im ở Lộc Cảng, ngồi chờ đợi lẫn nhau, chỉ đưa một ít quân ra ngăn chặn cuộc tấn công của nghĩa quân. Thực tế quân Thanh rơi vào tình thế vô cùng bị động.
Tháng ba năm Càn Long thứ năm mươi hai.
Cổng phủ Hòa Thân thường khép kín, hôm ấy bỗng mở tung ra. Đại tổng quản Lưu Toàn tay cầm phong thư bước vào cửa. Hai cánh cửa bằng gỗ nam mộc màu đồng tím chạm trổ tinh vi liền đóng chặt lại, tiếng “kèn kẹt” vang lên khiến Lưu Toàn cũng rợn gáy. Lưu Toàn dặng hắng, rụt rè bước vào vườn Tây Khoa trong phủ. Đây là nơi Hòa Thân thường ngồi để bàn tính việc quan trọng - Thi Hỉ Trai. Nơi đây người bình thường trong phủ không được vào, trừ Hòa Lâm và Lưu Toàn. Do ít người đi lại nên con đường lát gạch phủ đầy rêu xanh. Trong vườn mọc đầy những cây đa già cao chĩa thẳng lên trời, cành lá um tùm che khuất bầu trời, ánh sáng u ám. Một cơn gió nhẹ, ngàn vạn lá cây đa đua nhau reo lên. Lưu Toàn tay cầm lá thư mật, tay khẽ gõ vào vòng sắt cửa Thi Hỉ Trai, gõ hai lần vẫn không thấy động tĩnh, nghĩ thầm: đi đâu nhỉ? Khá nhiều thư mật cần đệ trình lên Hòa Thân, nội dung ra sao, Lưu Toàn có thể đoán biết được tám chín phần, chắc chắn là công văn của các địa phương, công văn nhưng là chuyện riêng, đối với Hòa Thân không phải là bí mật. Lưu Toàn biết rõ điều đó, chờ một lúc, nghe như phía trong có tiếng động, nhưng không dám sỗ sàng bước vào. Đúng một giờ, Hòa Thân mới ló bộ mặt trắng bệch ra qua khe cửa. Đôi mắt linh ranh lướt nhìn Lưu Toàn. Lưu Toàn cảm thấy trong đôi mắt đó của Hòa Thân như chứa đựng điều gì, rồi nói:
- Hòa đại nhân, đây là thư mật do thái giám trong cung chuyển đến.
Hòa Thân cầm lấy không vội mở xem, nhấp nháy đôi mắt:
- Việc thu thuế ở Sùng Văn Môn như thế nào?
Lưu Toàn bước đến cạnh Hòa Thân rỉ tai:
- Tháng này vượt mức hai vạn lạng, nộp cho phủ Nội vụ một nửa, còn bao nhiêu đều nhập vào sổ cái, công việc kinh doanh của các cửa hàng cầm đồ đều tốt nhưng không bằng năm qua. Nô tài cho rằng, do có nhiều người kinh doanh nghề này, nay lại có thêm hai vương phủ mở tiệm cầm đồ ở Đông Trực Môn, trước cửa bày biện rất khí thế, địa điểm lại tốt, nô tài để cho người đi dò hỏi, có nhiều người đầu tư vào nhà trọ nơi trước đây chúng ta bán hàng.
Hòa Thân gật đầu như không để ý:
- Chia nhau ăn mà béo ư? Vậy thì thế này, không ngại bỏ tiền ra mua nhà đất, giá cao là mua được hết.
Lưu Toàn liếc mắt nhìn trộm vào bên trong nhà, hai chiếc đèn lồng bằng vải thưa màu đỏ chiếu ánh sáng lờ mờ.
Hòa Thân cười nói.
- Ngươi muốn kiểm tra ta ư? Đi đi, lát nữa ta phải vào cung, bảo kiệu đi thẳng đến đây, chớ có rầm rộ.
Lưu Toàn hiểu ý mỉm cười.
