Chương 23 PHÙNG THỊ ỐM CHẾT-AI BIẾT PHÚC HỌA
Hòa Thân tổ chức lễ tang vợ cực kỳ to lớn...
- Lăng Hòa Thân chẳng kém lăng Hoàng đế...
Hòa Thân biết rõ đạo lý, vàng có giá, thuốc vô giá.
Phùng Thị, từ khi đứa con nhỏ chết yểu, thường ốm đau. Năm Gia Khánh thứ 3, bệnh ngày càng nặng, Hòa Thân mời đủ danh y trong nước về chữa trị, nhưng chẳng ăn nhằm gì. Hòa Thân vô cùng buồn rầu, thề rằng, ai chữa được bệnh cho phu nhân ông sẽ hiến toàn bộ tài sản. Hòa Thân biết rõ, trên đời này có rất nhiều thứ không thể dùng tiền bạc mua được; Hòa Thân biết rõ, ngoài quyền lực ra, có thứ còn quý hơn là tiền bạc, đó là sức khỏe, đó là sự chân tình.
Chớp mắt, mùa thu đã đến. Ngày 7 tháng 7, ngày gặp nhau của Ngưu Lang - Chức Nữ. Trước đây, nhà Hòa Thân không coi trọng ngày lễ này, năm nay ông lệnh cho người nhà tổ chức trân trọng. Dựng rạp trước sân phủ, treo đèn kết hoa, trên hương án đặt bài vị “Khiên ngưu hà cỗ thiên quý tinh quân” và “Thiên tôn chức nữ phúc đức tinh quân”. Tối đến, trăng vừa nhô lên, trên hương án được bày đầy hoa quả, thức ăn ngon. Hòa Thân dìu phu nhân đến trước hương án quỳ lạy cầu khấn. Nhẽ ra, người cầu khấn tinh quân phải là đàn bà. Nhưng Hòa Thân phá lệ, và nội dung cần khấn cũng khác với mọi người. Hòa Thân không cầu khấn tinh quân ban cho phú quý, Phùng Thị không cầu khấn Chức Nữ ban cho bàn tay khéo léo. Họ cầu khấn tinh quân trên trời ban cho họ sức khỏe. Hòa Thân lẩm nhẩm khấn cầu thần linh phù hộ hai vợ chồng sống lâu trăm tuổi, đầu bạc răng long.
Ngưu Lang chất phác, Chức Nữ thuần khiết là hai vị thần linh không thích hối lộ, nên chẳng động lòng với những lời cầu khấn của Hòa Thân.
Phùng Thị vẫn cứ ho mãi, thỉnh thoảng ho ra máu. Hòa Thân dự cảm sự việc không lành, càng hy vọng vào sự phù hộ của thần linh.
Tết Trung nguyên (rằm tháng 7) đến, đây là tết của ma quỷ, Hòa Thân càng không dám lơ là, đến các chùa, miếu, nơi nào có thờ thần linh cầu khấn; trong nhà tổ chức cúng lễ linh đình, nào là 3 lợn 3 dê 3 thạch gạo, nào là hương đèn rượu,v.v... cúng bái quỷ thần.
Hòa Thân cùng với người nhà, thái giám cúng bái siêu độ quỷ thần. Họ ra sông, đốt hóa thuyền mã chở đầy hình nộm vua quỷ, quan quỷ, lính quỷ, sai dịch quỷ. Trên bờ sông, mấy trăm lính tay cầm lá sen, bên trong thắp nến ánh lên màu sáng xanh lung linh, chập chờn dọc hai bờ sông, và hàng trăm cây đèn hoa sen bằng kính. Tất cả đều thả xuống sông, ánh sáng xanh chập chờn trên mặt nước. Hòa Thân ngồi thuyền ra giữa sông tụng kinh cầu đảo. Trong nhà Hòa Thân cũng thắp mấy ngàn ngọn đèn to nhỏ bằng kính màu xanh, ánh sáng nhấp nháy, tựa hồ như thần linh, ma quỷ lởn vởn trong ánh sáng màu xanh mờ ảo ấy, trông đúng như một động quỷ. Hòa Thân mời đạo sĩ, hòa thượng đến tụng kinh, niệm chú, ma quỷ sẽ không dám đến quấy phá nhà Hòa Thân. Hòa Thân rất cung kính họ.
Thế nhưng cho dù Hòa Thân cúng lễ quỷ thần như thế nào chăng nữa, quỷ thần đâu có đoái hoài đến Hòa Thân, thậm chí nhận quà xong còn “chống gậy tre đến”, nhất là loại quỷ này, đã không chịu đi mà còn bám chặt Phùng Thị, muốn cướp tính mạng Phùng Thị.
