Chương 11 (tt) BÁN TƯỚC CỔ VŨ LÒNG TRUNG.-TRỞ THÀNH HÀN LÂM ĐẤT NƯỚC
Mẹ kiếp! Lý Thị Nghiêu rất căm, nghĩ bụng, Thường Thanh như quả cầu, dựa thế Hòa Thân. Nghĩ vậy, Lý Thị Nghiêu thở dài, lòng đầy bực tức. Lẽ nào mình cùng phải nịnh bợ hắn?
Thực tế, Hoàng đế Càn Long ngoài việc ban cho Thường Thanh quyền lớn ra, còn tăng thêm viện binh (1.000 quân Phúc Châu và Mãn Châu) và trao cho kế hoạch dùng binh. Từ 27 tháng 3 đến 1 tháng 4, Càn Long liên tục chỉ dụ Thường Thanh nên chọn những người khỏe, giỏi trong quân lính hiện có ở Đài Loan, trực tiếp dẫn họ đến sào huyệt giặc tại Đại Lý Dặc, bắt thủ phạm Lâm Sáng Văn, số còn lại sẽ tan rã. Nếu quân lính hiện có ở Đài Loan không đáng tin cậy, thì cần có tiếp viện, đợi quân ở Việt đến sẽ tấn công. Thời Khang Hy dẹp loạn Châu Nhất Quý, không đầy một tháng đã thành công, nhờ hợp đại binh thành một lộ, nhằm hướng Áo Môn tấn công, khí thế rất mạnh. Sĩ khí phấn chấn, bọn giặc khiếp sợ, dễ dàng tiêu diệt. Sau khi đến Đài Loan, Thường Thanh tập hợp quan binh ở các lộ, dồn sức càn quét bọn giặc, không cho phân tán lực lượng, không để chiến cuộc kéo dài, khiến giặc có thể phân tán kiềm chế. Càn Long đưa ra kế sách đó, có thể nói là dày ông suy nghĩ, rút ra từ kinh nghiệm của các nhà quân sự, tập trung binh lực, đánh nhanh. Sau khi Thường Thanh yêu cầu, Càn Long lại cử tám thị vệ đã từng trải chiến đấu, giỏi võ công, nhiều mưu lược, đến Đài Loan dẹp giặc, tám thị vệ này và Hòa Thân cùng lên đường một ngày.
Càn Long hy vọng ở Thường Thanh như vậy, thế nhưng Thường Thanh đã phụ lòng mong đợi đó. Thường Thanh, họ Chung Giai, người Chánh lam kỳ Mãn Châu, vốn là con trai của một hoạn quan từng làm tuần phủ một thời gian ở Giang Tây. Thường Thanh lớn lên, dựa vào quan hệ gia đình, tìm cách vươn lên qua chốn quan trường đầy bẩn thỉu, rốt cuộc cũng tìm được một chức quan nhỏ trong vương phủ Ninh Quận, nhờ vào sự am hiểu chốn quan trường và tài kết giao với tầng lớp quyền quý, dần dần lên chức Đô thống sát Cáp Nhĩ, Tướng quân Hoàng Châu, Tổng đốc Mân - Triết. Từ chức Tướng quân Hoàng Châu nhảy lên Tổng đốc Mân-Triết, chính là nhờ sự nâng đỡ của Hòa Thân. Thường Thanh thấy rất rõ, trong cái xã hội này, nếu muốn có nhiều lợi lộc, thì phải có quyết tâm, “tiếc con thì không cứu được mẹ”. Để nịnh bợ Hòa Thân, Thường Thanh vắt óc suy tính, điểm đúng huyệt. Trong chuyến tuần du phương nam lần thứ năm của Càn Long, là Tướng quân Hàng Châu, Thường Thanh cho người đi khắp thành Hàng Châu tìm mua đồ cổ, những tranh vẽ nổi tiếng trong đó có bức tranh “Đại Đường Thiên Tử Bộ Liên Đồ” của Ngô Đạo Tử đời Đường. Thường Thanh, bản thân muốn giữ kỹ những vật đó luyến tiếc chúng nhưng đành nghiến răng chịu đựng mang biếu Hòa Thân. Ngoài ra còn tìm kiếm nhiều cô gái đẹp con nhà lương thiện cống nộp cho Hòa Thân. Cuối cùng Thường Thanh có được một chỗ dựa vững chắc, dưới một người trên muôn người, nương tựa suốt đời. Sau khi đến Đài Loan, Thường Thanh thấy thế địch lớn, nhiều chiến tướng khiếp sợ, suốt ngày cố thủ trong thành phủ, chẳng ai dám bước ra đánh địch.
Thường Thanh được phong là tướng quân dẹp loạn. Nghĩ rằng, dẫu sao cũng đã mang cái tiếng này, nên đành cầm quân ra trận. Thường Thanh và Hằng Thụy dẫn mấy ngàn quân ra khỏi Thành không xa, gặp nghĩa quân Lâm Sáng Văn trên một cánh đồng. Thường Thanh ngồi trên ngựa, đưa mắt nhìn, chỉ thấy cờ dáo ẩn hiện, đội ngũ lớp lớp, tiếng thét “giết” liên hồi hết đợt này đến đợt khác, lúc này, một trận gió to thổi qua, tận cùng cánh đồng mênh mông bát ngát là dãy núi chập chùng, ẩn hiện những ngọn cờ năm màu đang phất phới tung bay. Thường Thanh ghìm ngựa, quay đầu lại nói với Hằng Thụy mặt mày đầy vẻ sợ hãi đứng bên cạnh:
- Hằng tham tán, thế địch rất mạnh, dường như phía trước có quân mai phục, ta sức yếu thế cô, nên tiến hay lui?
Hằng Thụy vội đáp:
- Thường tướng quân, quân đội chúng ta mấy năm qua không chinh chiến, hơn nữa không quen thuộc Đài Loan, chi bằng rút lui, xin thêm viện binh, như vậy mới dẹp được bọn giặc, nếu không, với mấy ngàn người, chúng ta chẳng qua là lấy trứng chọi đá, làm thế nào thắng được?
Đang nói đến đấy, tiếng hô “giết” vang lên từ gần đến xa, bao trùm khắp trời đất như triều dâng thác đổ, thế không chống nổi. Thường Thanh không kịp trả lời, giật mạnh dây cương, cho ngựa quay đầu lại, vội vàng quất roi, hét to:
- Thu quân nhanh lên!
Hằng Thụy thấy vậy cũng hối hả vỗ ngựa cùng Thường Thanh hớt hải rút lui, chỉ khổ cho quân lính nhà Thanh than trách cha mẹ sao lại chỉ sinh chúng có hai chân, nhìn thấy chủ tướng bỏ chạy bán sống bán chết vào thành, nên chúng cũng tranh nhau chạy để khỏi rơi vào tay Lâm Sáng Văn, dẫm đạp nhau, không ít tên lính bị thương vong. Thường Thanh và Hằng Thụy vừa chạy vào thành, có người đến báo:
- Tham tán Lam Nguyên Mai bị bệnh đã qua đời.
Thường Thanh, Hằng Thụy được tin, đau xót lệnh cho tổ chức mai táng, và vội vàng viết thư về triều đình xin tăng thêm nhiều viện binh.
Đối với Thường Thanh suốt đời chạy theo vinh hoa phú quý, ăn sung mặc sướng, việc lần đầu tiên đi chinh chiến bị rơi vào tình thế ấy, đã trở thành chuyện khôi hài. Vừa vào thành xong, chưa hoàn hồn, sau một hơi thở dốc, Thường Thanh cúi đầu trầm tư. Mười ngày của trận đánh đầu tiên cho biết là phải có sự chuẩn bị, vậy nên chuẩn bị thế nào cho tốt? Đầu óc của Thường Thanh như cơn lũ lồng lộn gầm réo, cảnh chiến trường khủng khiếp khiến Thường Thanh luôn hoảng sợ. Lúc ta mới bước đến Đài Loan, khí thế hừng hực, nghĩ rằng không biết lấy gì để lấp kín eo biển này, phải chăng Quách Trạng Du vừa mới bị xử trảm là hình ảnh sắp tới của ta? Tham sống sợ chết, nhát như thỏ đế, gan như gan chuột, chiếu theo thánh dụ của Càn Long, thì không những tính mạng ta không thể bảo toàn được mà còn liên lụy đến chín họ. Nghĩ đến đấy, Thường Thanh cảm thấy con đường hoạn lộ của mình trong tương lai đầy u ám, đầu óc choáng váng, ánh mắt sáng quắc của Càn Long như lưỡi gươm sắc chọc vào yết hầu, toàn thân ớn lạnh, trán vã mồ hôi, đọng thành từng giọt rơi theo làn tóc phờ phạc, cả người run rẩy, mũi cay, khoé mắt ứa vài giọt lệ đầy sợ hãi. Thường Thanh đứng dậy, đi vòng quanh nhà mấy lượt, định viết cho Hòa Thân lá thư nhờ giúp đỡ nhưng lại thấy không ổn, vì Càn Long đâu phải ngốc nghếch. Lần đầu mình giao chiến với Lâm Sáng Văn khi vừa mới đến Đài Loan, sợ đến nỗi chưa biết thế địch lớn mạnh thế nào, đã đánh trống rút lui, như vậy há không phải bôi đen bộ mặt triều đại Đại Thanh? Há không phải khuyến khích quân địch làm mất khí thế quân ta? Như vậy, lẽ nào Càn Long không có lý do buộc tội?
