← Quay lại trang sách

Chương 12 PHÔ TRƯƠNG HÙNG VĨ-GIẤU BỆNH TRÁNH THẦY

Hòa thân tổng phụ trách công trình lễ mừng thọ Càn Long 80 tuổi. Lễ mừng thọ cực kỳ sang trọng...

- Càn Long khoe khoang thái bình thịnh trị, Doãn Tráng Đồ lại tâu rằng: “Tuần phủ các tỉnh, thanh danh bê bối, quan lại thối nát, kho phủ trống rỗng”.

- Hòa Thân bảo Khánh Thành, hãy theo dõi sát Doãn Tráng Đồ. “Ta đã báo gấp cho các tỉnh Sơn Tây, Trực Lệ, Sơn Đông chuẩn bị sẵn sàng...

Năm Canh Tuất, Càn Long tròn 80 tuổi, làm vua được 55 năm. Càn Long nói rằng: Từ thời Tam Đại đến nay, rất ít bậc đế vương sống đến tuổi cổ lai hy; Hán Vũ Đế, Lương Vũ Đế, Đường Minh Hoàng, Tống Cao Tông, Minh Thế Tổ sống đến 70 tuổi; chỉ có Lương Vũ Đế, Tống Cao Tông, Nguyên Thế Tổ sống đến 80 tuổi. Càn Long muốn thoái vị nhường ngôi vào năm Bính Thìn, tức là 5 năm nữa.

Ngày 3 tháng 8, là ngày sinh của Càn Long. Năm ấy, cả nước từ trên xuống dưới đều nhộn nhịp chuẩn bị.

Hòa Thân và Thượng Thư bộ Công là Kim Giản, làm tổng phụ trách công trình lễ mừng thọ Càn Long 80 tuổi.

Càn long triệu kiến Hòa Thân, Kim Giản:

- Lễ mừng thọ của Trẫm, phải long trọng, nhưng không được lãng phí.

Hòa Thân tâu:

- Lễ mừng thọ Hoàng thượng 80 tuổi, xưa nay hiếm có Hoàng thượng hàng ngày phải lo bao nhiêu việc quan trọng, lập được nhiều chiến công. Ngày nay, Đại Thanh thái bình thịnh trị, Thánh thượng thọ 80, đáng được vui mừng nhiệt liệt. Chuyện tiền bạc vật tư, xin Hoàng thượng để nô tài lo liệu. Hiện nay, nhà buôn ở các tỉnh đua nhau quyên góp khá nhiều, tiền bạc dồi dào, không phải dùng đến tiền bạc trong kho triều đình.

Nghe vậy, Càn Long rất vui mừng.

Ngoài số tiền quyên góp của các nhà buôn ra, các vương công đại thần; các quan chức từ các bộ đến các tỉnh, tùy theo cấp bậc cao thấp mà đóng góp vào chi phí cho lễ mừng thọ. Ngày 10 tháng 5, Lưu thân vương Vĩnh Lang, đại học sĩ A Quế, đại học sĩ Kê Hoàng, Thượng thư bộ Lễ Thường Thanh ở lại kinh giải quyết các công việc, Càn Long lên đường đi Nhiệt Hà. Lễ mừng thọ 80 tuổi bắt đầu.

Sứ thần các nước lần lượt đến. Càn Long cùng Hòa Thân tiếp kiến: quốc vương An Nam Nguyễn Quang Trung, sứ thần Triều Tiên Hoàn Nhân Điểm, sứ thần Miến Điện Cư Vi Đà, sứ thần Nam Chưởng (Lào) Bát Chỉnh Hồng, v.v... Các sứ thần đều mang theo lễ vật mừng thọ.

Hòa Thân thay mặt Càn Long tiếp hai Lạt ma Tây Tạng, các Minh Kỳ Mông Cổ, những người đứng đầu các bộ lạc miền tây, v.v...

Lễ vật từ khắp nơi ùn ùn đưa đến. Các vương công đại thần đều có những lễ vật mừng thọ xứng đáng; tuần phủ các tỉnh thì dâng trân châu bảo ngọc quý hiếm. Để vừa lòng Hoàng thượng, các đại thần phải vắt óc suy nghĩ. Các lễ vật đều được Hòa Thân xem xét từng thứ một.

Tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An mang lễ vật đến, Hòa Thân vô cùng thích thú, lật ra xem, thấy trong bảy lễ vật, có một cái hộp bằng gỗ nam mộc. Hòa Thân không biết trong hộp có vật gì, bèn mở nắp ra, một ngôi nhà nhỏ màu đỏ hiện ra, trong ngôi nhà đó có một bức bình phong, một cái bàn trên đó bày ra một bộ văn phòng tứ bảo. Hòa Thân nhìn thấy phía dưới chiếc bàn có một cái chốt, dùng tay ấn chốt, một cô gái phương Tây tóc vàng mắt xanh từ cánh phải bức bình phong bước ra, từ từ phủi bụi trên chiếc bàn rồi đổ nước vào nghiên mực mài mực, sau đó lấy từ trên giá sách một tờ giấy đỏ đặt lên bàn; từ cánh trái bức bình phong xuất hiện một vị khác có bộ râu mép vểnh, tiến tới trước bàn, ngồi xuống cầm bút viết bốn chữ “Vạn Thọ Vô Cương” bằng hai thứ chữ Mãn - Hán kết hợp, viết xong đặt bút lại chỗ cũ, lui vào phía sau tấm bình phong; cô gái phương Tây thu dọn bút nghiên, quay về chỗ cũ. Đúng là cực kỳ tinh xảo.

Lễ mừng thọ Càn Long được tổ chức ở ba nơi: từ ngày 7 tháng 7 đến 23 tháng 7 tại Sơn Trang, Thừa Đức; ngày 24 tháng 7 khởi giá về kinh, ngày 30 tháng 7 đến vườn Viên Minh; ngày 12 tháng 8, từ vườn Viên Minh về cung, ngày 13 tháng 8 tổ chức đại lễ tại điện Thái Hòa, ngày 21 tháng 8 kết thúc. Dưới đây xin kể qua chương trình hoạt riêng của những ngày lễ.

Ngày 10 tháng 5, Càn Long đến khu nghỉ mát Sơn Trang ở Thừa Đức, hai tháng trước ngày lễ. Trong thời gian này, Càn Long vẫn bận rộn với công việc triều chính, xem duyệt tấu chương, gặp gỡ đại thần, xử lý việc nước, cho đến đầu tháng 7. Ngày 7 tháng 7, Hoàng đế Càn Long giá lâm đến Y Thanh Khoáng, tiếp nhận lễ ra mắt của hai vị phật sống Triết Bố Tôn Đan Ba và Cát Nhĩ Đan Tích Gia. Y Thanh Khoáng ở phía sau điện Kính Thành, sau Càn Long gọi là Tứ Tri Thư Ốc.

Ngày 9, Quốc vương An Nam Nguyễn Quang Trung, vương công các bộ tộc Mông Cổ, thủ lĩnh các bộ tộc Hồi và các dân tộc thiểu số yết kiến Hoàng đế Càn Long, sau đó xem tuồng kịch tại nhà hát lớn Thanh Âm Các. Nhà hát lớn Thanh Âm Các nằm trong thắng cảnh Quyển A thuộc khu nghỉ mát Sơn Trang, mặt hướng về phương bắc, cao gồm ba tầng; đối diện là Phước Thọ Viên, nơi xem kịch của Hoàng đế, mặt tiền rộng năm gian, gồm hai tầng. Hai bên lầu là phòng dành cho các sứ thần nước ngoài, các vương công đại thần xem kịch và dự yến tiệc. Thời gian mừng thọ Hoàng đế Càn Long đúng vào lúc thời tiết nóng bức, các quan viên xem tuồng ở ngoài trời không khỏi bị nắng chiếu nóng, Càn Long ra lệnh lợp mái che trước nhà hát lớn. Tuồng mừng thọ gồm có các vở “Tây lai chúc thọ”, “Bàn đào thượng thọ”, “Linh tiên chúc thọ”, “Quần tiên chúc thọ” cả thảy hơn hai mươi vở. Những vở tuồng đó đều được soạn và diễn theo nội dung mừng thọ Hoàng đế, quy mô rất lớn, diễn viên nhiều, phông màn đạo cụ bố trí trên sân khấu cũng nhiều hầu như chiếm cả ba tầng của nhà hát. Diễn viên hát hay, múa đẹp, áo quần lộng lẫy, biểu diễn trong khung cảnh hư hư thật thật, sân khấu trông thật hùng tráng.

Ngày 10, sau khi ăn sáng, Hoàng đế Càn Long đến Y Thanh Khoáng. Sứ thần các nước được quan viên bộ Lại, bộ Binh đưa đến yết kiến và đệ trình thư mừng thọ màu đỏ lên Hoàng đế Càn Long.

Ngày 11, sứ thần các nước Triều Tiên, Miến Điện, Nam Chưởng đến yết kiến Hoàng đế Càn Long. Hôm ấy cũng là hôm tổ chức diễn tuồng rầm rộ tại Thanh Âm Các để khoản đãi.