Đến tháng 8, Phùng Thị chỉ còn da bọc xương. Hòa Thân và Đậu Khấu không rời Phùng Thị một bước. Phong Thân Ân Đức và Công chúa hàng ngày đều đến viếng thăm.
Hòa Thân khấn thần, nếu qua được Tết Trung thu, bệnh phu nhân có thể chữa khỏi, vì tết Trung thu khí âm rất thịnh. Trung thu là ngày tết của thần Trăng, thần Trăng nhất định phù hộ phu nhân, nhất là một người phụ nữ hiền thục như Phùng Thị.
Quả nhiên, đến tết Trung thu, Phùng Thị nói cười vui vẻ, tinh thần khí lực tốt hơn nhiều, sắc mặt hồng hào. Hòa Thân vô cùng sung sướng, không vào triều, ở nhà cùng phu nhân hưởng cái tết đoàn tụ với mọi người trong gia đình.
Hòa Thân đến trước Công chúa quỳ bái làm lễ, chúc công chúa sống lâu vui vẻ. Trước khi công chúa thứ mười về làm dâu nhà Hòa Thân, cha mẹ chồng gặp công chúa phải làm lễ quỳ lạy. Sau khi về nhà chồng, Càn Long thấy lễ này là thể hiện đạo vua tôi nhưng không hợp với đạo luân thường nên ra lệnh bãi bỏ. Từ đó cha mẹ chồng công chúa không phải làm lễ quỳ lạy nữa, đến thời Đạo Quang, lễ đó được cấm hẳn. Hôm ấy Hòa Thân làm lễ quỳ lạy công chúa vì ngày rằm tháng 8 là ngày tết thần Trăng, thần Trăng thuộc âm, nên quỳ lạy công chúa; đồng thời Hòa Thân có ý nghĩ, muốn dựa vào khí vượng của hoàng gia để quét sạch ma bệnh trong người Phùng Thị.
Tối đến, trong vườn hoa của Hòa Thân, một tấm hình phong được dựng lên, hai bên cạnh bình phong có đặt hoa mào gà, ngó sen tươi và cành đậu tương; phía trước bình phong đặt chiếc bàn bát tiên, trên bàn có chiếc bánh trung thu đặc biệt to, xung quanh có hoa quả và kẹo bánh. Đây là do công chúa thiết kế trình bày. Lúc này công chúa dìu mẹ chồng đến bên bàn, và phân phát túi tiền “thỏ ngọc cành quế” cho mọi người. Công chúa và mẹ chồng Phùng Thị dẫn mọi người cúng bái thần Trăng, sau đó công chúa cắt chiếc bánh trung thu ra nhiều phần nhỏ phân phát cho mọi người, ăn chiếc bánh trung thu đoàn viên. Lúc này, Phùng Thị vừa cười, vừa vẫy tay gọi Hòa Thân; Hòa Thân bước đến bên vợ. Phùng Thị cầm mẩu bánh đưa vào mồm Hòa Thân. Hòa Thân cũng đưa mẩu bánh đang cầm trong tay bỏ vào mồm Phùng Thị. Lúc này, trăng sáng tròn vành vạnh như chiếc mâm tròn, lơ lửng trên bầu trời xanh thẳm, chiếu sáng xuống vườn hoa. Hòa Thân và Phùng Thị ăn mẩu bánh của nhau, cảm thấy cuộc sống tươi đẹp biết bao, dịu dàng biết bao, viên mãn biết bao. Bánh đã ăn xong, Phùng Thị nói với Hòa Thân: “Phu quân đỡ tôi, tôi hơi mệt”. Hòa Thân đỡ phu nhân ngồi xuống, Phùng Thị gục vào người Hòa Thân, Hòa Thân ôm eo lưng vợ, bỗng cảm thấy cánh tay bị đè nặng, cúi đầu nhìn Phùng Thị, phu nhân đã nhắm mắt ngậm cười - yên giấc mãi mãi. Hòa Thân không hốt hoảng, không rơi lệ, nhưng lòng đau xót vô cùng. Ông ngẩng đầu nhìn trăng sáng trên trời, vẫn tròn, vẫn sáng, vẫn thuần khiết, vẫn tỏa ánh sáng lạnh lẽo.
Hòa Thân đứng dậy hồi lâu, rất lâu để ngắm nhìn trăng sáng. Mọi người đều thấy lạ, Đậu Khấu đã ý thức được điều gì, vội ôm Phùng Thị, Hòa Thân nói: “Phu nhân lên trời rồi, đã cùng thần Trăng lên trời rồi”.
Phu nhân là một áng mây - mây ráng, không có mặt trời, và biến thành quầng trăng sáng.