Cặp mày màu xám của Thường Thanh như đôi sâu róm, cặp mắt đục ngầu chuyển động cực nhanh, tưởng chừng muốn thoát ra khỏi hốc mắt, định nói gì đó, nhưng cảm thấy lưỡi ngắn lại, Thường Thanh nuốt nước bọt, cố gắng nói thật chuẩn xác không sai. Ông gọi người vệ sĩ đứng bên ngoài cửa.
- Người đâu?
- Tướng quân có gì dạy bảo? Người vệ sĩ vội vàng bước vào, đứng nép một bên hỏi.
- Đi mời ngay Tham tán Hằng Thụy! Thường Thanh rút chiếc khăn tay ra lau mồ hôi trên trán.
- Vâng ạ. Người vệ sĩ đáp.
Một lát sau, Thường Thanh ngửi thấy mùi rượu nồng nặc xông vào từ phía ngoài sân, Hằng Thụy bước lảo đảo xông vào. Thường Thanh mặt sầm lại, nghĩ bụng, quả là con người chìm ngập trong hũ rượu. Chết đã kề cổ mà cứ say rượu suốt ngày, ta làm sao mà nói chuyện với hắn được? Thét lớn:
- Hằng Thụy, lẽ nào ngài không muốn sống?
Hằng Thụy liên tục nôn ọe, mùi rượu chua nồng xông lên khiến Thường Thanh phải buồn nôn. Thường Thanh đành phải bảo bọn thuộc hạ đưa đến một ít thuốc giã rượu và buộc Hằng Thụy ngồi xuống. Hằng Thụy mặc kệ cho Thường Thanh, cũng chẳng thấy khó chịu, và chẳng tỉnh lại chút nào trong sự lo sợ của Thường Thanh, mồm lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại.
- Đại tướng quân Thường Thanh, Đại tướng quân Thường Thanh, rõ ràng chúng ta không đánh nổi Lâm Sáng Văn. Đài Loan ôi, Đài Loan đúng là đầm lầy đau khổ khó xơi. Chúng ta hết đời, hết đời rồi...
Thường Thanh không nghe tiếp, cầm lấy thuốc giã rượu từ tay người lính, đó là một bát nước giấm lâu năm, đưa bàn tay gầy guộc đỡ lấy cổ Hằng Thụy, đổ bát giấm vào mồm. Hằng Thụy nấc một tiếng, rồi nôn oẹ, phun “phì phì”, một luồng hợi rượu chua nồng khó chịu, cùng với bọt mép đầy mồm, phả vào mặt Thường Thanh. Ngày thường Thường Thanh khúm núm, sợ sệt trước mặt Hoà Thân, nhưng ngược lại thì cao ngạo với Hằng Thụy, bởi vì tư cách, tuổi tác của Thường Thanh hơn hẳn Hằng Thụy. Nét mặt Thường Thanh bỗng thay đổi tức giận quát mắng:
- Đồ khốn! Vừa nói vừa vung tay đập vỡ bát đựng giấm xuống đất, tay kia đẩy Hằng Thụy ngã xuống ghế.
Hằng Thụy sợ quá nên cũng tỉnh lại đôi phần. Lắp bắp nói:
- Tướng quân bớt giận, Tướng quân bớt giận... Tôi không cố ý như vậy... Vừa nói vừa cố vịn vào tay ghế đứng dậy.
Thường Thanh thấy Hằng Thụy vẫn chưa tỉnh rượu hẳn, cũng thương tình, bước đến ấn Hằng Thụy xuống không cho đứng dậy và nói:
- Tham tán đại thần! Tôi muốn hỏi ngài, ngài còn muốn giữ cái đầu không?
Hằng Thụy cố mở đôi mắt, chờ một lúc cho đầu óc tỉnh táo, run sợ đáp:
- Thường tướng quân lấy việc nước làm trọng, không quên ơn vua khiến hạ quan hết sức cảm phục.
- Không phải lúc nói chuyện ấy! Bọn giặc chưa bị tiêu diệt, Chư La của Sài Đại Kỷ chưa được giải vây, chúng ta làm thế nào đây? Thường Thanh giận hỏi.
Suy nghĩ một lát, dường như men rượu giúp quá trình tư duy nhanh hơn, Hằng Thuy rụt rè lên tiếng:
- Hạ quan có một kế này, có thể lừa dối để thoát nạn.
- Ngài nới ra xem nào, tham tán, tham tán! Hai mắt tôi như mờ rồi, tay bị trói chặt, không còn cách nào khác. Làm không tốt, ngài và tôi đều bị trừng phạt. Thường Thanh dậm chân dục nói, lại một giọt nước mắt rơi xuống.
- Lão tướng quân, ngài nghĩ xem, Hoàng thượng không thể đến Đài Loan. Chắc chắn phải cử Hoà Thân đến. Hoà đại nhân và tướng quân quan hệ như thế nào? Lý Thị Nghiêu cũng còn nể Hoà đại nhân cơ mà. Không làm thì thôi, đã làm thì làm đến cùng, dĩ nhiên Hoàng thượng muốn xem bản tấu hay, vậy sao không viết một bản tấu chiến công giả? Trì hoãn mấy ngày hoặc mấy tháng, tìm cớ, rồi lại bày ra kế khác.
- Vậy để ta suy nghĩ. Thường Thanh ấp úng một lúc, chậm rãi nói, mồm mím chặt, mặt co giật, thân người như cột cờ đứng đực. Ông đang rơi vào cảnh ngộ khó khăn nguy hiểm. Một cảm giác nóng cay ngọt bùi chua xót dâng lên như sóng to biển cả lay động cột cờ. Ông nghĩ bụng: báo cáo láo còn hơn không báo. Chỉ cần suy tính thật kỹ, không để sơ hở tí gì là được.
Cuối tháng tư, năm Càn Long thứ 52, một bản tấu của tướng quân dẹp loạn Đài Loan được chuyển đến tay Càn Long đang bận rộn chuẩn bị Tết Đoan Ngọ. Càn Long nhìn thấy bản tấu của Thường Thanh, vội vàng mở xem. Bản tấu như sau:
“Khởi bẩm Hoàng thượng vạn tuế, thần Thường Thanh từ khi phụng chỉ đến Đài Loan, đã cố bảo vệ thành phủ. Lâm Sáng Văn cho đến nay vẫn chưa ra mặt đánh nhau, thần đã và đang luyện lập binh mã bày binh bố trận. Đồng đảng của Lâm Sáng Văn, Trang Đại Điền đem quân xâm nhập thành phủ, thần đã mấy lần đem quân đánh lui, yên định được lòng dân. Mấy lần đưa quân ra thành dẹp giặc, tướng sĩ đều ra sức, nghĩa dân tranh nhau, hăng hái hiệp trợ giết giặc, liên tiếp mấy trận, giết chết hơn 2.000 tên giặc, bắt sống trừng trị hơn 50 tên, một tên tiểu đầu mục của bọn phỉ là Trang Tích Xá sợ tội đã vào thành đầu hàng, dẫn theo hơn 2.000 tên, và đã cùng với quân ta đánh lui quân địch. Chư La sắp được giải vây, việc bình định hải đảo không còn lâu”.
Xem xong bản tấu, Càn Long vui mừng khôn xiết, nét mặt u ám vì cuộc nổi loạn ở Đài Loan bỗng tan biến, triệu tập ngay bá quan văn võ, khen ngợi Thường Thanh, biết cách dùng binh, có tài quân sự đúng như lúc đầu đã cử Thường Thanh đi dẹp loạn, tán thưởng một hồi, cầm bút phê chỉ dụ khen thưởng Thường Thanh, nói Thường Thanh biết tính toán đề phòng, mưu trí dẹp loạn, trù tính khôn khéo, mọi việc chu toàn, tuy tuổi quá bảy mươi, vẫn hăng hái ra trận, trung dũng đáng khen.. Càn Long không chỉ đắm chìm trong niềm say sưa của mình mà còn khen ngợi Hoà Thân, A Quế đã có những lời nói thẳng thắn, đưa ra nhiều mưu sách. Một cuộc nói chuyện khiến văn võ bá quan trong triều phải cúi đầu bái phục. A Quế tuổi già sức yếu, cười chẳng ra cười, khóc chẳng ra khóc, biết rõ trong đó có vấn đề, nhưng không tiện trình bày tại chỗ với Càn Long. Xuất phát từ lòng trung thành với Hoàng thượng, A Quế định chờ đến khi Càn Long tự nhìn thấy chỗ sai trái mới tâu, nếu không vậy, đất nước Đại Thanh to lớn này biết dựa vào ai!... Mùa thu đầy biến động, không thể vì một Đài Loan biến động mà khuấy động cả một đất nước. Khi Càn Long nhìn mình với ánh mắt khen ngợi, A Quế chỉ còn cách cúi đầu đáp lại, “Hoàng thượng anh minh”. Càn Long ban bố ngay chỉ dụ tặng thưởng Thường Thanh một số vàng bạc, châu báu, gấm vóc, con trai Thường Thanh làm thị vệ bậc ba bộ Hình, cho phép đến Đài Loan thăm cha. Ban thưởng cho các tướng sĩ có công và thương vong.