Ngày 12, thủ lĩnh bộ tộc Cáp Tát Khắc đến yết kiến Càn Long tại Huệ Địch Cát Môn, còn gọi là Bắc Môn ở phía đông bắc Sơn Trang. Hôm ấy, tại đây, Càn Long làm lễ bái miếu dâng hương, nghe niệm kinh Vạn Thọ.

Ngày 13, các thổ ty đại biểu Kim Xuyên, Cam Túc, thủ lĩnh Đài Loan đến yết kiến Càn Long và xem tuồng.

Ngày 14, từ sáng sớm, tại điện Kính Thành ở Sơn Trang, Càn Long tổ chức đại tiệc chiêu đãi sứ thần các nước, bá quan văn võ đến chúc thọ. Điện Kính Thành làm toàn bằng gỗ nam mộc, vì vậy còn có tên là “điện Nam Mộc”, không tô vẽ màu sắc, riêng đầu xà nhà sơn màu xanh, trong điện có ngai vua, sau ngai vua là tấm bình phong, hai bên có lư hương, mái điện treo đèn giống như nội cung. Tối đó còn được xem pháo hoa trong lều Mông Cổ ở Vạn Thọ Viên. Cây cỏ trong Vạn Thọ Viên xanh tươi, cảnh rất tự nhiên, cầm thú chạy nhảy nô đùa, chim chóc hót ca, đúng là phong cảnh vùng thảo nguyên nơi biên ải. Tại đây, Càn Long thường tiếp kiến, ban thưởng, chiêu đãi sứ thần các nước, lãnh tụ các tôn giáo, thủ lãnh các bộ tộc Mông, Hồi, v.v... Trên bãi cỏ nơi đây dựng lên một chiếc lều ngự ác Mông Cổ cao hơn bảy trượng, được gọi là “Hoàng Ác Điện”. Đây là cung điện làm việc tạm thời của Hoàng đế. Ngoài ra còn có một lều Mông Cổ ngũ hợp ở phía sau dành cho Hoàng đế nghỉ ngơi. Phía trước Hoàng Ác Điện có hai chiếc lều Mông Cổ buộc hoa trên đỉnh giống gian nhà trong triều, hai gian nhà kiểu phương Tây ở hai bên đối diện nhau, là nơi ở của các triều thần và sứ thần; hai mươi bốn chiếc lều cho những người phục vụ nằm rải rác quanh Hoàng Ác Điện. Pháo hoa ở Vạn Thọ Viên thường tổ chức vào lúc chiều tối. Trên một dàn cao được dựng tạm thời, người ta treo rất nhiều pháo hoa hộp, sau khi châm lửa đốt, pháo tung rơi thành nhiều tầng, tiếp theo là những chiếc đèn lồng từ trong chiếc hộp tung ra treo lủng lẳng, hiện lên nhiều cảnh vật khác nhau, ánh lên đủ màu sắc rực rỡ đẹp mắt, sau đó là những tràng pháo nổ vang như sấm. Thật là hùng tráng.

Ngày 15, Càn Long cùng mọi người đi xem hoa đăng trên sông. Hôm này là ngày rằm tháng 7, tết Trung Nguyên, dân gian có tục thả đèn trôi sông. Các đền, chùa đều tổ chức lễ hội Vu Lan, đốt đèn tụng kinh, để siêu độ cô hồn. Thời Thuận Trị nhà Thanh, đã từng mời Trần Ngọc Lâm đến lập đạo đàn Vu Lan tại điện Vạn Thiện, từ ngày 13 đến ngày 15 thả đèn trôi sông. Hoàng đế Càn Long cũng theo lệ đó, lệnh cho các tiểu thái giám đốt đèn nến đặt trên những lá sen trong hồ ở Sơn Trang và cả những cây đèn làm bằng thủy tinh giống như hoa sen. Hàng ngàn chiếc đèn hoa sen, nhấp nhô trôi nổi trên mặt hồ gợn sóng, ánh đèn lung linh, cùng với trăm ngàn đèn lá sen, phản chiếu xuống mặt hồ, hoà lẫn với những ngôi sao trên bầu trời đêm, khiến như đất trời lúc ấy hợp thành một.

Ngày 16 đến ngày 19, diễn tuồng suốt bốn ngày tại Thanh Âm Các. Sau đó về kinh.

Ngày 20 đến ngày 22, Hoàng đế Càn Long mở tiệc tại Vạn Thọ Viên chiêu đãi quốc vương An Nam, sứ thần các nước, thổ ti Kim Xuyên, Cam Túc, thủ lĩnh Đài Loan, hai vị phật sống Triết Bố Tôn Đan Ba và Cát Nhĩ Đan Tích Gia, Lạt ma Nặc Môn Hản, các vương công Mông Cổ. Trừ các thủ lĩnh lớp trên của các bộ lạc do nhiều nguyên nhân không ở lại Bắc Kinh được, còn tất cả đều lần lượt kéo về kinh trong ba ngày để chúc thọ.

Ngày 24, Hoàng đế Càn Long khởi giá từ Sơn Trang. Thủ lĩnh các bộ lạc Hô Đồ Khắc Đồ, Đô Nhĩ Bá Đặc, Thổ Nhĩ Hộ Đặc, Hoắc Thạc Đặc, Ô Lương Hải, Cát Tát Khắc đưa tiễn đến Vạn Thọ Đình, mới quay trở về bộ lạc mình.

Ngày 25 đến ngày 29, đi qua các nơi như Thường Sơn Dụ, Lưỡng Gian Phòng, Dao Đình Tử, Mật Vận Huyện, Nam Thạch Tào, đến đâu nghỉ chân ở đó.

Ngày 30, sau cuộc hành trình sáu ngày, xa giá Càn Long được các quan văn võ bảo vệ đã đến vườn Ngự Uyển Viên Minh tại tây bắc Bắc Kinh. Vườn Viên Minh đã được trang hoàng như mới, chỗ nào cũng đẹp, như bồng lai tiên cảnh, hoa thơm cỏ lạ tỏa ra mùi thơm ngào ngạt. Nhờ tài trang trí, vườn Thượng Uyển đã đẹp càng đẹp nhiều hơn, bao trùm không khí lễ hội mừng thọ.

Ngày 1 đến ngày 6 tháng 8, tại Lạc Đồng Viên, liên tục trong sáu ngày diễn vở tuồng “Thăng bình bảo phiệt”. Đây là một vở tuồng lớn gồm mười màn, hai trăm bốn mươi cảnh, nội dung lấy từ cuốn “Tây Du Ký “ của nhà văn Ngô Thừa Ân đời Minh, diễn chuyện Đường Tăng dẫn ba đồ đệ Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa thượng đến Tây Thiên lấy kinh.

Ngày 7 và 8, cử quan đến đàn tế xã tắc; nhận thư chúc thọ màu đỏ của Lạt ma Tây Tạng.

Ngày 10, tạm thời kết thúc các hoạt động chúc thọ ở vườn Viên Minh, Hoàng đế Càn Long ngồi lễ kiệu về hoàng cung. Lễ kiệu là một loại kiệu cao đúng quy cách dành cho Hoàng đế ngồi, rất đẹp, thể hiện đầy đủ sự tôn nghiên chí cao của Hoàng đế. Lễ kiệu hình dáng giống kiệu thông thường, bên trong có ngai vua, mười sáu người khiêng kiệu. Mái kiệu hai tầng, phía trên tám góc, phía dưới bốn góc, mỗi góc đính một con rồng vàng, chóp kiệu là quả cầu bằng vàng, mái kiệu được viền chung quanh bằng dải lụa màu vàng nhạt thêu rồng vàng, màn che kiệu làm bằng lụa vân màu vàng nhạt, hai bên kiệu có cửa sổ che bằng vải thưa.