Hôm ấy, Hòa Thân từ tẩm cung của Càn Long trở về phủ, đang hí hửng mừng thầm, chiến sự ở Đài Loan không phải nhỏ, cơ hội phát tài đã đến. Theo kinh nghiệm trước đây, chỉ cần thiên hạ lộn xộn, xảy ra thiên tai địch hoạ, Hòa Thân lập tức lợi dụng cơ hội trời cho đó, kiếm lời. Đang tính toán, bỗng nghe tiếng đàn từ đâu theo ngọn gió rét ùa đến. Tiếng đàn hòa với tiếng mưa rơi tí tách, trầm bổng du dương, xúc động lòng người, tựa hồ muôn ngàn nỗi ai oán đang kêu than trong gió thảm mưa sầu. Hòa Thân nghĩ bụng, Hoàng thượng tuổi đã cao, phi tần quá nhiều dùng không hết, tránh sao khỏi có người quanh năm suốt tháng lạnh lẽo cô đơn, thở vắn than dài, thương hoa tiếc ngọc, muốn bước ra đi. Phải chăng tiếng đàn kia đã nói lên nỗi lòng đó. Hòa Thân hướng theo phía tiếng đàn, lần bước đến trước một gian phòng tồi tàn sau điện, dừng chân nhìn qua song cửa sổ, nom thấy một cô gái đang ngồi bên đống than hồng, tay ôm dàn cúi đầu gảy đàn. Hòa Thân nhìn xung quanh không ai, vội bước vào nhà. Định thần nhìn, hóa ra là một cung nữ. Người cung nữ ngước mắt nhìn thấy Hòa Thân, sủng thần của Hoàng thượng, vội đứng lên làm lễ. Hòa Thân đưa tay ấn giữ người cô không cho đứng dậy, rồi nói:
- Ta nghe tiếng đàn của nàng đầy ai oán, như nước suối ngưng chảy, trông nàng như người từng quen biết.
Người cung nữ biết rõ, ngày thường Hòa đại nhân rất khiếm nhã, dám cợt đùa với các phi tần nói chung, nên nói:
- Hoà đại nhân là người cao quý, nhiều việc nên Quên, đầu thu mới đây, sức khỏe Hoàng thượng không tốt, Hòa đại nhân đã nhận bát thuốc do nô tì sắc đưa đến. Lúc đó Hoàng thượng gọi tên nô tì, Hòa đại nhân còn đọc một câu thơ...
Hòa Thân trố mắt nhìn người cung nữ nũng nịu, đưa tình, lòng rung động, dường như không kiềm chế nổi, than thầm, đúng là đóa hoa đậu khấu dạo nào, vụt nhớ lại cảnh xưa kia, đọc ngay câu thơ:
Phố Lạc Hồng che khuất mặt ao
Mưa Lộng Tinh mông lung mờ ảo
Người cung nữ tên là Lộng Tinh đỏ mặt tía tai khi thấy Hòa Thân nhớ được tên mình. Hòa Thân đắm say không kiềm chế nổi, ôm chầm lấy Lộng Tinh, đặt đôi môi lên khuôn mặt bầu bĩnh của nàng hôn lấy hôn để thì thầm:
- Của quý của ta, lạc vào thâm cung chẳng ai đoái hoài, rõ khổ cho nàng.
Lộng Tinh cũng động lòng, nằm vào lòng Hòa Thân, hai bàn tay ngà ngọc vuốt ve mặt Hòa Thân, nói như hờn như oán:
- Tuy Hòa đại nhân còn nhớ thương nô tì. Nhưng hoàng cung đâu phải là của đại nhân, không may các thái giám bắt gặp, nô tì chỉ có chết mà thôi.
Hòa Thân ôm chặt bộ ngực nở nang của Lộng Tinh, ép chặt cặp vú căng phồng của nàng, nói:
- Không hề gì. Ngày mai ta sẽ tâu riêng với Hoàng thượng, cho nàng ra khỏi cung. Ta sẽ lấy nàng.
Lộng Tinh vuốt lại mái tóc rối, nói:
- Các đại thần không được lấy cung nữ cơ mà?
- Quy định là quy định, chẳng qua đều do người định, không được phép sửa đổi ư? Vừa nói vừa rút ra một chiếc vòng vàng đưa cho Lộng Tinh: - Cầm đi? Coi như vật làm tin ta trao cho nàng.