Nhờ bản tấu bịp bợm về chiến công, Thường Thanh được Hoàng đế Càn Long khen thưởng, cha con được sum họp, vừa mừng vừa lo, thầm cám ơn quỷ thần. Và do đó hạ quyết tâm, định đến ngày 24 tháng 5 xuất quân dẹp loạn Lâm Sáng Văn. Dân chúng trong thành bày bàn đặt rượu dọc hai bên đường phố khao quân Thanh đang trong khí thế hừng hực, không ít quân lính uống say lảo đảo, màn đêm buông xuống, vẫn chưa về trại, mà còn gây sự trên đường phố. Thường Thanh chẳng nể nang, lệnh giết mấy tên, mới ổn định được. Xét thấy quân Thanh bê tha, không có ý chí chiến đấu, Thường Thanh đành hạ lệnh ngày hôm sau tiến quân. Ngày 25, trời vừa sáng, hai chiếc cầu treo trên mặt hào thành phủ vang lên tiếng “cọt kẹt”, quân Thanh từ từ kéo ra khỏi thành. Thường Thanh nào có biết, cũng vào ngày ấy, Lâm Sáng Văn và Trang Đại Điền dẫn một vạn quân tấn công thành phủ. Nhờ có đường dây bí mật, họ biết được hôm ấy quân Thanh xuất quân, nên cho quân mai phục dọc hai bên đường. Thường Thanh vừa dẫn quân ra khỏi thành phủ đã gặp ngay quân của Trang Đại Điền và Lâm Sáng Văn tấn công từ hai bên dọc đường. Thường Thanh hãi quá, mất hết dũng khí, bỏ chạy, nằm rạp trên lưng ngựa, y như cọng cỏ bồng bềnh trên mặt nước bị sóng đập dồn dập, choáng váng run rẩy. Thường Thanh mơ màng nhìn thấy mấy nghĩa quân lưỡi dao lấp lánh đuổi theo, không vung nổi chiếc roi ngựa trong tay, gào thét trong đám loạn quân: “Giặc lấy đầu ta! Giặc lấy đầu ta!” Vừa thét vừa quay ngược chạy về, cảnh tượng diễn ra y hệt lần trước. Các tướng sĩ thấy vậy, không còn lòng dạ nào chiến đấu, tranh nhau rút vào thành. Quân Lâm Sáng Văn reo hò, thu nhặt binh khí vật tư của quân Thanh vứt bỏ lại, vui mừng cất cao tiếng hát. Sau khi bại trận rút vào thành phủ, Thường Thanh ra lệnh đóng chặt cửa thành cố thủ, và viết tấu về kinh xin điều thêm một vạn quân tiếp viện. Trong khi Thường Thanh rụt cổ co vòi nằm im trong thành, lực lượng Lâm Sáng Văn phát triển khá mạnh, chiếm cứ nhiều thôn trang. Trang Đại Điền lợi dụng tâm lý không dám ra đánh của Thường Thanh, cắt đứt đường giao thông thuỷ bộ giữa thành phủ với huyện Chư La và Lôi Tử Cảng huyện Chương Hoá. Quân Thanh rơi vào cảnh mỗi nơi tự chiến đấu, trong đó có Tổng binh Sài Đại Kỷ với 4.000 quân cố thủ Chư La, không dám xuất quân. Nhận thấy vị trí thành Chư La vô cùng quan trọng, nằm giữa Bắc - Nam là bình phong bảo vệ thành phủ, đánh chiếm được Chư La, là có thể đánh chiếm được thành phủ, chiếm cả Đài Loan. Vì vậy, từ tháng sáu trở đi, quân khởi nghĩa Lâm Sáng Văn tập trung lực lượng, bao vây thành phủ Chư La, tấn công suốt cả ngày đêm. Sài Đại Kỷ nhiều lần cho người liều chết thoát khỏi vòng vây đến Thường Thanh cầu cứu. Thường Thanh nói rõ tình cảnh khó khăn, rầu rĩ than thở “Bản tướng chẳng khác nào Bồ-tát bùn qua sông, lo cho mình chưa xong”. Nhưng lại nghĩ nếu không cho quân đi cứu, e rằng hoạ giáng lên đầu, nên nói tiếp, thành Chư La mất, lửa cháy đến cổng thành, tai hoạ đến nơi, thành phủ của mình càng khó phòng thủ. Bí quá, đành cử Tổng binh Nguỵ Đại Bân, tướng Lam Ngọc (con trai của Lam Nguyên Mai) dẫn 2.000 quân đi cứu viện, trên đường hành quân đụng đầu với quân khởi nghĩa, nhưng không dám đánh nhau, gặp trở ngại khó khăn lại quay về. Sức ép đối với Sài Đại Kỷ đột nhiên tăng lên, khổ hết chỗ nói.
Tình hình Đài Loan càng ngày càng xấu. Quân Thanh ở vào thế bất lợi, Thường Thanh tiếp tục báo cáo láo, lừa dối Càn Long. Thường Thanh chỉ còn cách như vậy, đã dối vua một lần thì mười lần sau cũng phải dối vua. Hai ngày 8 và 10 tháng 6, Trang Đại Điền đem quân tấn công mạnh vào đại doanh trại quân Thanh, tạo thế cho nghĩa quân đánh chiếm Đông Cảng ở Phong Sơn, Bát Cảng ở Chư La và Diêm Thuỷ Cảng, cắt đứt con đường vận chuyển lương thực. Thất bại đó cũng được Thường Thanh tô vẽ như sau: “Thần phái các tướng sĩ, một mặt chia thành nhiều cánh quân đi dẹp giặc, một mặt tiến quân bịt chặt Đồng Bàn Sạn, tiêu diệt hơn một trăm tên”. Thường Thanh cố thủ trong thành phủ, hoàn toàn không dám đem quân ra đánh, tham sống sợ chết, nhưng viết bản tấu gửi cho Càn Long thì bịp bợm nhằm che dấu tội lỗi của mình:
“Quân giặc bao vây công kích Diêm Thuỷ Cảng, tưởng như muốn cắt đứt con đường tiếp tế lương thực cho Chư La, nhằm đạt mục đích chiếm cứ, nhưng mục đích thực sự lại là thành phủ Ký Du. Thần đóng quân ở phía nam thành phủ, chưa dám di chuyển chờ điều thêm quân lính đến cùng nhau diệt địch”. Thường Thanh không nghĩ rằng Càn Long còn hiểu rõ hơn ông, biết rõ ý đồ thật sự của ông. Theo bản tấu của Thường Thanh, Càn Long ra chỉ dụ mới. Ngày 12 tháng 7, Càn Long chỉ dụ yêu cầu Thường Thanh chọn trong số Tổng binh, Phó tướng một người dũng cảm đáng tin cậy, cố thủ doanh trại, bản thân Thường Thanh dẫn các tướng sĩ tiến đến thành Chư La, phối hợp với Sài Đại Kỷ, đánh vào sào huyệt địch. Càn Long không hài lòng, còn viết trong chỉ dụ rằng: Diêm Thuỷ Cảng ở phía nam Chư La, Bát Cảng ở phía bắc Chư La, đều là con đường quan trọng để vận chuyển lương thực, bây giờ bị giặc chiếm, cắt đứt đường tiếp tế lương thực, tình hình Chư La vô cùng khẩn cấp. Xem ra địch rất xảo quyệt, còn đại quân cứu viện cho Đài Loan thì cố thủ trong thành không chịu ra đánh địch, chẳng khác nào tạo điều kiện tốt cho địch. Quân ta ở Chư La thế cô sức yếu, chờ đợi thành phủ cứu viện, quan quân như bị trói tay. Thường Thanh thì không rời xa doanh trại. Ý đồ thực sự của địch là cắt đứt đường tiếp tế lương thực, đánh chiếm thành huyện Chư La. Nếu thành Chư La bị mất, thành phủ Đài Loan cùng bị cô lập, bốn bề đều là địch, vấn đề vô cùng quan trọng. Cuối chỉ dụ, Càn Long còn nói rõ: Nhất định phải ra sức tiêu diệt bọn giặc ở Diêm Thuỷ Cảng và những nơi khác, đánh thông đường tiếp tế lương thực, giải vây cho Chư La, khiến Nam - Bắc liên lạc chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, đó là thượng sách. Thường Thanh phải tự mình cầm quân tiến lên. Theo chỉ dụ của Càn Long, Thường Thanh không thể không sắp đặt chuẩn bị. Hạ tuần tháng bảy, Thường Thanh cử Tổng binh Thái Phan Long, Phó tướng Quế Lâm đi cứu viện Chư La. Bản thân đem quân đánh vào các thôn trang lân cận, nghĩ rằng sẽ không gặp quân chủ lực của Lâm Sáng Văn, và còn có cơ hội báo tin thắng trận. Thực tế, đúng như vậy, bản thân Thường Thanh đem quân tiến đánh không ít thôn trang, đốt cháy không ít cứ điểm của nghĩa quân, phá huỷ một số nhà của dân thường. Chỉ gặp một ít toán nghĩa quân, vừa mới xung phong đã bỏ chạy. Do vậy, tình hình chiến sự được báo cáo láo về kinh. Thái Phan Long dẫn quân đến Chư La từ hạ tuần tháng bảy, trên đường hành quân bị nghĩa quân Lâm Sáng Văn tấn công dữ dội, mãi đến ngày 18 tháng 8 mới đến được Chư La. Phó tướng Quế Lâm và tướng Dương Khởi Lân bị giết, quân sĩ thương vong nặng, trả giá khá đắt. Sài Đại Kỷ đưa quân ra đón Thái Phan Long và hơn 800 quân sống sót và 3.000 dân vận chuyển lương thực vào thành.