Dọc hai bên con đường lớn dài mấy mươi dặm từ vườn Viên Minh đến Tây Hoa Môn, Hoàng Cung đều có trang Trí. Đền đài lầu các đều được trang hoàng, vừa mô phỏng theo thắng cảnh Giang Nam, vừa kiến trúc theo kiểu phương Tây. Dưới nước có thuyền rồng, trên núi có bảo tháp. Nhà tranh có hàng rào bao bọc, cầu nhỏ bắt qua dòng suối; hệt như cảnh thôn dã; lầu gác cao vút, hành lang trùng điệp như cảnh thần tiên. Khắp nơi đều dựng sân khấu, tiếng đàn hát cuốn hút người nghe phải dừng bước. Đối diện với Tây Trực Môn có một sân khấu ba tầng, diễn vở tuồng “Khắp nơi chúc mừng”, trong Nguyệt Thành dựng rạp Vạn Thọ Kinh, chứa khoảng 3.000 lạt ma tụng kinh. Quán xá chen chúc trong nội thị Tây Trực Môn đều được sửa sang trang hoàng như mới. Cứ cách mấy mười bộ dựng lên một sân khấu, các đoàn tuồng kịch khắp mọi nơi đều tập trung về kinh sư, nhảy múa hát ca, liên tục không lúc nào ngớt, khúc nhạc này nối tiếp khúc nhạc kia, vở tuồng chúc thọ này tiếp nối vở tuồng chúc thọ khác. Lúc diễn vở “Tiên nữ tung hoa”, lúc diễn vở “Bàn đào chúc thọ”, hàng trăm vở tuồng được trình diễn; đâu đâu cũng vang lên tiếng nhạc du dương trầm bổng như cảnh thần tiên. Có chỗ đẹp như dòng sông bồng bềnh những chiếc thuyền rồng màu sắc sặc sỡ trên thuyền là những nàng tiên đang đứng bên cạnh những lan can thuyền bằng ngọc. Có cả dinh bách thọ kiểu cổ, có cả những tòa nhà kiểu phương Tây. Những ngọn giả sơn màu sắc như thật. Những vòi nước phun lên, những giọt nước rơi xuống tạo thành một lớp sương mù mờ ảo. Trước lầu Tây Tứ Bài, sừng sững hai ngọn la phù nhân tạo, bên dưới là cả trăm cụ già đầu tóc bạc phơ. Phía đông có chữ “bách thọ” trên tường lại có hình chiếc xe ngọc, với đội nghi trượng. Hai bên phía trong Tây An Môn có đình sáu cạnh và đình khổng tước. Từ Tam Tọa Môn đến Kim Ngao Ngọc Đông Triều là hồ Thái Dịch sóng nước mênh mông, chiếc thuyền rồng của vua bềnh bồng giữa hồ. Dọc bức tường thành bao bọc có các dãy phố phường. Phía nam, bên ngoài miếu Hoa Thần là đài Bách Hoa, có lan can chạm trổ. Phía nam bên trong Tam Tọa Môn dựng lên một sân khấu, đang diễn vở tuồng “Nam cực trình tường”. Phía trước là một sân khấu hình quả bồ đào, rồi lại một ngôi đình tiếp theo, cạnh đó là một ngôi nhà năm gian, tạo nên cảnh quan ngụ ý gặp nhiều điều tất lành. Bên ngoài Tây Trực Môn không những có một tòa nhà Tây đối diện mà còn có cả hòn núi đất nhân tạo, hình bầu dục, xung quanh có tường bao. Hai bên sườn núi có đường đi hình chữ chi, người, kiệu có thể theo đó leo tận đỉnh núi, sườn núi trồng đầy tùng bách được cắt tỉa cẩn thận, nhà cửa ẩn hiện trong rừng cây. Trước núi có cổng đề “Lưu Vân Phường”, hai bên phải và trái có hai ngọn núi nhỏ, dưới chân núi là nhà nghỉ đón tiếp quan viên từ xa đến kinh sư chúc thọ.

Hoàng đế Càn Long ngồi kiệu, đi trước dẫn đường là đội kỵ binh, tiếp sau là đội nghi trượng màu sắc rực rỡ dưới ánh nắng. Dọc đường đội nhạc hoàng gia chia nhau tấu nhạc, được phổ theo những lời thơ do Càn Long sáng tác gần 300 khúc nhạc “Vạn Thọ Cù Ca”. Hoàng đế Càn Long ngồi kiệu từ từ quay về, trong tiếng nhạc tấu lúc hùng tráng, lúc mượt mà mềm dịu. Các hoàng tử, hoàng tôn, thân vương, văn võ đại thần, vua Mông Cổ, bối lặc, bối tử, vương công tộc Hồi, quốc vương An Nam, sứ thần các nước Triều Tiên, Miến Điện, Nam Chưởng, thổ ty Kim Xuyên, Cam Túc, thủ lĩnh Đài Loan đều quý xuống hai bên lề đường, đón tiếp thánh giá, chúc Càn Long vạn thọ vô cương.

Hoàng đế Càn Long về cung nghỉ một lát, rồi đến điện Đại Cao Huyền ở phía tây bên ngoài Thần Vũ Môn làm lễ. Sau khi làm lễ tại điện Đại Cao Huyền lại đến điện Thọ Hoàng tại Cảnh Sơn tế lễ liệt tổ liệt tông. Đồng thời cử các quan đến tế Trời- Đất tại Thái Miếu, Đài Xã Tắc, điện Phụng Tiên. Sau khi tế lễ ở điện Thọ Hoàng, Càn Long về cung Trùng Hoa. Cung Trùng Hoa ở trong Trùng Hoa Môn, phía trước có điện Sùng Kính, trong điện có treo bức hoành phi “Lạc Thiện Đường”, phía sau điện là cung Trùng Hoa, nơi tổ chức lễ thành hôn của Càn Long lúc ông mới 17 tuổi. Hoàng đế Càn Long thường tổ chức tiệc trà tại đây cùng với đại thần và các hàn lâm trong triều, dùng ba loại quả cây và hoa tươi như tùng thực, mai hoa, phật thủ ngâm với nước tuyết đã đun sôi để nguội, gọi là trà Tam Thanh, để đãi các đại thần. Vua tôi cùng vui, ngâm thơ hội họa trong lúc uống trà. Lúc cao hứng thường thưởng cho các đại thần một vài món quà như nghiên mực, khánh ngọc, trúc như ý v.v…

Hôm đó, Càn Long ăn cơm tại cung Trùng Hoa, và nghỉ đêm tại đấy, để ngày hôm sau làm lễ chúc thọ 80 tuổi.

Ngày 13 tháng 8, là đúng ngày chúc thọ. Hôm đó tại điện Thái Hòa, Càn Long tiếp các quan và sứ thần các nước. Quan loan nghi úy phụ trách xa giá nghi trượng đã bố trí sẵn sàng xa giá và đội nghi trượng trước cung Thái Hòa. Đội ngựa nghi lễ sắp hàng hai bên dọc đường. Đội nhạc cụ chuông vàng và khánh ngọc đứng đúng vị trí qui định. Giờ Tỵ (9 - 11 giờ trưa), các quan văn võ trong bộ lễ phục hoa y tập trung bên ngoài điện Thái Hòa, yên lặng chờ Hoàng đế Càn Long lên điện. Lễ phục hoa y còn được gọi là mảng y, theo chế độ nhà Thanh, trước ba ngày và sau bốn ngày lễ chúc thọ Hoàng đế, các quan viên phải mặc lễ phục hoa y thêu rồng gọi là “hoa y kỳ”, để dự lễ và tăng thêm phần vui cho ngày lễ. Chính giữa sân Viện võ bị dựng lên một lều vải màu vàng, trong phủ nội vụ đặt chiếc hương án trên để bình và cốc rượu, trần nhà căng vải xanh, phía dưới là nơi bày tiệc. Chính giữa điện Thái Hòa, phía trước ngai vua là một chiếc bàn lớn hình rồng vàng, ngự yến được đặt trên đấy. Phía dưới ngai vua là tiệc dành cho vương công đại thần trong và ngoài nước. Hai bên tả hữu phía sau ngai vua là chỗ của đại thần tùy tùng, phía trước ngai vua là chỗ của các đại thần khác, tả hữu là chỗ của thị vệ đội đuôi báo, quan truyền lệnh, quan trình sớ. Dưới mái tây hiên bên ngoài điện Thái Hòa, trên mảnh sân bằng phẳng hai phía đông tây của chiếc lều vải màu vàng là hai chiếc lều màu xanh phía dưới là chỗ của các quan nhất nhị phẩm, các quan bộ viện, các quan Bát Kỳ, các sứ thần của nước ngoài ngồi theo cấp bậc. Lúc này trước điện Thái Hòa long lanh màu sắc, Bá quan đã tề tựu, nhưng yên lặng như tờ.

Đúng giờ Ngọ (11- 13 giờ), Hoàng đế Càn Long mình khoác áo long bào, đầu đội mũ nạm ngọc, tiền hô hậu ủng, bước vào điện Thái Hòa. Ngoài cửa Ngọ Môn, tiếng chuông trống vang lên, trong điện Thái Hòa tấu lên khúc nhạc “Chương Càn Bình”, cho đến khi Càn Long ngồi xuống mới chấm dứt. Quan loan nghi vệ cất giọng oang oang, lúc này phía dưới bệ vua vang lên ba tiếng đanh gọn, phá tan không khí yên tĩnh, tạo ra cảm giác uy nghiêm. Tiếp theo, quan minh tán tuyên bố, các quan trong ngoài theo chức vụ cao thấp, sắp hàng đợi chúc thọ Hoàng đế. Nhạc lại tấu lên khúc “Khánh Bình”, quan Hồng lô tự hướng dẫn thân vương, Bá quan và các sứ thần An Nam, Triều Tiên, Nam Chưởng, v.v... sắp theo thứ bậc cao thấp, dưới sự điều khiển của quan minh tán làm lễ quỳ ba lượt khấu chín lần, chúc thọ Càn Long, lễ xong ai về chỗ nấy, nhạc ngừng tấu. Các đại học sĩ Mãn - Hán, từ hai bên điện Thái Hòa bước vào giữa điện làm lễ một quỳ một khấu chúc thọ Càn Long, lễ xong ai về chỗ nấy, nhạc lại nổi lên, tấu khúc “Hải Ninh Thăng bình nhật”. Đại thần ngự thiện dâng trà cho Càn Long, Càn Long uống trà, các quan làm lễ một quỳ một khấu.