Lộng Tinh thấy Hòa Thân không chút tiếc rẻ, tim đập rộn ràng, đón nhận chiếc vòng tay bằng vàng mười sáng óng ánh, vừa đeo chiếc vòng vào cổ tay, vừa vén váy lên, áp sát thịt da nhão nhoẹt lên mặt Hòa Thân. Người gặp việc vui, tinh thần sảng khoái. Nàng tin lời nói của Hòa Thân. Nàng biết rằng: có Hòa Thân là có tất cả, nàng cảm thấy trên chiếc vòng vàng có hơi ấm của Hòa Thân. Nàng uốn éo một lúc, hứng lên, ngồi cạnh cây đàn, đưa nhưng ngón tay búp măng so giây, gảy đàn, vừa đàn vừa hát: “Đổi thay thiếp cũng vì chàng. Nhớ nhung cái buổi ban đầu gặp nhau. Thiếp…”
Hòa Thân say sưa vuốt mái tóc Lộng Tinh, thì thầm:
- Không ngờ nàng mang nặng tình sâu đối với ta như vậy.
Lộng Tinh ngừng đánh đàn, dựa người vào bụng Hòa Thân, nhìn ánh đèn lờ mờ, bập bùng, đê mê trong giây phút tuyệt đẹp. Hòa Thân nói:
- Lộng Tinh, nàng mấy lần nhìn thấy ta?
- Hòa đại nhân thương ngọc tiếc vàng mà làm chi? Thân phận như đứa con gái này chỉ mong sao có một tấm chồng là thỏa lòng mơ ước, làm một người vợ danh chánh ngôn thuận, đâu ngại gì người chồng chân lấm tay bùn, sống cuộc đời bình dị chồng cày vợ cấy còn hạnh phúc gấp mấy lần sống trong cung. Nói xong, đột nhiên ôm chặt cổ Hòa Thân, tha thiết:
- Hòa đại nhân, người là người có tình có nghĩa nhất mà thiếp gặp, người là chỗ dựa của thiếp. Nói xong nước mắt dàn dụa: -Người biết không, từ khi nhìn thấy ánh mắt của người trao cho thiếp, thiếp nhớ mãi người, thiếp chẳng tranh giành thân phận lớn bé với ai, chỉ yêu cầu đại nhân thu nhận thiếp, thiếp cam tâm hầu hạ đại nhân suốt đời. Một người đàn bà không thể sống độc lập, cũng như dây leo quấn quanh thân người đàn ông. Lộng Tinh nước mắt ròng ròng, xoay người lại như điên như dại hôn hít Hòa Thân.
Hòa Thân cảm động trước những lời tâm sự đó, vừa lấy thân mình an ủi Lộng Tinh, vừa trố mắt nhìn ra bầu trời bên ngoài mỗi lúc tối dần, nghe tiếng gió rét thổi vù vù cùng với tiếng lạo xạo của cành cây. Hòa Thân xoa tay Lộng Tinh, nói:
- Tối nay cùng ta về phủ được không? Nàng yên tâm. Kiệu của ta có thể khiêng người của nội cung, sáng mai lại tiễn nàng về, có gì xảy ra ta bảo lãnh cho nàng, Hoàng thượng tin lời ta.
- Đại nhân không sợ, con gái yếu đuối như thiếp còn sợ nỗi gì? Hòa đại nhân, thiếp xin vì đại nhân đàn hát một bài, để tỏ bày nỗi lòng của thiếp. Ngón tay cử động, tiếng đàn réo rắc, tiếng hát du dương. Gian phòng ấm áp tĩnh mịch, lập tức tràn đầy ngọt ngào êm dịu, bài hát “Động tiên ca” của Tô Thức từ từ tuôn ra như dòng suối reo từ đôi môi đỏ thắm của Lộng Tinh: “Băng tan ngọc nát. Lạnh lùng, khói hương theo gió tràn vào. Vén rèm, một mảnh trăng khuya, người còn thao thức, gối lạnh trâm rơi tóc rối. Ngồi dậy nắm tay, gian phòng vắng lạnh, sao thưa lác đác. Thử hỏi đêm nay đã mấy canh rồi, ánh trăng vàng nhạt, thỏ ngọc lùi dần. Gió thổi hiu hiu. Thời gian lặng lẽ trôi”. Nghe xong, Hòa Thân bất giác mừng thầm, không ngờ người cung nữ bình thường này lại tài ba như vậy, lời hát như nhả ngọc phun châu, khiến Hòa Thân mặt mày tươi tỉnh. Cô gái xinh đẹp làm sao, chiều tà yên tĩnh làm sao, phút giây động tĩnh làm sao! Hòa Thân đắm nhìn vẻ đẹp của Lộng Tinh, nuốt từng chữ từng lời ngọt ngào của nàng, ánh đèn nhảy múa trên khuôn mặt trắng bệch của ông.