Khách quan mà nói, thành Chư La cố thủ được trong mấy tháng trời, không bị quân Lâm Sáng Văn tấn công, là nhờ có hoàn cảnh địa lý đặc biệt. Một con đường vận chuyển lương thực rộng rãi chạy ngoằn nghèo từ Nam đến Bắc, xuyên qua cổng thành phía Bắc và phía Nam của thành Chư La nằm ở vị trí chính giữa hai đoạn đường, tựa hồ một thỏi vàng. Thành Chư La nằm trên đỉnh cao chính giữa thỏi vàng, xung quanh bao bọc bởi một dãy núi nhấp nhô, tạo thành lá chắn tự nhiên của thành Chư La, đồng thời cũng khiến cảnh Chư La rơi vào thế dễ bị uy hiếp. Nghĩa là, một khi bị bao vây, kẻ tấn công khó lợi dụng vùng đất bao la xung quanh để tiến công, kẻ giải vây cũng khó tiến đánh bởi dãy núi chập chùng ngọn này nối tiếp ngọn kia. Thành Chư La như một hòn đảo nhỏ sừng sững giữa biển, Nam - Bắc thông nhau bởi một con đường vận chuyển lương thực.
Về đêm trời mát lạnh, tiếng mưa rơi tí tách, hơi nước bốc lên mù mịt cả miền đất rộng mênh mông. Những ngọn núi nhô cao vút thẳng lên bầu trời xanh thẳm, lặng lẽ đứng im. Sương mù buổi sáng lướt nhẹ quanh sườn núi, tựa hồ mái tóc bạc được gìn giữ từ ngàn năm xa xưa. Khắp nơi bao trùm một bầu không khí thần bí ẩn hiện hư hư thực thực. Chỉ khi ánh dương xuyên qua tầng mây chiếu xuống, mới thấy được những dãy núi kéo dài nối nhau liên tiếp, đường núi chật hẹp, thế núi dựng đứng, dốc núi nghiêng gấp, đất đá lẫn lộn, dải đất bằng phẳng nhô lên những ngọn núi cao, hiểm trở. Sài Đại Kỷ ngồi trên cửa thành đốc chiến, nét mặt uể oải, nhân lúc yên tĩnh ngắn ngủi bỗng nghĩ đến quê nhà vùng chân núi Nam Long, Triết Giang, nơi ấy có cây đa cổ thụ cành lá che khuất một góc bầu trời, dưới gốc cây có giếng nước vừa trong vừa ngọt, có loại gạo thơm ngon miệng. Sài Đại Kỷ đưa đôi mắt kiên cường hằn những tia máu lướt nhìn quân lính mặc y nguyên quần áo nằm trên bờ thành, lòng không khỏi buồn đau, ruột gan như bị lửa đốt, sốt ruột không yên, đôi lúc muốn chết, nhưng tử thần chẳng đoái hoài, nhờ Hoàng thượng phù hộ, Sài Đại Kỷ đã giữ được thành Chư La với 3.000 quân yếu đuối và dân chúng đói khát đầy thành. Người lính hầu bước đến mời Sài Đại Kỷ về nghỉ. Sài Đại Kỷ vừa đứng lên, cảm thấy đầu óc choáng váng, ngã chồm lên ụ tường thành, ngay lập tức quân sĩ đang ngủ say như lò xo bật dậy, khí thế bừng bừng. Sài Đại Kỷ cảm thấy hài lòng đôi chút. Dưới chân thành một đám dân chúng yếu đuối đứng co ro dựa sát tường thành vỗ tay hoan hô khi nhìn thấy mấy người lính dìu Sài Đại Kỷ bước xuống. Con đường hành lang lát gạch lặng lẽ tiễn đưa hình bóng gầy gò của Sài Đại Kỷ. Sài Đại Kỷ mắt vẫn nhìn thẳng, ghé tai nói nhỏ mấy câu với người lính hầu. Người lính bước đi độ một lát trên mặt thành vang lên tiếng va chạm của gươm giáo. Sài Đại Kỷ từ từ bước xuống, dân chúng hai bên đường phố trong thành ùa đến, trong tiếng bước chân vội vàng hối hả mang theo cả tinh thần hoảng loạn, ánh mắt nghi hoặc tập trung vào Sài Đại Kỷ. Sài Đại Kỷ như nhìn thấy suy nghĩ thầm kín của họ, nhìn thấy họ muốn biết sự thật từ miệng ông nói ra, đứng trước những người dân thề cùng sống chết với thành Chư La. Sài Đại Kỷ có phần xúc động, nhưng thật khó nới chính xác cho họ, có thể giữ nổi thành Chư La không, có thể giữ được bao lâu Sài Đại Kỷ biết rõ, lương thực trong thành chỉ còn đủ trong nửa tháng. Hôm qua, phải trả giá khá đắt mới đón tiếp được Thái Phan Long và 3.000 người dân vận chuyển lương thực, nhờ đó có thể kéo dài thêm được một thời gian. Điều khiến Sài Đại Kỷ cảm thấy được an ủi nhất là dân chúng trong thành kiên quyết ủng hộ mình, không xảy ra chuyện lộn xộn quậy phá, ai cũng coi Sài Đại Kỷ là người bảo vệ cho mình. Sài Đại Kỷ đứng giữa đám đông dân chúng, chớp chớp đôi mắt sâu hoắm, nói rõ to: “Thưa bà con, bọn giặc ngoài thành hung hăng càn rỡ, đốt nhà, cướp của, giết người, gây bao tội ác, bà con bỏ nhà đến đây là một nghĩa cử cao quý. Bọn giặc hùng hổ nhất thời, không thể kéo dài được mãi. Chỉ cần quân dân chúng ta hợp lực đồng tâm, sống chết có nhau, cố thủ thêm một thời gian, chờ đại quân đến, bọn giặc sẽ tan rã. Mọi người sẽ được trở về với gia đình ruộng vườn, sống cuộc sống an bình. Hôm nay Hoàng thượng lại ban thánh dụ, thăm hỏi an ủi thần dân, đợi đến khi dẹp xong quân giặc, dân chúng ai có cống hiến đặc biệt trong cuộc chiến đấu này sẽ được thăng quan cấp đất, chỉ cần có hành động nghĩa cử cũng được miễn sưu thuế”. Nụ cười đã biến mất từ lâu nay chợt hiện lên trên nét mặt, Sài Đại Kỷ cất cao giọng: “Sài Đại Kỷ này quyết không phá vây bỏ trốn, thề sống chết với Chư La”, nhân dân hoan hô, có người cảm động khóc thút thít, tranh nhau nhường đường cho Sài Đại Kỷ. Sài Đại Kỷ hiên ngang đi về phủ trong tiếng hoan hô của dân chúng. Mấy tháng chiến đấu gian khổ khiến ông quá mỏi mệt. Lâm Sáng Văn và các thủ lĩnh nghĩa quân hiểu rõ vị trí quan trọng của Chư La, quyết tâm đánh chiếm Chư La. Do vậy, khí thế tiến công ngày càng mãnh liệt. Nếu để xảy ra sơ suất, thành trì có thể bị công phá, cho nên Sài Đại Kỷ, một mặt tự mình đốc chiến, ngày đêm không nghỉ; một mặt cử những quân lính dũng cảm nhiều lần đến cầu cứu Thường Thanh, nhưng Thường Thanh bỏ mặc. Sài Đại Kỷ cảm thấy tuyệt vọng, buồn giận khôn cùng, chỉ còn biết liều chết cố thủ. Lúc này, lòng Sài Đại Kỷ dâng lên niềm tự hào, chiến sự khẩn trương, cố sức gắng gượng chống đỡ.