Càn Long thưởng trà cho các vương công đại thần, bá quan văn võ. Tiếp theo, quan chưởng nghi của Phủ Nội vụ bê cốc rượu đến ngoài Tả Môn, rót rượu vào cốc, chuyển cho vị đại thần, nâng cốc rượu đến trước ngai vua, quỳ xuống dâng rượu lên Hoàng đế, làm lễ một khấu các quan tiếp nhau làm lễ. Lúc dâng rượu lên hoàng đế, nhạc lại nổi lên, tấu khúc “Ngọc Điện Vân Thông”. Quan ngự thiện thừa thánh chỉ, ban tặng hoa quả, rượu thịt lúc này nhạc chuyển sang tấu khúc “Vạn Tượng Thanh Ninh”. Giữa buổi tiệc có múa hát. Và sau đó là các nghệ nhân Triều Tiên, người Hồi, Kim Xuyên biểu diễn ca múa xiếc của địa phương họ để giúp vui. Tiệc đến đấy kết thúc, bá quan văn võ tạ ân, làm lễ một quỳ ba khấu, nhạc lại nổi lên. Càn Long khởi giá về cung. Lễ chúc thọ Càn Long 80 tuổi hoàn thành.

Ngày 14, Hoàng đế Càn Long trai giới.

Ngày 15, xem chúc bản. Hôm đó Hoàng đế mặc lễ phục đến điện Thái Hòa đứng giữa điện, mặt hướng về phía tây. Quan tư chúc đặt sẵn chúc bản trên chiếc bàn màu vàng tại miếu Thái Thường. Sau khi xem xong chúc bản, Hoàng đế làm lễ một khấu ba bái, lễ xong trở về cung. Đến giờ Dậu (17- 19 giờ) tế Tịch nguyệt đàn.

Ngày 16, chấm dứt hoạt động chúc thọ trong cung, Càn Long từ Đại nội đến vườn Viên Minh, ngắn cảnh lễ chúc thọ hai bên dọc đường. Đặc biệt khen ngợi hành động thực tế nhiệt tình chúc thọ của các nhà buôn từ các nơi đến. Cả gốc lẫn lãi các khoản nợ do các nhà buôn cho quốc gia vay lẽ ra phải được hoàn trả trong vòng một năm, nhưng vì sử dụng cho lễ chúc thọ, nên có thể kéo dài trong ba năm, thăng chức cho 25 nhà buôn ở vùng Lưỡng Hoài, ban thưởng cho nhà buôn các nơi khác đã có đóng góp trong lễ chúc thọ.

Hai ngày 17 và 18, Càn Long đến Tế Văn Ương, tiếp kiến vương công đại thần và sứ thần các nước. Càn Long hết sức vui mừng được vua An Nam Nguyễn Quang Trung đích thân đến chúc thọ, cho rằng Nguyễn Quang Trung “thành tâm” đó là kết quả của “sự nhìn xa thấy rộng, lòng thành cảm hoá” của mình. Nhờ vậy mà vua của một nước như Nguyễn Quang Trung đã “đích thân đến kinh dự lễ chúc thọ”, “thực là việc tất đẹp xưa nay chưa từng có”, nên ban tặng nhiều lễ vật đặc biệt quý hiếm. Càn Long cũng ban thưởng cho các đoàn sứ thần các nước.

Ngày 19, xem tuồng ở vườn Đồng Lạc.

Ngày 20 Hoàng đế Càn Long đến điện Chính Đại Quang Minh, thiết tiệc chiêu đãi quần thần, lãnh tụ các bộ tộc thiểu số, sứ thần các nước, thổ ty Kim Xuyên, lãnh chúa Đài Loan, và chiêu đãi các nhà buôn Lưỡng Hoài, Triết Giang, Trường Lô.

Ngày 21, là ngày cuối cùng của hoạt động chúc thọ tại vườn Đồng Lạc kết thúc một tháng rưỡi lễ chúc thọ trong tiếng ca nhạc của buổi diễn tuồng.

Tổ chức lễ mừng thọ to lớn như vậy, trong lịch sử, trước nay chưa hề có. Lễ thọ long trọng hào hoa, với Chính phủ nhà Thanh mà nói, cũng phải chi phí khá lớn, cho nên lễ chúc thọ Hoàng đế hàng năm ở quy mô nhỏ, mười năm mới tổ chức một lần quy mô lớn. Lễ mừng thọ Hoàng đế Càn Long 80 tuổi, cho tại buổi lễ chính, dự định chi là 1.718.000 lạng. bạc sau giảm xuống còn 1.144.297 lạng 5 tiền. Là một Hoàng đế nổi tiếng, dù có tiêu pha sức người sức của như vậy cũng chẳng có gì là lạ Thế nhưng Càn Long cho rằng lãng phí, “lòng Trẫm vô cùng áy náy” lễ thọ tưng bừng náo nhiệt, nhưng “việc đã qua không nói nữa”.

Trong lúc Càn Long khen ngợi Hòa Thân và quần thần, biểu dương các nhà buôn, ca ngợi thiên hạ thái bình thịnh trị thì có một người dâng bản tấu, ngay khi lễ thừng thọ vừa kết thúc, tâu rằng đầy đường vang tiếng oán thán của dân chúng. Đó là Doãn Tráng Đồ.

Doãn Tráng Đồ tự là Sở Trân. Người ở Côn Minh, Vân Nam, đậu tiến sĩ năm Càn Long thứ 31 làm Thứ Cát Sĩ, sau giữ chức Chủ sự bộ Lễ, rồi thăng lên Lang Trung năm Càn Long thứ 39, được tuyển chọn làm ngự sử giám sát đảo Giang Nam rồi chuyển về kinh kỳ, thăng lên Nội Các Học sĩ, kiêm Thị lang bộ Lễ.

Doãn Tráng Đồ tâu rằng: “Các quan tuần phủ tổng đốc phạm tội, ơn vua to lớn, không cách chức trừng phạt, mà chỉ phạt họ bằng mấy vạn lạng bạc. Lại có những đốc phủ tự xin nộp bạc phạt, nhận tội với mấy vạn lạng bạc trắng, bọn gian tặc đã dựa vào điều đó để thỏa mãn lòng tham của họ, nhanh chóng làm giàu cho riêng họ. Dẫu là những người thanh liêm chăng nữa, e rằng có lúc không thể tránh khỏi nhờ cậy tiền của cấp dưới, sau này nếu xảy ra việc kho bạc thiếu hụt hoặc có những vụ án quan trọng liên quan đến lợi ích cá nhân, đã tiêu tiền của cấp dưới, không thể không bao che. Như vậy, phạt bạc tuy nghiêm, nhưng không thể ngăn ngừa được lòng dạ của những quan chức phạm tội mà còn nuôi dưỡng thói hư tật xấu của họ, xin Hoàng thượng bãi bỏ lệ này. Nếu là quan lại tầm thường thì nên cách chức không dùng, nếu dùng thì để lại ở kinh mà không nên để họ đi xa muốn làm gì thì làm”.

Nhận được bản tấu, Càn Long không vui, cũng không giận, bèn nói: “Doãn Tráng Đồ đề nghị đình chỉ chế độ nộp bạc chuộc tội không phải là không có lý! Các đốc phủ Trẫm bổ nhiệm nhất thời không thể chọn được người đức - tài đầy đủ, họ (đốc phủ) không thể không có khuyết điểm, bỏ qua những khuyết điểm đó mà dùng họ, đồng thời nhắc nhở họ cảnh giác với những khuyết điểm đó, ngăn trước ngừa sau, tự mình hoàn thiện, vì vậy mà áp dụng chế độ nộp bạc chuộc tội. Thế nhưng trong các đốc phủ và quan chức có kẻ thiếu lương tâm đã phụ lòng tốt của Trẫm đối với họ, dựa vào địa vị mưu lợi ích riêng, sách nhiễu kẻ dưới, vơ vét tiền của, Trẫm không thể bảo đảm hoàn toàn không có việc đó. Doãn Tráng Đồ tâu báo việc đó, chắc chắn là tự mình đã nhìn thấy hoặc nghe thấy. Bây giờ cho phép Doãn Tráng Đồ tấu báo rõ sự thật”.

Nếu là người tinh tường, chỉ nghe qua chỉ dụ đó của Càn Long thì đã nhanh chóng tìm cách lờ đi, thế là xong chuyện. Thế nhưng, Doãn Tráng Đồ quá ư chân thật, là con người thà chết vì lẽ phải dù thấy Càn Long không muốn chấm dứt chế độ nộp bạc chuộc tội, và cũng không muốn thừa nhận trong lúc thiên hạ thái bình, quốc thái dân an, lại có những kẻ hại nước hại dân mưu lợi cho riêng mình. Doãn Tráng Đồ lại đệ trình một bản tấu: “Đốc phủ các tỉnh, tên tuổi nhơ nhuốc, cai trị lỏng lẻo, một số nơi thần đi qua, nhìn thấy các quan lại ở đấy không có hiền đức, các nhà buôn và dân chúng ở đấy đều ca thán. Tình hình ở các tỉnh đều như vậy. Thần xin Thánh thượng cử Đại thần người Mãn cùng thần đi xuống các nơi bí mật điều tra”.