Tối hôm ấy, Hòa Thân đưa Lộng Tinh về phủ mình tạm thời để nàng ở trong phòng kín của nhà Thi Hỉ Trai, hai người ôm nhau ngủ, tận hưởng vị ngọt, chuyện trò thâu đêm. Cả hai đều nhận được cái mình mong muốn trên người của đối phương. Hòa Thân hứng lên, cầm bút mực viết một bài thơ trên mảnh lụa trắng:
Mặt đẹp Phù dung vừa hé cười.
Đôi mày lá liễu bội phần tươi.
Cái chuyện phong tình đầy thú vị
Mắt kia say đắm biết bao người.
Trời dần dần sáng, phương đông rực lên màu hồng nhạt. Mặt trời chiếu ánh sáng lên phủ Hòa Thân âm u lạnh lẽo. Tuyết phủ trên mái nhà lung linh chói mắt mỗi khi gió bấc lướt qua, từng lớp tuyết dày trên mái nhà cuốn theo, réo lên tiếng buồn thảm. Trong chiếc chăn bông ấm áp, cặp trai gái đang đắm chìm trong giấc mộng giàu sang, bị tiếng gõ cửa đánh thức...
Hòa Thân bí mật tiễn đưa Lộng Tinh, lòng vô cùng đắc ý, tiện tay xé bức thư mật do Lưu Toàn đưa đến, bỗng một công văn mật của phủ Tổng đốc Mân - Triết làm ông chú ý. Hòa Thân ho một tiếng, vì ông thấy lá thư này giống lá thư cấp báo hôm qua. Theo thường lệ, những văn kiện gấp như thế này phải chuyển ngay lên Hoàng thượng, không thể để đọng lại Cục quân cơ. Hòa Thân một tay cầm bản tấu của Thường Thanh, một tay sờ soạng những viên ngọc phỉ thúy, trân châu, nhân sâm.... trong khay sơn màu đỏ đặt trên bàn bát tiên.
Bản tấu tường thuật lại tình hình mới nhất: “ Tình hình thành quận Đài Loan rất khẩn trương, đã cử Đề đốc lục quân Nhiệm Thừa Ân đem một ngàn hai trăm quân đến Lộc Nhĩ Môn và điều động binh mã các doanh, bảo vệ thành quận, ngoài ra còn có lực lượng của Thủy sư đô đốc tăng viện. Thần ở tại Tuyên Châu, Hạ Môn để kiểm tra đôn đốc, cử các đạo phủ lo việc lương thực hậu cần. Lộc Nhĩ Môn là yết hầu của Đài Loan, ưu tiên dồn binh lực tại đây, đang cử thêm các doanh tiếp viện, chỉ chờ gió thuận là đi”. Hòa Thân liếc nhìn phía dưới lại thấy bổ sung thêm tình hình chiến sự mới nhất của Nhiệm Thừa Ân: “Huyện Chương Hóa bị Lâm Sáng Văn đánh chiếm, thần lên thuyền đến Đài Loan khẩn thiết yêu cầu cử trọng thần đến Mân đôn đốc”. Hòa Thân hít một hơi dài, nghĩ bụng: “Lâm Sáng Vân quả thật lợi hại, một nhóm Hội Thiên Địa bình thường mà cũng gây được thanh thế như vậy, càng nghĩ càng lo, hay lại tâu lên Hoàng thượng. Nghĩ đến Hoàng thượng, lại bất giác thở phào, vỗ tay lên cái trán nhẵn bóng, ái dà, thật là hồ đồ. Người ta nói, trai cò tranh nhau, ngư ông được lợi. Đài Loan rối loạn như vậy, Sài Đại Kỷ khó thể trốn tránh trách nhiệm, không thể không có liên quan, phải báo với Hoàng thượng ngay. Chờ kiệu quay về, lên kiệu vào cung, tay cầm bản tấu, đầu đã nghĩ xong cách ứng phó. Đúng lúc đó, thái giám trong cung đến truyền khẩu dụ, mời Hòa Thân đến điện Tây Phối ăn cơm cùng Hoàng thượng.