Khi Phó tướng Thái Phan Long cưỡi ngựa từ phía bắc thành trở về, Sài Đại Kỷ đã chợp mắt được một lát bên chiếc bàn trong phủ. Thái Phan Long tay cầm roi ngựa bước thẳng vào đánh thức Sài Đại Kỷ. Sài Đại Kỷ ngáp một cái, vội lệnh cho vệ sĩ rót trà mời Thái Phan Long.
- Sài Tổng binh, hôm nọ quân lính được phái đi hôm nay mang thương tật quay về, nói rằng, những nơi hiểm yếu từ Phong Sơn đến Chương Hoá, đều bị giặc chiếm, chặn đường. Thường Thanh chỉ cử một số ít quân đến cứu viện, nhưng lại bị chặn đánh không tiến lên được. Ngài xem, chúng ta nên làm thế nào? Thái Phan Long nói.
Sài Đại Kỷ tái mặt, đôi môi run rẩy, vỗ bàn thét:
- Một lũ ham sống sợ chết. Con đường nam - bắc để giặc khống chế, quan binh mỗi người cố thủ một nơi, cách nhau xa xôi, chẳng ai dám xuất kích, để cho quân giặc hung hăng, để Chư La bị vây khốn mấy tháng trời. Khổ nỗi, ta chỉ có 3.000 tàn quân, lại phải bảo vệ cho 4 vạn dân, đáng hận Thường Thanh, trong tay có 5 vạn đại quân mà án binh bất động, ta nghĩ rằng phải tấu báo tình hình này lên Hoàng thượng, cử người khác cầm quân. Huống hồ, thành Chư La là lá chắn cho thành phủ, môi hở răng lạnh, lẽ nào Thường Thanh không hiểu được điều đó. Sài Đại Kỷ đứng lên cầm bút mực viết một lá thư, gọi người cận vệ dặn dò: - Phải mang cho được thư này đến Diêm Thủy Cảng, ở đó có trạm liên lạc trực tiếp chuyển về triều đình, nếu Hằng Thụy biết, nói là công văn hoả tốc của Sài Đại Kỷ; xin viện binh, mong ông ta nói giúp.
Người lính cận vệ gật đầu, quay mình bước đi. Một lát sau, một chiến mã phi ra khỏi thành.
Sài Đại Kỷ hỏi Thái Phan Long:
- Lâm Sáng Văn mấy lần cướp mất lương thực, cứ tiếp tục như vậy, mấy vạn người ngựa trong thành sẽ ăn gì?
- Tôi có một kế, không biết có thực hiện được không.
- Hãy nói cho ta nghe xem.
- Tổng binh có thấy sau mỗi lần công thành, bọn giặc lại lo nghĩ mấy ngày, đứng trên thành, nhìn thấy thấp thoáng trong doanh trại giặc có không ít gái đẹp lẫn lộn trong đám lính địch, chắc là bọn giặc cướp họ về để làm trò chơi tiêu khiển. Bọn lính đứng gác chỉ là cho có mặt, thỉnh thoảng vứt vũ khí vào lều hóng mát, rất là lỏng lẻo lơ là, chi bằng nhân lúc trưa trời nóng bức, đem quân ra cướp lấy lương thực của chúng để cho quân dân trong thành dùng.
Sài Đại Kỷ gật gật đầu, vỗ tay tán thưởng:
- Vậy thì trưa mai, hai chúng ta, mỗi người dẫn một cánh quân, ra thành tập kích, nhưng quyết không được phá vòng vây.
Tình thế như xoay chuyển, tối hôm Sài Đại Kỷ và Thái Phan Long tấn công vào doanh trại Lâm Sáng Văn, quan kỳ bài phi ngựa vào phủ Tổng binh báo rằng Lý Nguyệt Phu, người của Lâm Sáng Văn đến xin đầu hàng. Sài Đại Kỷ vui mừng, bước lên cổng thành, xem rõ hư thực. Quả nhiên nhìn thấy phía bên kia hào thành có một toán người ngựa, người đi đầu cưỡi chiến mã có vẻ sốt ruột, đi đi lại lại bên bờ hào thành. Sài Đại Kỷ lệnh cho quân lính thả chiếc cầu treo, để cho Lý Nguyệt Phu và đoàn người cùng đi vào thành. Sài Đại Kỷ có nghe nói về Lý Nguyệt Phu, vốn là sai dịch của phủ nha huyện Du, sau khi theo Lâm Sáng Văn; nhờ có chút ít học vấn và có võ nghệ, lại đánh thắng được mấy trận, nên được đề bạt làm tướng, hiện nay là đầu mục của một vùng núi kề cận ngoài thành, cai quản các đầu mục quân giặc ở Bố Đại Vĩ, Song Khẩu Khanh. Khi Lý Nguyệt Phu dẫn đoàn người vừa qua khỏi cầu treo, Sài Đại Kỷ nhìn thấy Lý Nguyệt Phu nhân trời tối quay lại vứt một cái gì đó. Sài Đại Kỷ giật mình, “trá hàng!” phải chăng Lâm Sáng Văn thấy đánh thành đã lâu mà không chiếm được nên nghĩ ra quỷ kế. Sài Đại Kỷ nói nhỏ với người cận vệ mấy câu, điềm nhiên nói với Lý Nguyệt Phu đang bước tới:
- Lý tướng quân cải tà quy chính, đủ thấy lòng trung thành của tướng quân đối với triều đình.
Lý Nguyệt Phu quỳ xuống đáp:
- Tiểu nhân nhất thời bị Lâm Sáng Văn cưỡng bức, thật bất đắc dĩ mới gia nhập vào hàng ngũ bọn giặc, mong đại nhân tha tội.
- Ngài làm thế nào thoát ra được, vợ con ngài ở đâu? Sài Đại Kỷ hỏi.
- Tiểu dân chưa có gia đình. Trưa hôm nay Sài đại nhân đến cướp doanh trại, mọi người sợ hãi, khiếp trước uy danh, tiểu dân tỉnh ngộ, biết đi nhầm đường.
- Quan kỳ bài, đưa họ vào phòng khách nghỉ, tiếp đãi chu đáo.
Tối đó, Lý Nguyệt Phu và những người cùng đi theo ngủ một mạch đến sáng. Vừa mở mắt, Lý Nguyệt Phu nhìn thấy lưỡi dao sáng quắc, sắc lạnh kề cổ, không thể cựa quậy được, mặt tái xám, gào to:
- Các ngươi sao lại làm thế này? Chẳng phải Hoàng đế Càn Long đã có chỉ dụ, chỉ cần quy hàng, lập công chuộc tội, đều được coi là nghĩa cử đó sao?
Quân Thanh không cần nghe phân giải, trói Nguyệt Phu lại, đánh đá túi bụi, giải đến phủ Tổng binh.
Sài Đại Kỷ ngồi uy nghiêm trên công đường, mặt lạnh như tiền, nhìn Lý Nguyệt Phu thét lớn:
- Lâm Sáng Văn là một tên xảo quyệt, dám dùng quỷ kế trá hàng lừa ta. Nói xong vung tay, một mảnh giấy bị vò nát rơi xuống trước mặt Lý Nguyệt Phu.
Lý Nguyệt Phu mặt không còn tí máu, cúi đầu không nói, mấy người khác thì lạy như tế sao xin được tha chết.
Sài Đại Kỷ cười nhạt nói:
- Kiến mà muốn rung cây, đem ra ngoài chém.
Lý Nguyệt Phu lúc này vẫn tỏ rõ khí phách anh hùng, đứng dậy, cười to:
- Chết nơi chiến trường, cái chết đó chẳng có gì đáng tiếc, ta cười ngày tận số của ngươi và bọn tham quan ô lại sắp đến rồi. Thành Chư La sắp bị đánh chiếm, dẫu các ngươi có cố thủ, cố thủ được mấy tháng, cố thủ được một năm không? Đại tướng quân Lâm Sáng Văn của chúng ta sẽ điều 20 vạn đại quân vây đánh thành. Sài Đại Kỷ, mạng của người sắp hết rồi. Lý Nguyệt Phu này, trước đây vì triều đình mà bỏ công sức, nhưng thấy khắp nơi nồng nặc hôi thối, khiến những người chính nghĩa không thể chịu nổi. Sài Đại Kỷ, người đến Đài Loan chưa đến một năm, đục khoét xương máu của dân chúng Đài Loan chưa đủ sao? Dù ta thất bại, liệu triều đình có tha cho ngươi không?
Sài Đại Kỷ cả giận, quát mắng:
- Tên phản nghịch, hàng ngày lừa dối dân chúng, muốn làm gì thì làm, giúp kẻ xấu làm bậy, đồng loã với giặc. Giả hàng để đánh chiếm thành, tội không thể tha. Chết đã đến nơi mà còn lắm mồm, người đâu, lôi hắn đi.