Càn Long cả giận: “Doãn Tráng Đồ cả gan thách đố Trẫm, cho rằng khắp nơi thiên hạ oán hờn, phải chăng là sổ toẹt thành tích công lao của Trẫm trong 55 năm qua, phải chăng là ám chỉ lễ mừng thọ rầm rộ của Trẫm vừa qua là phung phí tiền của, như vậy là coi thường Trẫm, quá ư ngạo mạn phải cho hắn biết tay mới được”.

Hòa Thân cũng rất căm Doãn Tráng Đồ: “Chế độ nộp bạc chuộc tội là do ta đề nghị với Hoàng thượng và được Hoàng thượng phê chuẩn cho thực hiện, nay lại do ta phụ trách. Như vậy chẳng phải là thông qua chế độ nộp bạc chuộc tội để nói xấu ta ư? Ta đã vì ngày mừng thọ 80 tuổi của Hoàng thượng mà lao tâm khổ tứ suốt ngày đêm, xây dựng bao nhiêu công trình, hắn chẳng nhìn thấy công lao của ta, mà còn ám chỉ ta bòn rút bỏ túi quá nhiều. Con người này quả thật đáng ghét, phải đạp đổ hắn, dẫm chân lên người hắn”.

Càn Long và Hòa Thân đều cùng một ý nghĩ. Hai người nhìn nhau, cả hai đều tức giận. Nhưng Doãn Tráng Đồ là Nội các học sĩ, Thị lang bộ Lễ, nếu không tìm ra một cớ hợp lý để trừng trị thì không được, hơn nữa ý kiến của ông ta có tính chất tiêu biểu, cần phải dẹp bỏ.

- Hoàng thượng, Doãn Tráng Đồ tâu nên tiến hành “điều tra bí mật”. Như vậy chẳng ra thể thống gì nữa, Đại Thanh rõ ràng minh bạch, lẽ nào lại cố ý che dấu điều gì không được! Vả lại đây không phải là một vụ việc quá khó. Hơn nữa, đại thần của Triều đình cũng không thể đi khắp nơi cả nước để điều tra xem xét, lãng phí tiền của công sức, khiến lòng người lo lắng ảnh hưởng đến an minh, nên chỉ định địa điểm để ông ta đi điều tra thì hay hơn. Hòa Thân tâu.

- Khanh nói phải đấy, mỗi khi đến nơi nào phải cho người cấp báo nơi đó, tránh kéo dài thời gian. Càn Long nói.

- Trong số đại thần người Mãn nên chọn ai? Hòa thân hỏi.

- Có thể cử Khánh Thành. Càn Long nói.

Nghe vậy, Hòa Thân rất mừng.

- Trước tiên Trẫm chỉ dụ cho Doãn Tráng Đồ, nói rõ đốc phủ nào hạch sách kẻ dưới, các nhà buôn và dân chúng tỉnh nào oán thán không sống nổi. Ông ta nghe thấy ở nơi nào? nhất định phải nói ra.

- Thần nói có phần không thỏa đáng, xin Hoàng thượng trị tội. Doãn Tráng Đồ tâu.

- Trẫm vì đất nước, phải thanh minh công chính, nay lệnh cho Doãn Tráng Đồ cùng với Thị lang bộ Hộ, Khánh Thành đi kiểm tra các kho phủ; tấu báo thực tế.

- Thần cho rằng nên tiến hành điều tra bí mật. Doãn Tráng Đồ tâu.

- Điều tra bí mật, thăm dò tin tức, chỉ đối với những vụ việc bí ẩn chưa rõ ràng. Doãn Tráng Đồ tố cáo kho phủ các tỉnh trống rỗng, kho phủ sờ sờ ra đấy, chẳng lẽ không điều tra được ư? Lẽ nào trong kho phủ có ma quỷ bày trò biến hoá tiền bạc? Doãn Tráng Đồ tâu các đốc phủ hạch sách vơ vét tiền của của kẻ dưới, nếu khâm sai ăn bận thường phục đi điều tra vậy có thể bảo đảm ông ta vô tư không, không nhận hối lộ không? Việc này không thể điều tra bí mật mà phải công khai, mỗi khi đến nơi nào đều phải lệnh cho người cấp tốc báo cho nơi đó không được gây hoang mang, không được gây rối loạn trật tự. Trẫm lệnh cho hai khanh, Khánh Thành và Doãn Tráng Đồ, phải tôn trọng địa phương, không được cậy thế khâm sai để bắt ép người khác, Doãn Tráng Đồ phải nghe lời khuyên của Khánh Thành, hai người phải đồng tâm hiệp lực, không được ai muốn làm gì thì làm.

Thế là Khánh Thành và Doãn Tráng Đồ lãnh thánh chỉ, chuẩn bị lên đường.

Hoà Thân gặp Khánh Thành. Khánh Thành nói:

- Thưa, thầy có điều gì căn dặn?

- Anh là môn sinh tốt của ta, tin rằng chuyến đi lần này anh làm được việc, khiến Hoàng thượng hài lòng.

- Học trò này đội ơn lớn của thầy, nay lại mang thêm ơn nữa, đâu dám không hết lòng hết sức vì Hoàng thượng. Học trò này xin thỉnh cầu ý kiến của thầy.

- Ta đã cho người cấp báo với các tỉnh Sơn Tây, Trực Lệ, Sơn Đông, biết chuẩn bị sẵn sàng, và cũng đã cử người giám sát nơi ở của Doãn Tráng Đồ, không cho ông ta tiếp xúc với người khác. Ta cũng đã cử thị vệ đến các nơi, bí mật khống chế các quan lại và dân chúng các nơi. Ngoài ra cấp cho anh mấy tên thị vệ giỏi, để khống chế hành động của Doãn Tráng Đồ. Đương nhiên lấy mềm là chính, lúc cần thiết, anh là cấp trên của hắn, ra lệnh cho hắn. Tuy vậy, anh cũng không được sơ suất xem thường. Lần trước ta cùng với Tiên Phong và Lưu Dung đi kiểm tra Sơn Đông, đã bị hai người ấy đánh lừa, anh lấy đó làm bài học. Lần kiểm tra này, Hoàng thượng quyết định kiểm tra Sơn Tây trước, lúc quay về mới kiểm tra Trực Lệ. Tri phủ Đại Đồng ở Sơn Tây là Minh Bảo, là ông cậu của ta, vừa mới đến nhận chức, kho phủ ở đó khá đầy đủ, ở Đại Đồng có nhiều hầm mỏ, dân buôn bán giàu có, lại có kho của bộ Hộ ở đấy, lúc cần thiết có thể sử dụng số bạc trong kho bộ Hộ. Cứ thế mà làm.

Khánh Thành nhận lệnh của Hoà Thân, lòng càng vững vàng. Bá quan văn võ trong triều đều rõ tâm tư của Hoàng thượng trong chỉ dụ của Hoàng thượng, ngay cả Doãn Tráng Đồ, cũng thấy rõ, nhưng vì đã ngồi trên lưng hổ đâu dễ nhảy xuống. Khánh Thành nghĩ rằng: Ta lẽ nào làm sai ý của Hoàng thượng, làm trái lệnh của Hòa tướng quốc? Chi cho bằng, nhân việc này, tỏ rõ bản lĩnh trước Hoàng thượng, tỏ rõ lòng trung với Hoà tướng quốc để Hoàng thượng và Hoà tướng quốc biết được tài năng và lòng trung thành của Khánh Thành này.

Khánh Thành cùng Doãn Tráng Đồ lên đường. Nơi dừng chân đầu tiên là Đại Đồng, Sơn Tây.

Minh Bảo đã dùng cái sỉ nhục và ruộng đất của mình để đổi lấy chức tri phủ Đại Đồng. Lương tâm, nhân cách của ông ta đã vứt cả vào hố xí. Thế nhưng, con người đó, con người mặt dạn mày dày đó, con người chẳng còn nhân cách đó lại giàu sang, sống đàng hoàng trên đời này. Hắn chỉ biết Hoà Thân tham tiền, vậy hắn còn tiếc rẻ cái gì? “Muốn được con cá chép, phải mất con tôm tép”. Mấy mươi năm con đường quan lại đã mách bảo hắn rằng, quà biếu của bạn cho người ta càng gây ấn tượng sâu sắc, càng dễ động lòng, thì người ta càng vì bạn, tìm cách báo đáp bạn. Hơn nữa, Minh Bảo hiểu được tình cảm sâu đậm của Hoà Thân đối với mẹ hắn; hắn càng vui mừng khôn xiết, hắn và mẹ của Hoà Thân là cùng một mẹ sinh ra. Do đó từ lần đầu sau khi bước đến cửa phủ Hoà Thân, hắn liên tiếp đến nhà Hoà Thân; bất chấp có được hoan nghênh hay không. Trừ Hoà Thân và Lưu Toàn ra, người ở phủ Hoà Thân không ai dám coi thường hắn. Hắn là cậu ruột của Hoà Thân, huống hồ ông cậu này đến phủ Hoà Thân không phải với đôi tay không mà rất hào phóng, dáng vẻ khiêm nhường.