Hòa Thân ngồi trong chiếc kiệu lót dạ xanh, lắc lư đến diện Tây Phối, nhìn thấy mấy vị đại thần ngồi hai bên cạnh Càn Long, thầm nghĩ, hôm nay Hoàng thượng sao thế nhỉ, mời cả các vị đại thần quân cơ đến, trong có cả đại thân quân cơ A Quế, lòng dạ có phần không yên, không biết hôm nay Hoàng thượng có loại rượu gì. Hòa Thân bước lên làm lễ tam bái cửu khẩu. Càn Long một tay cầm bút phê vào bản tấu, một tay chỉ vào bàn bên bày đầy rượu và thức ăn, đầu không ngước lên, nói:
- Hòa ái khanh chân đau, ngồi vào.
- Nô tài tạ ơn Hoàng thượng vạn tuế vạn vạn tuế
- Miễn lễ! Trẫm đã phê xong bản tấu của Sài Đại Kỷ, sẽ nói với khanh sau. Các khanh dùng cơm, chớ câu nệ.
Hòa Thân ngồi xuống, định nói mấy câu đại loại như Hoàng thượng hao tâm tổn sức, lo lắng cho xã tắc, nhưng thấy các vị đại thần khác không nói gì, nên đành câm miệng. Mấy viên thái giám có vẻ ân cần hơn mọi lần, nghe tiếng ho, bê ngay ống nhổ đến, chìa ngay khăn lau, thấy đại thần cạn chén là chuốc thêm rượu ngay. Hòa Thân cũng ăn mấy miếng, nhìn thấy Càn Long vẫn cúi đầu phê duyệt tấu chương, thấy không thể nói được gì, nên lấy tay quệt đôi môi trơn bóng, đưa mắt nhìn những viên gạch xanh đen trên sàn nhà, những viên thái giám, liếc nhìn những cung nữ đi đi lại lại, tựa như nhìn thấy thân hình của Lộng Tinh thấp thoáng trong màn, riêng đôi hài đế bằng nằm im tại chỗ dưới chiếc màn vàng lay động, khiến Hòa Thân suy nghĩ lung tung, chính người đẹp làm tiêu hao ý khí. Cảm thấy cái điều chính mình cố công theo đuổi không phải là phong cách lối sống hàng ngày, không phải là phong cách ấy ư? Đang suy tư, bỗng nghe tiếng giấy sột soạt im bặt, Hòa Thân vội định thần, thấy Càn Long đã phê duyệt xong, đang xem lại.
- Đức vạn tuế. Hòa Thân đứng dậy quỳ trước mặt Càn Long tâu: - Hôm qua nô tài từ trong cung quay về Cục quân cơ, xử lý công văn, suốt đêm không ngủ, sáng nay thức dậy trời đã sáng, nên vắng mặt trong buổi chầu triều sáng, xin đến chịu tội. Các đại thần thì thầm với nhau, có người nói:
- Hòa đại nhân thật là một lòng một dạ chia xẻ khó khăn với Hoàng thượng.
Hòa Thân nghe hợp ý, quay đầu lại nói:
- Các ngài không cùng ta xử lý công việc, chớ có nghĩ đến chuyện tranh công lãnh thưởng.
- Trẫm biết khanh một lòng trung thành. Hòa ái khanh, còn nhớ câu đối của chúng ta làm tại đình Vương Long không?