Lý Nguyệt Phu chẳng chút sợ hãi, bước đi vững chắc ra khỏi phủ Tổng binh. Những lời nói của Lý Nguyệt Phu đôi lúc vang vọng vào bên trong phủ đường, nhất là câu “Ngày tận số của Sài Đại Kỷ sắp đến rồi” làm đau nhói tim của Sài Đại Kỷ. Ông nghĩ, nếu thành Chư La bị thất thủ, bản thân sẽ chết, nếu cố thủ được, công lớn này sẽ át được cái tội tham ô. Nghĩ vậy, ông cầm bút viết cho Thường Thanh một lá thư cầu viện với lời lẽ tha thiết.
Thường Thanh lo lắng không phải vì bức thư cầu viện của Sài Đại Kỷ. Nếu chỉ là bức thư của Sài Đại Kỷ không thôi, Thường Thanh sẽ bỏ mặc như vừa qua. Cái chính là trong chỉ dụ, Càn Long nhận thấy việc cố thủ thành phủ, án binh bất động, không đưa quân đi giải vây Chư La là không phải lý do xác đáng. Thường Thanh tay cầm chỉ dụ như người bệnh ốm nặng cầm bức thông điệp của thần chết, cảm thấy, nếu không dẹp được cuộc khởi nghĩa của Lâm Sáng Văn thì tai hoạ sẽ ập xuống đầu. Càn Long chỉ dụ: “Nghe nói Lâm Sáng Văn kéo dài cuộc vây đánh thành Chư La. Sợ địch cố thủ thành phủ không dám đem quân ra đánh là sai lầm. Sài Đại Kỷ hiện nay bị vây đánh ở Chư La, đường tiếp tế lương thực bị cắt đứt xin thêm viện binh đến cứu. Thường Thanh phải tự mình đem đại quân đi tiếp ứng, nếu chỉ cử một ít lính tráng đi, còn mình ở lại giữ thành, vậy làm sao tiêu diệt được địch? Xem ra, các tướng quân Thường Thanh, Hằng Thụy vẫn còn mơ hồ lúng túng, hết sai lầm này đến sai lầm khác, lệnh cho khanh tiến đến Chư La, không được cố thủ ngồi chờ, để lỡ thời cơ, tự rước lấy tội”. Thường Thanh đầu nóng bốc hơi, mồ hôi toát ra, ướt đẫm cả tai và cổ nghĩ bụng, chắc chắn Sài Đại Kỷ đã bẩm báo với Hoàng thượng, may là chưa nói thật việc ta báo láo tình hình chiến sự để được khen thưởng. Cho dù như vậy, Sài Đại Kỷ nhà ngươi cũng lãnh đủ thảm hại sau một trận trầy da tróc vảy. Thường Thanh xem tiếp đoạn dưới, “trong bản tấu của Thường Thanh nói, cái gọi là giặc phá đường gây trở ngại, nên phải án binh bất động” là không có cơ sở, thử hỏi: đường hỏng, quan quân người ngựa khó đi, vậy quân giặc đi lại cũng không dễ. Thế nhưng mấy tháng qua, giặc vẫn xâm chiếm các nơi, đến nay cả một vùng núi lân cận và vùng Tam Hồ đều là sào huyệt của địch, có hàng vạn người, hay ít nhất cũng hàng ngàn người theo địch. Vậy họ đi bằng con đường nào? Quan binh lấy cớ đường sá hư hỏng không hành quân được thế thì giặc sao lại hành quân được, thật là vô lý! Phép hành quân, cốt ở chỗ linh hoạt biến đổi, quyết không thể ngồi chờ, gặp khó khăn nguy hiểm phải tìm cách mở đường tiến lên, phải chăng đường không thông thì không tiến quân? Khoảng cách giữa thành phủ của Thường Thanh với cứ điểm Nam Trạch của đầu mục giặc Trang Đại Điền không đầy năm dặm, Thường Thanh đến Đài Loan đã mấy tháng mà không nghĩ cách đánh cứ điểm của giặc ở ngay sát nách, để cho thế giặc lớn mạnh, đúng ra nhanh chóng đem đại quân tiêu diệt trước sào huyệt đầu mục Trang Đại Điền, thế mà lại cố thủ trong thành, thật khó hiểu nổi. Nếu Thường Thanh biết tìm cách tiến quân, đâu đến nỗi quân đội phải chịu khổ sở mệt nhọc lâu dài, vậy các người đáng được tin dùng không? Thường Thanh không chịu tiến quân lên phía bắc, lại không thừa thế tiêu diệt giặc ở phía nam.
Chỉ ngồi trong thành phủ cố thủ cho qua chuyện? Một tờ thánh dụ khiến Thường Thanh nghẹt thở, suy đi nghĩ lại, lại nghĩ đến Hoà Thân. Lúc này chỉ có Hoà Thân mới cứu được mình. Thường Thanh tựa vào bàn đứng dậy, xoa cặp mắt, cầm bút nhưng chẳng biết nên viết thế nào? Ông không tìm được lý do nào để biện bạch cho mình, bí quá, đành phóng bút viết: “Kính Hoà đại nhân: kẻ hậu sinh Thường Thanh từ khi đến Đài Loan, ngày đêm lo nghĩ, điều binh khiển tướng, nắm bắt tình hình, nhiều lần đánh lui quân giặc, nhưng vì thế giặc lớn mạnh, chiến sự tiến triển không thuận, đã lâu mà chưa bình định được giặc thật đáng xấu hổ, đã phụ ân đức nâng đỡ của tướng phụ... Tối qua lúc đi tuần tra doanh trại, một trận gió cát đập vào mắt, kẻ hậu sinh dùng nước rửa mặt, không ngờ bệnh cũ tái phát, nhờ thầy thuốc chữa trị mới bắt đầu nhìn thấy ánh sáng, nhưng không thể nhìn lâu, nhìn lâu đầu đau như búa bổ, không thể hành quân tác chiến, gặp gió nước mắt cứ tuôn chảy. Kẻ hậu sinh này rất muốn giết giặc, nhưng ngặt vì mắt đau, rất mong Hoà đại nhân nói khéo với Hoàng thượng, xin cử người khác đến cầm quân đánh giặc. Vì lâu chưa về kinh, nên chưa thể đến quý phủ thăm Hoà phu nhân, thật có lỗi,...” Thường Thanh viết xong, xem kỹ lại, sửa chữa một vài ngôn từ, chép sao thêm một bản, bỏ vào túi gấm, niêm phong lại, gọi người thân tín đến, ghé sát tai dặn dò hồi lâu, mới an tâm để anh ta ra đi.
Lòng trung thành của Sài Đại Kỷ được Càn Long thấu hiểu. Càn Long, trong dụ chỉ công bố trước các đại thần quân cơ, khen thưởng Sài Đại Kỷ. Đêm hè, thành Chư La như bị nhốt trong chiếc lồng nóng bức ghê người, phủ đệ của Sài Đại Kỷ cùng nằm trong cảnh ấy. Sài Đại Kỷ ngồi trong thư phòng, bên cạnh chiếc đèn lồng, xem lại một lần nữa chỉ dụ của Càn Long. Từ chiếc ao sau vườn vọng lại tiếng ếch nhái, cùng mùi thơm hoa sen thoang thoảng. Cặp mắt màu xám, nghiêm nghị của Sài Đại Kỷ cứ xem đi xem lại những lời khen ngợi của Càn Long, lòng dâng trào niềm vui sướng. Ông cảm động, đặt thánh chỉ lên chiếc bàn hướng về phía bắc, tự mình đốt ba nén nhang, mê mẩn nhìn theo ba làn khói xanh cuộn bay lên nóc nhà. Ông cung kính quỳ xuống, mặt hướng về phương bắc, khấu đầu chín lần. Ông cảm thấy công sức giữ thành của mình không hoài phí, giống như một đứa trẻ làm điều tốt nhưng bị oan, bỗng được người ta hiểu rõ và khen ngợi. Sài Đại Kỷ cảm động đến nghẹn ngào...