Minh Bảo được đền đáp, Đại Đồng là nơi tốt đào ra tiền của, chỉ trong vòng hai ba năm đã thu đủ số tiền chi ra trước đó, và chắc chắn còn dư ra khá nhiều. Hắn từng làm tri phủ bị mất chức, nên có kinh nghiệm, lại có học vấn, không như những tên quan không học vấn thiếu kinh nghiệm. Hắn có thủ đoạn của hắn.

Minh Bảo nhận được tin cấp báo của Hoà Thân, bắt đầu ra tay. Hắn đến nhận chức chưa bao lâu, kho phủ Đại Đồng thiếu hụt không nhiều. Đoàn của Doãn Tráng Đồ còn trên đường đi, nên hắn có đủ thời gian chuẩn bị. Hắn không mượn của các nhà buôn, mà mượn bạc trắng ở xưởng đồng, xưởng thiếc của bộ Hộ về bù vào chỗ thiếu hụt trong kho phủ. Bạc trong kho xưởng đồng và xưởng thiếc được phong bao kỹ giống như bạc của các quan lại bộ Hộ đang dùng, còn bên trong phong bao đó là thứ gì, ai mà biết được, nhìn bên ngoài như khối bạc trắng. Bạc trong kho bộ Hộ cũng chất đống chỉnh tề, Minh Bảo kiểm tra từng phong bao một, không để lộ một kẽ hở nào.

Doãn Tráng Đồ cùng với Khánh Thành đến phủ Đại Đồng. Toàn thành vẫn làm việc như bình thường, nhà máy hầm mỏ cũng vậy.

Minh Bảo hết sức nhiệt tình với Doãn Tráng Đồ, chăm lo cực kỳ chu đáo việc ăn ở đi lại. Nhưng ăn thì không xa xỉ một li một tí, bàn ăn toàn là những thứ rau rẻ tiền. Minh Bảo nói:

- Đạo làm quan, quí ở cần kiệm, cần thì công việc thông suốt, dân chúng yên vui, kiệm thì thành chánh liêm minh. Hai đại nhân đến đây, hạ quan không dám coi thường, tấm lòng nhiệt tình bày tỏ trong bữa cơm đạm bạc, xin hai vị thấy rõ cho.

- Tôi đã đến nhiều châu huyện, quan lại ở đấy vây quanh chen chúc, khi ăn cơm quan lớn quan nhỏ thậm chí cả thân thuộc gia quyến đều đến hầu cơm, thức ăn toàn là sơn hào hải vị, quá ư lãng phí. Hôm nay nhìn thấy phong cách của quan tri phủ, quả đúng là đức của người quân tử. Doãn Tráng Đồ khâm phục nói Minh Bảo.

- Đa tạ lời khen của đại nhân. Đại nhân đến đây kiểm tra kho bạc, đi đường vất vả, đón tiếp không được chu đáo kính mong lượng thứ. Thiết nghĩ, nếu tôi và các sĩ đại phu ai nấy đều tiết kiệm, không ăn uống xa xỉ, thì dân chúng trong thiên hạ ắt giàu có.

Ngày hôm sau, Minh Bảo đưa hai vị đại thần khâm sai đi kiểm tra kho phủ và nói:

- Hạ quan cho rằng, hai đại nhân nên kiểm tra sớm để Hoàng thượng khỏi nóng ruột và có thể nhanh chóng gặp gỡ dân chúng. Bản phủ đề nghị với hai đại nhân như vậy, bất chấp nỗi mệt nhọc của hai đại nhân, thật kể hơi quá đáng mất cả tình người.

- Làm quan cần phải như vậy, vì vua mà lo lắng, vì dân mà suy nghĩ, chúng ta đi kiểm tra ngay hôm nay. Doãn Tráng Đồ nói.

- Thế thì càng tốt. Khánh Thành nói.

Đoàn người kéo đến kho phủ, kiểm tra tỉ mỉ. Minh Bảo tự tay bóc vỏ bọc khối bạc trắng, từ ngoài đến trong, bạc trắng một màu trắng lóng lánh, niêm phong vẫn nguyên vẹn. Doãn Tráng Đồ nói:

- Kho phủ đầy đủ theo đúng quy định. Doãn Tráng Đồ nói xong bước đi.

- Xin hai đại nhân tự tay cân lại. Minh Bảo nói.

- Không cần. Doãn Tráng Đồ trả lời.

- Xin cẩn thận càng tốt. Minh Bảo đề nghị.

Doãn Tráng Đồ đành tự tay cân lại. Minh Bảo càng cẩn thận, đề nghị cân từ ngoài vào trong một lượt, khiến Doãn Tráng Đồ mệt nhoài toát cả mồ hôi, kiệt sức. Kiểm tra xong, đang định quay về nhà nghỉ. Minh Bảo lại đề nghị:

- Xin hai vị thượng quan kiểm tra kho phủ bộ Hộ, đề tránh chuyện nghi ngờ hạ quan lạm dụng.

- Chiều sẽ kiểm tra không muộn. Doãn Tráng Đồ nói.

- Nếu để đến chiều, e có người vu cho hạ quan mang bạc của kho phủ mượn ở đấy chở về, như vậy thì ăn nói thế nào.

Thế là Khánh Thành và Doãn Tráng Đồ cùng Minh Bảo và các quan bộ Hộ đến kho phủ bộ Hộ, mở cửa kho lướt nhìn qua, thấy bạc đều được đánh dấu niêm phong cẩn thận. Minh Bảo nói:

- Xin mở ra cân lại một lượt.

Quan phụ trách đồng - thiếc bộ Hộ nói:

- Ngài thật quá đáng. Đã quá trưa rồi, hai vị đại nhân lại chưa dùng cơm, lẽ nào lại quên ăn quên ngủ.

- Doãn đại nhân nghĩ thế nào? Khánh Thành hỏi.

- Bạc trong kho phủ này tiêu chí rõ ràng, sắp xếp ngay ngắn, đã kiểm tra xong, có thể về nhà nghỉ. Doãn Tráng Đồ nói.

- Về nhà nghỉ. Khánh Thành nói.

- Khánh đại nhân là thị lang bộ Hộ, hôm nay đến xưởng đồng, xưởng thiếc, sao không đến thị sát luôn thể, hạ quan nhân tiện báo cáo với đại nhân tình hình của xưởng, xin mời đại nhân đến bản phủ, đại nhân thấy thế nào? Quan phụ trách đồng - thiếc đề nghị.

- Thế cũng được, là thị lang bộ Hộ, đến đây dĩ nhiên phải thị sát xưởng, mỏ của bộ Hộ, Doãn đại nhân có thể tự mình quay về nhà nghỉ, khởi thảo bản tấu, chờ thị sát xong, tâu lên Hoàng thượng. Khánh Thành nói.

- Nên như vậy. Doãn Tráng Đồ đáp.

Thế là mọi người giải tán.

Trong phủ của quan phụ trách đồng, tiệc rượu náo nhiệt, gái đẹp bên cạnh, phục vụ chu đáo. Minh Bảo cười to nói:

- Doãn Tráng Đồ húp xong bát canh đậu đã ngủ say rồi!

Mọi người đều cười, cười đến nỗi các cô gái ngồi bên cạnh phát ngấy. Tuần phủ, Bố chánh sứ cùng với Khánh Thành luân phiên chạm cốc. Tuần phủ nói:

- Tôi có đưa đến một phường tuồng, mọi người thưởng thức một tí.

Khánh Thành thị sát năm ngày. Doãn Tráng Đồ ăn năm ngày đậu phụ.

Khánh Thành xem qua một lượt bản tấu do Doãn Tráng Đồ khởi thảo, rồi nói:

- Chẳng có gì phải sửa chữa, hãy tâu lên Hoàng thượng.

Bản tấu được chuyển về Bắc Kinh.

Đến Đại Đồng, đáng lẽ ra, các quan chức cao cấp trong tỉnh phải đón tiếp, nhưng suốt mấy ngày kiểm tra, chẳng thấy mặt mũi quan nào. Doãn Tráng Đồ cũng chẳng lấy gì làm lạ vì nghĩ.rằng Hoàng thượng đã lệnh rõ, kiểm tra kho phủ Đại Đồng. Trong thời gian kiểm tra, chính sự không thể lơ là, các quan trong tỉnh không thể vứt bỏ công việc để đi đón tiếp. Lý tình là ở đấy.

Mấy ngày kéo dài đó chính là để cho người ta chuẩn bị chu đáo số bạc trong kho phủ của Bố chánh sứ. Khánh Thành nói:

- Chúng ta nên đi kiểm tra kho phủ Bố chánh sứ.

Hai vị khâm sai lên đường đến Thái Nguyên.

Lúc này các quan Tuần phủ, Bố chánh sứ,v.v... trong tỉnh đều ra đón tiếp, nồng nhiệt nói cười với Khánh Thành, coi như không có Doãn Tráng Đồ. Doãn Tráng Đồ đứng sau mọi người, lòng dạ buồn phiền. Cơm trưa, mọi người bước vào chỗ ngồi, Tuần phủ, Bố chánh kẻ kéo người đẩy Khánh Thành ngồi lên trên, đợi đến khi Khánh Thành ngồi xuống, mọi người mới ngồi, riêng Doãn Tráng Đồ còn đứng nhìn chiếc bàn không có ghế ngồi, bỗng từ chiếc bàn bên cạnh một viên quan đứng dậy nói:

- Sao Doãn đại nhân chưa ngồi.