- Câu đối nổi tiếng nhất khắp thiên hạ của Đức vạn tuế, nô tài đã thuộc làu làu, đâu dám quên, nếu các vị đại thần không tin, câu đối mà Đức vạn tuế bảo nô tài hoàn chỉnh, nô tài đã cho người trang hoàng xong, hiện treo tại nhà khách của nô tài, ngày nào cũng nhẩm đọc đến ba lần. Nhớ câu đối trên của Đức vạn tuế là “Tứ phương đài thượng vọng tứ phương tứ phương tứ phương tứ tứ phương”. Nói đến đây, Hòa Thân cố ý dừng lại, từ tốn nói với các vị đại thần: - Các ngài cũng đọc hết sách, thuộc hết kinh sử, cũng giỏi đối đáp, vậy thử hỏi có vị nào đối được câu đối của Đức vạn tuế, cho chúng ta được thưởng thức.
Càn Long nghe Hòa Thân dài dòng lải nhải, hơi sốt ruột, nhìn các vị đại thần khác cúi đầu ăn uống, biết họ trong chốc lát chưa nghĩ ra được, nên cười cho qua chuyện.
- Hòa Thân không được nài ép. Hôm nay khác với ngày thường, Trẫm mời các khanh đến không phải để chơi, mà có việc cần bàn bạc.
Hòa Thân và các đại thần nhất loạt ngừng ăn. Càn Long chậm rãi, sắc mặt đanh lại. Trong khoảnh khắc, cả phòng im lặng đến nỗi Hòa Thân nghe rõ cả tiếng thở của các cung nữ đứng bên ngoài, ông ta thầm nghĩ, lẽ nào Càn Long biết ta mang công văn về nhà? Hay là chuyện phong tình với Lộng Tinh đêm qua bị lộ. Càn Long đưa mắt lướt nhìn các đại thần, đứng dậy, từ từ bước đến giữa điện, trầm tư, nửa như tự nói với mình, nửa như quở trách:
- Khi Thánh tổ lập nghiệp, Đài Loan cũng đã từng có những tên giặc cỏ, tên “vua vịt” Chu Nhất Quý kia, thanh thế không phải nhỏ, thế mà Lam Đinh Trần một mình dã bình định được bọn giặc cỏ, còn bây giờ cả hai đề đốc đến Đài Loan tiễu phỉ, mà chẳng thấy người nào báo tin thắng trận. Trẫm nghĩ, với bọn giặc ô hợp đó, không lập tức tiêu diệt, uy nghiêm nhà Đại Thanh ta có còn nữa không? Tình hình hiện nay rất chi hỗn loạn. Đài Loan gồm một phủ bốn huyện, bọn giặc đã chiếm ưu thế, thành Đài Loan đã bị Lâm Sáng Vân vây hãm ba ngày ba đêm, thế thì còn gì nữa! Chẳng biết Nhiệm Thừa Ân và Hoàng Sỹ Giản đi tiểu phỉ hay đi du lịch ngắm cảnh? Hai đề đốc để việc này kéo dài, không dập tắt bọn giặc ngay, không thoát khỏi tội. Ngồi nhìn nhau, ai cũng đóng quân thủ thế, từ chối xuất quân, coi như Chương Hóa đã được khôi phục, Nhiệm Thừa Ân đóng quân ở Lộc Cảng, coi như Phòng Sơn đã được thu phục, Hoàng Sỹ Giản đóng quân giữ thành quận, để bọn giặc các lộ hợp lại, trở thành mối lo lớn khiến Trẫm ăn ngủ không yên. Nói đến đấy, Càn Long ho lên một tiếng, theo thói quen đưa tay ra phía trước, Hòa Thân hiểu ý ngay, vội dâng lên một bình sữa dê nóng. Càn Long cầm, hớp một ngụm, nói với Hòa Thân: - Hòa ái khanh. Trẫm muốn thân chinh đến Đài Loan, khanh thấy thế nào?
Câu nói vừa thốt ra, mặt Hòa Thân tái mét. Hòa Thân vội quỳ xuống tâu:
- Đức vạn tuế, dẫu thế nào cũng không được dùng hạ sách đó, theo nô tài, chiến sự ở Đài Loan có nguyên nhân sâu xa của nó. Tuy Hoàng thượng cai trị nghiêm minh, nhân chính, nhưng dân chúng Đài Loan chưa thấy được ân đức đó của Hoàng thượng, chính là do quan lại các cấp ở Đài Loan không thực hiện tốt chính sách của Đức vạn tuế. Nô tài cho rằng, n