Thành Bắc Kinh vào tháng sáu, mặt đất như lửa đốt. Hơi nóng cuồn cuộn bốc lên trên đường phố, đốt sém những chiếc lá xanh, nung nóng những tấm biển đồng treo trước các cửa hiệu. Nhưng Hòa Thân, người được Hoàng đế Càn Long sủng ái vẫn muốn đến thăm Càn Long trong lúc khí trời cực kỳ nóng bức như thế này. Lúc này, Hòa Thân đã là Hiệp biện Đại học sĩ, Hành tẩu Cục quân cơ, kiêm Thượng thư bộ Hộ và bộ Lại, được ban Nhất đẳng Nam tước. Hòa Thân ngồi trong chiếc kiệu tám người khiêng, lòng vô cùng dễ chịu. Thường Thanh gọi ông là tướng phụ, thật hợp với ý ông. Thân hình béo phì của Hòa Thân lắc lư theo nhịp đi của phu kiệu. Lá thư của Thường Thanh đã quán triệt lời dạy bảo của Hòa Thân, và còn thực hiện khá xuất sắc. Trong kho phủ Hòa Thân lại có thêm hai vạn lạng bạc trắng và một số châu báu quý hiếm. Kiệu Hòa Thân vừa đến Ngọ Môn, đã thấy thái giám nội cung vội vàng chạy ra. Hòa Thân gọi dừng lại. Thái giám nhìn thấy kiệu Hòa Thân chạy đến báo:
- Hòa đại nhân, đại nhân đến đúng lúc. Hoàng thượng thấy khó chịu, trời nóng bức quá, vẫn bảo nô tài đi mời đại nhân vào cung. Đại nhân không biết đấy, thời gian đại nhân vắng mặt ở kinh thành, Hoàng thượng đứng ngồi không yên, suốt ngày nhắc đến đại nhân. Đại nhân mau đến Dưỡng Tâm Trai đi, Hoàng thượng đang chờ đại nhân ở đấy.
Hòa Thân đắc ý, nói với Tổng quản thái giám:
- Thần cũng không giờ phút nào không nhớ đến Đức vạn tuế. Nói xong lệnh cho kiệu đi thẳng vào Dưỡng Tâm Trai.
Dưỡng Tâm Trai là nơi nghỉ mát trong cung của Hoàng đế Càn Long và Hoàng Hậu. Do chiến sự ở Đài Loan, Càn Long không đi nghỉ mát ở Sơn Trang, Thừa Đức. Dưỡng Tâm Trai nằm dưới chân núi Đôi Tú trong Ngư Hoa Viên, hậu cung, mặt đối diện với Bắc Hải. Núi Đôi Tú nhấp nhô những tảng đá kỳ dị tắm mình trong những suối nước phun lên từ lòng đất, trông thật tươi mát. Hòa Thân xuống kiệu vội vội vàng vàng bước đi trên con đường dẫn tới Dưỡng Tâm Trai. Dưới chân tường cao màu đỏ, hai hàng thái giám đứng trực, tay xuôi, người thẳng nét mặt nghiêm trang. Hòa Thân có phần lo lắng, không rõ Càn Long muốn gặp mình có việc gì đây. Đang suy nghĩ, nghe từ trong truyền ra:
- Truyền Hòa Thân vào cung yết kiến Hoàng thượng.
Hòa Thân vội bước nhanh hơn, vừa vào Dưỡng Tâm Trai đã thấy Hoàng thượng ngồi trước bàn chất đầy những bản tấu, nét mặt giận dữ. Hòa Thân quỳ xuống tâu:
- Nô tài Hòa Thân yết kiến Hoàng thượng.
Càn Long “hừm” một tiếng rồi nói:
- Nóng bức khó chịu, chiến sự cũng khó chịu, Trẫm ăn không ngon ngủ không yên.
Hòa Thân ngẩng đầu tâu:
- Hoàng thượng cần gì phải lo lắng như vậy. Nô tài đến vùng Mân - Triết lần này, nhìn thấy sĩ khí hừng hực, nghe nói, Thường Thanh lại bắt đầu tấn công bọn giặc Lâm Sáng Văn.
Càn Long vụt đứng dậy, nghiêm giọng:
- Chớ nói hồ đồ. Thường Thanh báo láo chiến công, tình thế rõ ràng bất lợi, lại còn dối Trẫm ư, hắn là môn sinh của khanh phải không.
Hòa Thân run rẩy tâu:
- Hoàng thượng, nô tài, nô tài cũng mới chỉ nghe một phía, nô tài đáng chết.
Càn Long vẫy tay:
- Đứng dậy! Ngồi xuống! Trẫm không buộc tội khanh, Trẫm đã đọc bản tấu của Sài Đại Kỷ ở Đài Loan mới biết sự thật. Nhìn Hòa Thân đang ngồi, nói tiếp: - Việc vận chuyển lương thực tiến triển như thế nào? Mí mắt Càn Long chớp chớp.
- Có lệnh của Đức vạn tuế, công việc rất thuận lợi. Các nhà buôn muối như Phan Văn Nghiêm, Lý Niệm Đức ở Quảng Đông quyên góp được 55 vạn lạng bạc, ở Trường Lô, Sơn Đông góp được 50 vạn lạng, Hà Vĩnh Hòa ở Lưỡng Triết quyên góp được 70 vạn lạng, Giang Quảng Đạt ở Lưỡng Hòa quyên được 200 vạn lạng, để dùng vào quân nhu và thưởng ba quân.
Càn Long gật đầu không nói, nghĩ bụng: Hòa Thân làm việc khá trôi chảy. Đáng tiếc không phải là võ tướng, nếu không, cử Hòa Thân đi Đài Loan là thích hợp nhất.
Bên ngoài, tiếng ve kêu trầm bổng, bên trong khắp bốn góc nhà đầy những nước đá do các thái giám nội cung chuẩn bị sẵn. Hơi nước mát lạnh quyện lẫn với tiếng sột soạt giở xem từng trang bản tấu. Càn Long sầm mặt lại không còn vui như hôm trước. “Thường Thanh vẫn án binh bất động, Chư La sắp nguy khốn. Ánh mắt Càn Long dừng lại trên hàng chữ ấy. Vì sao có 5 vạn đại quân mà không thừa thế đánh địch, thật khó hiểu nổi. Càng nghĩ càng tức, đưa mắt liếc nhìn Hòa Thân, nghĩ bụng, Thường Thanh do Hòa Thân tiến cử, chẳng qua là một tên rượu thịt, một kẻ tham sống sợ chết, nhưng lại không đành trút giận lên Hòa Thân, cúi đầu yên lặng. Hòa Thân biết thóp được thế giới nội tâm của Càn Long lúc này. Càn Long nể mặt mình nên không tiện nói thật. Vậy tiến cử ai đây? Nếu Đài Loan không nhanh chóng được bình định, không những Thường Thanh bị trừng phạt mà cả ta cũng bị liên lụy, chi bằng sớm kết thúc có hay hơn không? Đầu óc vụt lóe sáng. Đúng rồi, lần trước chẳng phải Càn Long đã nhắc đến Phúc Khang An là gì, tuy hắn với ta bất hòa với nhau. Trước nay hắn coi thường ta, nhưng lần này đẩy hắn ra Đài Loan. Nếu thắng, trước mặt Càn Long ta cũng có công tiến cử; bại, nhân đấy thẳng tay đả kích hắn. Hòa Thân biết rõ, giữa Phúc Khang An với Càn Long có mối quan hệ khá tế nhị. Dẫu Phúc Khang An không công nhận lòng tốt của ta, Càn Long vẫn phải công nhận bụng dạ Hòa Thân này không hẹp hòi, thật sự chia sẻ lo âu với Hoàng thượng. Nghĩ như vậy, Hòa Thân tâu:
- Nô tài khi ở Mân - Triết lo việc quản lương nghe nói Thường Thanh tuổi cao, sức khỏe ngày càng suy yếu, không thể cầm quân đánh giặc.
- Sức khỏe gì, chỉ cố thủ ngồi chờ.
- Đúng đúng, theo nô tài, chi bằng thay người khác, phải cử một tướng từng trải chinh chiến. Nô tài cho rằng, Tổng đốc Thiểm - Cam, Phúc Khang An là người thích hợp, võ nghệ tài giỏi, mưu dũng song toàn, nhiều kinh nghiệm chiến đấu hơn Thường Thanh, đã từng trải qua nhiều trận ác liệt hiểm nguy, tuy rằng vùng Thiểm - Cam còn cần Phúc Khang An trấn giữ, nhưng công việc có nặng - nhẹ, nhanh - chậm, trước - sau, chính - phụ. Ý Hoàng thượng thế nào?
Nét buồn u ám trên khuôn mặt Càn Long dần dần tan biến, Càn Long nghĩ thầm: ôi Hòa Thân vẫn là Hòa Thân, ta không chỉ một lần nghe Phúc Khang An nói ra nói vào châm chọc Hòa Thân, lần trước vì chuyện trông coi sửa chữa lăng vua, hai người đã mâu thuẫn nhau, như nước với lửa. Đáng quý là, Hòa Thân bỏ qua hiềm khích trước đây. Lòng dạ khá rộng rãi. Càn Long gật đầu nói:
- Rất hợp ý Trẫm.
Hòa Thân đứng dậy, rời khỏi ghế, tâu:
- Cần triệu tập các đại thần khác không?
Càn Long khoác tay:
- Không cần, Trẫm sẽ hạ chỉ, khanh mang chỉ dụ của Trẫm truyền lại cho Cục Quân cơ, cứ thế thi hành.
Hòa Thân lại hỏi:
- Với Thường Thanh thì thế nào? Theo nô tài, nếu bây giờ hạ chỉ xét xử thì chưa thích hợp, hơn nữa, Thường Thanh chưa phạm lỗi lầm gì lớn, thế giặc lúc đầu hung hăng, ào ạt, chưa rõ hết tình hình.