- Thế thì ngồi lên bàn vậy. Viên tuần phủ nói. Mồm nói vậy, lòng thì nghĩ rằng: tên lắm mồm đó, lúc về sẽ biết tay.

Hôm sau, kiểm tra kho phủ Bố chánh sứ. Bố chánh sứ mời Doãn Tráng Đồ cân, rất cẩn thận, mỗi bao mỗi đỉnh bạc không thiếu một phân.

Kiểm tra xong, Doãn Tráng Đồ mệt toát mồ hôi, nhìn thấy viên tuần phủ bưng đến một cốc trà, vừa đi vừa cười:

- Đại nhân vất vả.

Doãn Tráng Đồ vừa cười vừa đưa tay ra đón cốc nước, nào ngờ viên tuần phủ bước qua mặt, đưa cốc trà cho Khánh Thành. Khánh Thành cũng không khách khí, uống ực ực, trông thật thoải mái.

- Doãn đại nhân, kết quả thế nào? Khánh Thành hỏi.

- Kho phủ đầy đủ, không thiếu một lạng, một phân. Doãn Tráng Đồ đáp.

-Về. Khánh Thành nói.

Không ngờ viên Bố chánh sứ đến trước Khánh Thành nói:

- Đại nhân vất vả thế này, sao không đi ăn cơm? Hạ quan đã chuẩn bị xong rượu thịt, xin mời đại nhân đến tệ phủ một chuyến.

- Đâu dám từ chối, chỉ e có người cho rằng tôi nhận hối lộ làm sao chịu nổi.

- Đại nhân đã kiểm tra xong, đã có kết luận, hạ quan mới mời về phủ, hơn nữa đại nhân và hạ quan cùng lứa tuổi nếu không đến tệ phủ, thì không hợp tình hợp lý.

- Vậy xin đến thăm quý phủ.

- Thật là vinh dự. Xin mời Tuần phủ đại nhân cùng đi.

- Thật là phiền phức. Viên Tuần phủ chẳng thèm nhìn Doãn Tráng Đồ, vái Khánh Thành hai vái, nói: - Xin mời.

Mấy người bước đi. Doãn Tráng Đồ bị làm nhục như vậy nhưng không tỏ thái độ gì, chỉ nói với Khánh Thành.

- Đại nhân Thị lang đi đi, bản quan về nhà nghỉ.

- Hay cùng đi một thể? Khánh Thành nói.

- Người không được khỏe, đi không tiện.

- Cũng được, đại nhân về khởi thảo bản tấu. Tôi có thể về muộn, đại nhân chớ nên đi đâu, để lúc tôi về khỏi phải đi tìm, nhỡ cả việc tâu lên Hoàng thượng.

- Làm sao nhỡ được. Doãn Tráng Đồ nói xong, đi về.

Tại phủ Bố chánh sứ, Khánh Thành ăn uống no say. Viên Bố chánh sứ này nắm cả tiền bạc của một tỉnh, rất có thực lực, Tuần phủ, Tổng đốc tuy là quan cấp trên của hắn, cũng không dám xem thường hắn, mà còn bị lôi kéo theo hắn, nịnh bợ hắn. Trong phủ trang hoàng lộng lẫy, cuộc sống giàu sang, vườn nhà có ao có núi.

Tối đến, viên Bố chánh sứ đưa đến gái đẹp để vui cùng với Khánh Thành suốt đêm, thế là mấy ngày liền Khánh Thành không ra khỏi cổng phủ.

Doãn Tráng Đồ về nhà nghỉ, chẳng có ai chuẩn bị cơm nước cho mình, các người tùy tùng đều kêu khổ. Doãn Tráng Đồ đành móc hầu bao. Mình chịu khổ còn được sao để tùy tùng liên lụy. Những người tùy tùng cũng biết nỗi uẩn khúc của Doãn đại nhân, khuyên ông trở về kinh: “kiểm tra cái gì, mọi việc đều được chuẩn bị kỹ rồi”.

Ngay đến tùy tùng cũng thấy rõ được các thủ đoạn đó huống hồ là Doãn Tráng Đồ. Ông ngước mặt nhìn trời than thở, lòng đầy tức giận, nhưng đành chịu chẳng có cách nào khác. Lúc này nghĩ đến việc viết bản tấu, thật là ấu trĩ nực cười. Ông viết bản tấu: “Kiểm tra kho phủ đều đầy đủ thần đã nói sai, nói mò, xin cho thần về nhận tội”. Viết xong bản kiểm tra kho phủ, chờ Khánh Thành, nhưng liền mấy ngày chẳng thấy Khánh Thành đâu cả.

Hôm đó, vừa định ra phố dạo chơi, bỗng một thị vệ đến báo: “Doãn đại nhân ra ngoài nếu Khánh đại nhân đến, sẽ nhỡ việc lớn, đại nhân nên ở nhà đợi có lẽ Khánh đại nhân cũng sắp đến”. Doãn Tráng Đồ bực tức thầm nghĩ: Ta đang bị giam lỏng. Nhưng không tiện tỏ thái độ đành trở về nhà nghỉ.

Bỗng ngoài cổng có tiếng kêu la cãi cọ, Doãn Tráng Đồ bước ra xem, nhìn thấy tên thị vệ và một người nữa đang cãi nhau, người kia là một võ quan, vừa thấy Doãn Tráng Đồ đến liền bước tới, chắp tay cúi đầu nói:

- Hạ quan là người của A tướng quân. A tướng quân tuần tiễu trên sông đến đây, cử mạc tướng đến mời đại nhân.

- Đi nhanh! Doãn Tráng Đồ mừng rỡ, nói.

- Chúng ta phụng mạng bảo vệ Doãn đại nhân, nếu có gì sơ xuất chúng ta biết ăn nói thế nào. Doãn đại nhân không thể đi được. Mấy tên thị vệ lên tiếng.

- Quân đâu, chặn chúng lại. Viên võ quan ra lệnh, bỏ mặc bọn thị vệ, đưa Doãn Tráng Đồ đi.

Bởi vì A Quế đã mời, mấy tên thị vệ không dám ngăn cản, đành để họ đi, và vội vàng đến phủ Bố chánh sứ báo tin.

Lúc này trời đông giá rét, tuyết trắng rơi khắp bầu trời. A Quế nhận lệnh Càn Long đi thị sát sông Hoàng Hà. Mùa đông sông Hoàng Hà đóng băng, xuân đến, băng tan từ phía thượng du, nước đọng lại không chảy được dễ gây ra nạn lũ lụt, do đó mùa đông phải đi khảo sát mực nước và độ dày mỏng của băng, lúc cần thiết sẽ đưa quân lính đến đập vụn băng ra.

A Quế xuất thân là một võ quan, không ưa thích các quan lại một số địa phương nên cắm doanh trại ngay tại bờ sông, nghe Doãn Tráng Đồ đến, vội ra ngoài cổng lều trại đón. Hai người đứng đó, bốn mắt nhìn nhau, hồi lâu không nói.

Bên trong lều trại ấm áp A Quế và Doãn Tráng Đồ cùng nhau uống rượu, lòng hai người vô cùng cảm khái:

- Mùa đông Hoàng Hà đóng băng, không có sức người nào có thể thay đổi, trời là vậy đó. A Quế nói.

- Nếu Hoàng Hà đóng băng, sao không nhân lúc băng mỏng đập vụn băng ra, nó gây hoạ lớn, có thể dìm ngập mọi thứ, Doãn Tráng Đồ nói.

- Trời khiến Hoàng Hà đóng băng, ai có thể ngăn cản được. Sau khi ngài về kinh, tôi sẽ tâu với Hoàng thượng, về chuyện ngài, ngài hãy chờ đợi, chờ đợi. Chỉ cần đợi đến xuân sang trời ấm, băng tan, nước sông Hoàng Hà lại chảy.

Doãn Tráng Đồ ở lại qua đêm trong doanh trại A Quế. Hôm sau, hai người đứng trên bờ sông Hoàng Hà, nhìn con sông dài ngàn dặm đóng băng, im lìm lặng lẽ, chẳng khác một con rồng to tướng từng vùng vẫy uy phong đang bị đông cứng nơi này.

Doãn Tráng Đồ lên ngựa về Thái Nguyên.

Doãn Tráng Đồ nói:

- Ở đây chúng ta đã kiểm tra xong, kho phủ đầy đủ, chúng ta về kinh thôi.

- Lúc ra đi Hoàng thượng có lệnh, chờ dụ lệnh của Hoàng thượng mới được hành động, giờ đây bản tấu mới vừa gửi đi sao có thể tự mình hành động. Khánh Thành nói.

Thế là hai người vẫn ở lại Sơn Tây.