Hòa Thân lại rơi vào cảnh đau thương khó tả. Có Phùng Thị, Hòa Thân mới có sự nghiệp như ngày nay, tựa hồ Phùng Thị đã mang vận may đến cho ông. Hàng ngày, Phùng Thị chăm lo cho ông từng li từng tí, trong những ngày bệnh nặng vẫn không quên hỏi thăm bệnh nhức lưng đau chân của ông, luôn cầu khấn cho ông, hy vọng bệnh ông sẽ khỏi. Hòa Thân yêu phu nhân tính tình hiền thục, tuy xuất thân con nhà tể tướng nhưng sống hiền hòa, luôn đối xử lễ nghĩa với người dưới, bình dị gần gũi mọi người. Hòa Thân càng cảm kích phu nhân đã sinh cho mình cậu con trai Phong Thân Ân Đức, lấy được con gái cưng của Càn Long.
Hòa Thân tổ chức lễ tang Phùng Thị rất trọng thể.
Mọi việc lễ tang đều do Phong Thân Nghi Miên lo liệu có Lưu Toàn, Hô Thập Đồ, Khanh Lân trợ giúp. Tiếp đón bạn bè nữ thì do công chúa, Đậu Khấu và phu nhân Phong Thân Nghi Miên phụ trách.
Hôm sau, giấy tin buồn được gửi đến bạn bè thân hữu khắp nơi. Ngay hôm đó đã có mấy mươi vị thân hữu đến chia buồn. Sau đó Khâm Thiên giám định ngày, giữ linh cữu 49 ngày. Nhà tang tại Gia Khánh Đường. Mời 108 vị tăng đến đọc kinh siêu độ vong hồn trong 49 ngày, và mời 97 vị đạo sĩ đến niệm chú làm phép giải oan xua đuổi tà ma trong 49 ngày.
Ngày đưa tang, sau khi 60 thanh y thỉnh linh hồn xong, Phong Thân Ân Đức lấy chổi mới quét qua quan tài và bỏ một đồng tiền vào góc quan tài. “Nhập quan” xong, Phong Thân Ân Đức cầm phướn đi trước, bạn bè thân hữu theo sau ra đến đầu đường trước cổng chính. Lúc này tiếng khóc vang lên, rung động cả thành Bắc Kinh. Đoàn người đưa tang ùn ùn nối đuôi nhau đi về phía tây.
Phía trước là những cây phướn dẫn đường, phía sau là chiêng đồng vang lên. Đội nhạc tấu bài nhạc ai điếu. Tiếp theo là bài vị người quá cố, kiệu đưa linh hồn, xe tang, rồi xe quạt, kiệu, lọng, ngựa, tùng sư, tùng hạc, tùng lộc, tùng đình núi vàng núi bạc bằng giấy, đồng nam đồng nữ, chậu hoa, v.v.. sắp hàng nối tiếp nhau mà đi, kéo dài hai dặm đường, theo sát sau là đoàn tăng đạo lạt ma tay cầm pháp khí, miệng tụng kinh. Tiễn đưa người quá cố, hàng trăm người gồm vương công quý tộc, đại thần triều đình, quan chức địa phương, ngồi trên hàng trăm kiệu lớn kiệu nhỏ, nối tiếp nhau kéo dài 6-7 dặm.
Hai bên đường đám tang đi qua, các lều tế cúng dọc đường được dựng lên, bên trong trải chiếu, tấu nhạc tang. Cứ như thế dọc đường mười mấy dặm, tiếng nhạc nối tiếp nhau vang lên, tiền âm phủ tung bay khắp nơi, che kín một vùng trời.
Mộ phần của Phùng Thị tại Kê Châu. Hòa Lâm đã được chôn ở đấy, lăng mộ hùng vĩ. Phần mộ của Phùng Thị được chuẩn bị như một cung điện ngầm dưới đất, trong mộ có đền đài, bia đá, người đá, thú đá,v.v... Phần mộ Hòa Thân cũng đã xây sẵn, cao to hùng vĩ, người ta nói “lăng Hòa Thân” đã vượt quá quy định, quy mô chẳng kém lăng hoàng đế.
An táng xong, mọi người quay về phủ Hòa Thân. Lễ “điểm chỉ” được tiến hành rất long trọng. Trước bài vị của Phùng Thị, đặt một hương án, các tăng đạo sắp hàng hai bên, nhạc tang tấu lên, âm vang cả bầu trời. Chữ “Vương” trên bài vị của Phùng Thị điểm thêm chữ “Chủ”, bài vị đưa vào từ đường.
Lầu Thọ Xuân, nơi ở của Phùng Thị, mọi vật đều để nguyên như cũ, không ai được vào đấy ở. Hòa Thân, Phong Thân Ân Đức thường đến đấy thắp hương cúng viếng hoài niệm người quá cố.