Càn Long nhìn Hòa Thân, nói:
- Ý khanh, Trẫm rõ. Thường Thanh không chịu tiến quân lên bắc, lại không thừa thế diệt địch ở phía nam, chỉ muốn ngồi giữ thành phủ Đài Loan cho đến già, vậy có thể hoàn thành được nhiệm vụ không? Thường Thanh tuổi cao, ở lại quân đội, quả thực vô ích. Nhưng Trẫm không muốn xét xử y trước khi tình hình chưa ổn định, chờ Phúc Khang An đến Đài Loan, để Phúc Khang An quyết định, hoặc giữ ông ta ở lại quân đội, hoặc không dùng ông ta thì lệnh cho ông ta về kinh gặp Trẫm.
Hòa Thận không tiện nói thêm, cáo từ rút lui.
Thường Thanh không dẹp nổi quân khởi nghĩa Lâm Sáng Văn, làm mất lòng tin của Càn Long. Sau khi suy tính, Càn Long dựa vào ý kiến Hòa Thân viết chỉ dụ cử Phúc Khang An đến Đài Loan. Chỉ dụ viết rõ, lệnh Hiệp biện Đại học sĩ, Tổng đốc Thiểm - Cam, Phúc Khang An đến Đài Loan, thay Thường Thanh chỉ huy quân đội, và chỉ dụ Hải Lan Sát làm đại thần tham tán, Phổ Nhĩ Phổ làm đại thần lãnh đội, mỗi người dẫn 20 thị vệ nội cung đến Đài Loan. Tháng 8, năm Càn Long thứ 52, cử Phúc Khang An làm tướng quân, điều quân ở các nơi Hồ Nam, Hồ Bắc, Quý Châu, Tứ Xuyên, v.v... mỗi nơi 2.000 người tăng viện cho Đài Loan. Thực ra, số quân được cử đến cứu viện Đài Loan là do Hòa Thân quy định, ông ta tâu với Càn Long, quân cốt tinh chứ không cần đông, hơn nữa ở Đài Loan đã có 10 vạn đại quân rồi. Quân Lâm Sáng Văn chẳng qua là bọn ô hợp, huênh hoang là có 20 vạn, thực tế chỉ có mấy vạn người. Đại quân càng đông, nhu cầu lương thực càng nhiều, các nơi phải đóng góp, dễ sinh ra oán hờn,v.v... Sau khi chuẩn y, Càn Long lại chỉ dụ cho Tổng binh Đài Loan, Sài Đại Kỷ không nhất thiết cố thủ sống chết với thành phủ, nếu nguy cấp có thể cho quân đánh tháo bỏ thành sau sẽ tìm cách chiếm lại và phong cho Sài Đại Kỷ tước vị Thái tử Thái bảo, nhận thấy Chư La bị vây khốn lâu ngày, quân dân trong thành ra sức bảo vệ, dốc lòng vì nghĩa, nên đặc ban cho thành Chư La cái tên Thành huyện Gia Nghĩa.
Phúc Khang An từ khi chào đời, đã được Càn Long che chở, sủng ái, đến mức các hoàng tử khác cũng phải thèm thuồng ghen tỵ. Phúc Khang An từng tham gia hai chiến dịch bình định Kim Xuyên, dẹp yên cuộc khởi nghĩa của Điền Ngữ, dân tộc Hồi ở Cam Túc, qua những chiến công hiển hách càng được Càn Long sủng ái, được vẽ hình treo tại Tử Quang Các.
Tháng 8, năm Càn Long thứ 52, Phúc Khang An đứng ngồi không yên. Trước hết, Phúc Khang An không muốn đem quân đánh giặc ở Đài Loan xa xôi cách trở bởi một eo biển tách rời đại lục, thế giặc lại mạnh, địa hình không quen thuộc, rối như tơ vò, chẳng biết đâu mà lần; thứ hai, Hoàng đế Càn Long chỉ điều cho mình vẻn vẹn không quá 6.000 quân, như vậy chẳng khác nào thả một con dê giữa bầy lang sói, nhưng không thể chống lại được thánh chỉ, trên đường đi đến Đài Loan, lòng buồn rười rượi. Phúc Khang An có dáng người đoan chính, đôi mắt cú vọ, mũi nhọn tựa mỏ diều hâu, nhạy bén lạ thường, nói cách khác là một con người lòng dạ hẹp hòi, đố kỵ ghen tỵ. Khi đến mặt trận Mân - Triết, suốt ngày ngồi nhìn nước biển mênh mông, chẳng làm việc gì, viết một bản tấu gửi Càn Long: “Thần tuân chỉ, trên đường đi được xem bản tấu của Thường Thanh, biết quan binh hai lộ nam bắc chưa đến kịp, nên lực lượng chưa đủ. Hiện nay, quan binh miền Triết -Việt đang tiếp tục vượt biển, nhưng vẫn chưa ra trận, e rằng chưa thật đủ sức, quân đội Tứ Xuyên chưa đến. Sài Đại Kỷ sức yếu thế cô, bị vây khốn đã nhiều tháng, Thường Thanh có đưa quân đến cứu nhưng quân ít lại bị hao tổn dần. Tinh thần quân lính giảm sút, khó tấn công địch ngay. Nếu cho quân trong thành phủ ra cứu viện, quân giặc lại xảo trá, thấy quan binh tập trung ở Chư La, lại tấn công thành phủ, thần đang trù tính kế hoạch, khẩn khiết xin Hoàng Thượng lệnh cho các tỉnh điều ngay tất cả 8.000 quân như chỉ dụ trước đây đến Mân để tham chiến”. Viết xong, dục người chuyển gấp bản tấu về cho Càn Long, còn bản thân ở trong phủ đô đốc vui chơi hưởng lạc.
Càn Long nhận được bản tấu của Phúc Khang An, nghĩ bụng, Phúc Khang An đã phụ ân Trẫm, đứng trước đám giặc nhỏ nhoi, bản thân có nhiều kinh nghiệm chinh chiến, lẽ nào lại khiếp sợ giặc ư? Nhất định Phúc Khang An nhận thấy thế lực giặc quá mạnh, lực lượng quan binh quá yếu, nên lo sợ. Càn Long lập tức triệu tập các đại thần quân cơ bàn bạc. Hòa Thân hăng hái nói, Phúc Khang An vẫn là con nhà tướng, Hoàng thượng đối xử với Phúc Khang An như tình cha con, nhưng danh phận vua tôi rõ ràng, Phúc Khang An vẫn hăng hái dũng cảm. Nhưng, có lẽ Phúc Khang An nhiều năm không chinh chiến, dùng binh bỡ ngỡ, thiếu niềm tin, v.v... Càn Long khen Hòa Thân nói phải. Chỉ có Đại học sĩ, người đứng đầu Cục quân cơ, anh dũng mưu lược bậc nhất, A Quế đưa ra kế sách cụ thể như sau: quân giặc ngồi cao nhìn xuống, quan binh tiến vào sào huyệt, chúng ắt phải ra chặn đánh, thăm dò hư thực, Lâm Sáng Văn có thể theo dõi lúc quân lính nghỉ ngơi, thả lỏng lúc đầu rồi sau chặn đánh, tấn công bốn phía. Nếu đem quân đánh, quan quân không đủ. Chỉ có cách lệnh cho quân ở các nơi hiểm yếu như thành phủ, Chư La, Lộc Tử Cảng tiếp tục phòng thủ, rồi chọn 2-3 vạn quân tinh nhuệ chọc thẳng vào sào huyệt giặc, mới có thể thành công. Càn Long tán thành, áp dụng kế hoạch của A Quế. Hòa Thân ít nhiều cảm thấy khó chịu, nhắc lại ý mình vừa nói trên một thôi một hồi. Càn Long cũng tán thành, thế là cân bằng.
Càn Long trong ba ngày 24, 25, 26 tháng 8, liên tiếp ra ba đạo chỉ dụ, để động viên cổ vũ Phúc Khang An yên tâm đánh thắng giặc. Càn Long viết trong chỉ dụ như sau: “Chiến sự Đài Loan từ khi bắt đầu đến nay, không thể không có mối quan hệ chặt chẽ với quan lại địa phương, do trước đây không xử lý thỏa đáng, khiến dân chúng vô cùng oán hận. Sau lại không đánh dẹp được, để thế giặc lớn mạnh. Vấn đề quan trọng nhất là do Thường Thanh khiếp sợ, hoang mang không dám đánh địch, nên cử Phúc Khang An đến thay, cầm quyền đánh giặc, nay xem bản tấu của Phúc Khang An thấy Phúc Khang An có phần lo ngại. Hiện nay quân tăng viện không phải là ít, hơn nữa Phúc Khang An còn mang theo hơn trăm thị vệ Ba-đồ-lỗ đã từng chinh chiến, khỏe mạnh. Có nhiều quân, lại có tướng giỏi, Phúc Khang An không phải lo ngại. Phúc Khang An là thống soái, quan quân đều nhìn