Trong lúc hai người tiến hành kiểm tra ở Sơn Tây, thì Trực Lệ, Sơn Đông đã nghe tin nên kịp thời chuẩn bị đối phó. Các nhà buôn và dân chúng ở hai nơi này đã được răn đe trước. Tri châu Trực Lệ là Lưu Bảo Kỷ chạy xuống từng thôn xóm, triệu tập dân chúng và các nhà buôn lại, bắt giam mấy người có vẻ thiếu chân thật, chặt đầu họ bêu lên tường thành hoặc trên cán cờ cao. Do vậy các nhà giàu có đều tự nguyện cho quan phủ mượn bạc, nhà nước cần bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu.

Tại thành Thái Nguyên của Sơn Tây, hai vị khâm sai nhận được chỉ dụ của Càn Long, lệnh cho Khánh Thành cùng với Doãn Tráng Đồ đến Trực Lệ kiểm tra, sau Trực Lệ là Sơn Đông và Giang Nam. Lúc này Doãn Tráng Đồ mới thật sự hiểu được thế nào là đã leo lên lưng hổ thì khó xuống.

Kiểm tra kho bố chánh sứ Trực Lệ. Bạc trong mấy kho huyện phủ đều không thiếu hụt. Khánh Thành nói:

- Kiểm tra kho phủ, lượng bạc đều đủ, chúng ta không phải kiểm tra thêm. Doãn đại nhân nói, dân buôn “ta thán”, vậy chúng ta xuống dân kiểm tra xem thử nào.

Hai người xuống các phố, kiểm tra từng hộ, ai nấy đều nói:

- Hoàng thượng anh minh, thiên hạ thái bình, cuộc sống của chúng tôi đều no đủ, cầu chúc Hoàng thượng vạn tuế vạn tuế, vạn vạn tuế.

- Như vậy, té ra lời tâu của Doãn đại nhân là do tưởng tượng, chẳng trách Hoàng thượng không hài lòng, đại nhân sao nói đen thành trắng, nói đỏ thành đen. Khánh Thành trách móc.

Doãn Tráng Đồ chẳng còn cách nào nói nữa.

Đúng lúc đó, thánh chỉ đến, Càn Long chỉ dụ: “Lệnh cho Doãn Tráng Đồ tâu báo việc dân buôn ta thán như thế nào”. Doãn Tráng Đồ quỳ lạy tiếp thánh chỉ, rồi vội vàng viết bản tấu tâu: “Ngày nào cũng chỉ thấy dân buôn vui vẻ làm ăn, chẳng có ai ta thán”. Mấy hôm sau, Hoàng thượng lại chỉ dụ; bảo Khánh Thành lệnh cho Tráng Đồ trả lời, phải chỉ ra cho được vài ba người, quyết không được ăn nói vu vơ, quyết không được đùn đẩy lẩn tránh. Doãn Tráng Đồ đành chịu, chỉ còn cách cầu xin Hoàng thượng trị tội.

Hoàng thượng lại lệnh cho Khánh Thành đến Sơn Đông, Giang Nam kiểm tra. Lúc này Doãn Tráng Đồ chẳng còn chút hào hứng nào nữa, nghe theo Khánh Thành đi kiểm tra. Có lúc cáo bệnh.

Đến Sơn Đông, kiểm tra huyện Bổ Sơn trước. Khánh Thành trước tiên đến ngay nhà Hàn Đại Phát tắm nước suối nóng liền mấy ngày, được Tiêu Ân, vợ bé của Hàn Đại Phát chăm sóc chu đáo. Tiêu Ân được Hàn Đại Phát huấn luyện, không giống như trước đây, toàn thân như “mùa xuân mơn mởn khiêu gợi khó kiềm lòng”, như “cành hồng hạnh nhô qua bức tường”, thủ pháp của Tiêu Ân lại già dặn: chặt, đấm, bóp, xoa, xát, điểm, véo, mần, miết,... sướng tận đỉnh đầu. Khánh Thành trước nay chưa hề có được giây phút thế này, bàn chân thon nhỏ cọ xát dẫm đạp, chà miết, khiến tâm hồn mê mẩn. Khánh Thành khoái chí, lắc đầu cười thầm: “Trong thiên hạ còn có kẻ ngu đần như lão Doãn Tráng Đồ... giờ đây lão ta có nói ngon nói ngọt, Hoàng thượng cũng chẳng nghe”.

Doãn Tráng Đồ bị dầy vò, đến đâu cũng chẳng có quan chức nào để ý, chẳng quan chức nào xem ông ra gì. Bỗng có ánh mắt của ai đó bắt gặp ánh mắt của ông, vô tình nhìn nhau thế là người đó vội chuyển ánh mắt sang chỗ khác. Ông ra phố, dân chúng nhìn ông như một kẻ điên khùng, thấy ông là bỏ chạy. Doãn Tráng Đồ chìm sâu vào cảnh cô độc cực độ, tâm hồn ông càng bị chấn động mạnh khi dân chúng cho ông là tên điên khùng.

Khánh Thành xem Doãn Tráng Đồ như con chó bị đánh gẫy xương sống, nên không giám sát chặt nữa. Hôm đó, Doãn Tráng Đồ ra phố thành huyện Bổ Sơn, ngồi trong một quán rượu, vừa uống được hai cốc, nghe mấy người ngồi ở chiếc bàn cách tường đang bàn tán:

- Tôi chẳng hiểu thế nào cả, Doãn Tráng Đồ là một vị quan lớn như vậy, lẽ ra phải hiểu sự việc, cớ sao lại chống lại Hoàng thượng?

- Này nhé, Hoàng thượng 80 tuổi, lễ thọ tổ chức... sao không thể long trọng được?

- Có người nói ông ta rất ngang bướng, chui vào sừng trâu.

- Dù nói thẳng ra hoặc ám chỉ, cũng không nên nói Hoàng thượng sai... Có thể ông ta điên rồi...

Doãn Tráng Đồ hoàn toàn sụp đổ, để mặc cho Khánh Thành làm gì thì làm.

Khánh Thành kiểm tra Sơn Đông rồi đến Tô Châu, Giang Nam. Đến Tô Châu, Khánh Thành đi chơi ngắm cảnh một vòng khắp nơi như Hổ Khâu, Sư Tử Lâm, Linh Nham Tự, Đặng Úy Sơn, Hương Tuyết Hải, Chi Hình Sơn, Hoa Sơn, Hàn Sơn, Thiên Bình Sơn, Khung Long Sơn, Thạch Hồ, v.v... Lúc ấy đã là mùa xuân năm Càn Long thứ 56, Tô Châu khoe hết vẻ đẹp của nó, đón chào quan khâm sai phương bắc.

Tô Châu lúc ấy đã có hơn 50 vạn người, các nhà buôn ở các tỉnh trong cả nước và nước ngoài đều tập trung về đấy. Mọi thứ quý hiếm đều có cả, Khánh Thành cùng với các nhà buôn quấn quýt suốt ngày.

Một hôm, Thạch Viễn Mai đến bái kiến Khánh Thành, Khánh Thành vội ra đón tiếp. Ai mà chẳng biết danh tiếng của Thạch Viễn Mai. Thạch Viễn Mai chưa nói gì đã đưa cho Khánh Thành hai hạt ngọc trai to tướng. Khánh Thành nói:

- Nghe nói Hòa tướng quốc thích ăn ngọc trai, hai hạt ngọc trai này to thật, xin để dành cho tướng quốc.

- Tôi đã biếu tướng quốc đầy đủ rồi, đại nhân cầm lấy, đại nhân là người của tướng quốc mà, đại nhân và tôi đều là người trong nhà cả mà, đâu phải người ngoài, không nên khách sáo. Xin đại nhân nhận hai hạt ngọc trai này.

- Đâu dám chê lòng tốt của ông anh.

- Tôi muốn mua bán một ít tơ lụa, có mấy nhà buôn nước ngoài, có cả châu báu quý hiếm, đồng hồ tinh xảo và súng lục. Tôi muốn mua những thứ ấy, nhưng tiền bạc phần lớn đã dùng mua ngọc trai, do đó hiện giờ thiếu tiền, muốn vay của bộ Hộ một ít, không biết được không?

- Tiền bạc của nhà nước rất căng, các nhà buôn vay mượn rất nhiều nhưng thu hồi chưa đủ. Song với ngài, Bộ Hộ có thể xuất ra một ít, cũng không cần xin ý kiến trước Hòa đại nhân.

- Tôi không để đại nhân chịu thiệt, về lợi tức, xin đại nhân chiếu cố.

- Việc đó sẽ bàn, chỉ cần phải hoàn trả đúng thời hạn.

- Tôi đâu dám sai lời, xin đại nhân an tâm.

Tối đó, Thạch Viễn Mai mời Khánh Thành đến Mai Hoa Lâu ở Hổ Khâu. Thưở ấy các nhà chứa ở Bắc Kinh, Dương Châu, Giang Ninh (Nam Kinh), Hàng Châu, Tô Châu, Quảng Châu, Ninh Ba thuộc loại nổi tiếng trong toàn quốc, nhưng nổi tiếng nhất là phố Bát Đại ở Bắc Kinh, Châu Giang Hoa Phảng ở Quảng Châu, Hổ Khâ