Chương 22 YẾN TIỆC TRONG CUNG ĐÌNH-QUÂN ĐỘI THỐI NÁT
Hầu hết tướng soái trong quân đội đều là phe cánh của Hòa Thân. Chỉ biết vơ vét bóc lột dân chúng, tham ô chặn quân lương.
- Càn Long yến tiệc lu bù trong những ngày cuối cuộc đời
Chớp mắt đã đến tháng chạp, cuộc đấu tranh của Bạch Liên giáo vẫn như lửa cháy dầu sôi. Bất kể tín đồ có tội hay vô tội đều bị giết, xác phơi đầy đồng, xương chất thành núi. Ai tụm năm tụm ba lang thang đầu đường xó chợ, bất kể lương giáo, hễ gặp quân quan là bị chém đầu; nếu không gặp quan quân; Có người đi đứt hơi, có người ngồi xuống chẳng đứng lên được nữa. Những ai không dám ra ngoài thì lo sợ tín đồ hoặc quan quân đến cướp giật. Không cách nào trốn thoát được, chỉ còn lại mấy túp nhà rách trống không. Họ không có cơm ăn, đành phải nuốt cỏ dại, không có cỏ dại họ gặm vỏ cây, không có vỏ cây, đành ngồi chờ chết.
Thế nhưng kinh thành Bắc Kinh vẫn tràn ngập không khí đón mừng năm mới. Tháng chạp, đường phố Bắc Kinh ngổn ngang xác chết, nhưng chợ búa vẫn đầy ắp hàng hoá, đào, táo, hồng, lê, gà rừng, cá Quan Đông, thỏ rừng, vịt nước, lạp xường... các loại thực phẩm, các loại hoa quả, đồ cúng tế chuẩn bị ngày tết không thiếu thứ gì, bày la liệt trên đường phố.
Nhà Hòa Thân, chuẩn bị bữa cháo lạp bát hơn hẳn năm ngoái. Hòa Thân cũng giống Càn Long, tuổi càng cao mê tín càng nặng, sùng kính quỷ thần, cháo lạp bát năm nay, ngoài các thứ phải có như ngọc trai, hồng sâm Trường Bạch, tổ yến, súp gà rừng, còn có hơn 30 loại hoa quả khác.
Trưa mùng 8 tháng chạp (lạp bát), sau khi Hòa Thân và Phong Thân Ân Đức cúng tổ bằng cháo lạp bát, Hô Thập Đồ và Khanh Lân bảo người nhà múc cháo vào liễn đem biếu bạn bè thân thuộc. Họ cũng đãi cháo cho các chú chó và các cô mèo, sau đó rưới cháo lên tường, lên các ngọn giả sơn, lên cây, lên đường đi,... cho đó là mọi vật bình đẳng, có phúc cùng hưởng.
Trong cung Ung Hòa, cháo lạp bát năm nay nấu nhiều hơn năm ngoái. Nghi thức nấu cháo rất long trọng. Phúc Trường An làm đại thần giám sát nấu cháo, có hai đại thần khác giúp việc. Nghi thức kết thúc, Phúc Trường An tháo bỏ tấm lụa đỏ phủ trên năm chiếc nồi lớn. Mỗi chiếc nồi, đường kính một trượng hai thước, cao hai trượng. Người ta đổ vào mỗi nồi 12 thạch gạo, 100 cân đậu xanh và các loại ngũ cốc khác, 100 cân quả cây khô như long nhãn, lăng đào, đổ đầy nước, nhóm lửa đun. Mỗi năm đun hết một vạn cân củi khô, năm nay hết một vạn hai ngàn cân. Cháo chín, phân phát cho các vương công quý tộc, bá quan văn võ, số còn lại đổ vào hũ niêm phong cẩn thận gửi cho đốc phủ các tỉnh sử dụng. Sau đó vét cháo đáy nồi phân phát cho dân trong thành. Thế là thần dân thiên hạ đều nhận được sự quan tâm của Thái Thượng hoàng và Hoàng thượng, của triều đình và của Hòa Thân.
Sau ngày 8 tháng chạp, xe to xe nhỏ từ các nơi ùn ùn nối đuôi nhau mang lễ vật về kinh để cảm ơn sự quan tâm của triều đình. Người nhận được nhiều lễ vật nhất đương nhiên là Hòa Thân.
Năm nay, những người mang lễ vật về kinh khác với mọi năm. Trước toàn là đốc phủ, tri huyện, tri châu, nay là người trong quân đội, phần lớn là tướng soái. Các quan ở kinh thành được nhìn thấy các quan khắp nơi, được xem cuộc “duyệt binh” của một đội quân “đánh đâu thắng đó”.
Tri phủ Hàng Châu là Xích Hách Phong quyết tâm muốn giành được ghế tuần phủ hoặc bố chánh sứ tỉnh. Ông đã một lần, nhân dịp đầu năm, không quản đường sá xa xôi, về kinh tìm hiểu đường đi nước bước.
Xích Hách Phong nhìn rõ sự thật, ngày nay muốn làm bất cứ việc gì đều phải có hai thứ: “tiền” và “người”. Ông ngẫm nghĩ: ta không có “người” trong triều, thì ta lấy tiền lót đường, nhất định sẽ được việc. Ông góp nhặt toàn bộ tài sản, vay thêm của các nhà buôn năm vạn lạng bạc, rồi lên kinh. Chủ nợ chẳng ai nghĩ rằng ông không hoàn trả nổi, hoặc quỵt nợ, vì ông ta đi “mua” quan mà, chỉ cần không tiếc tiền, không ngại đầu tư, năm nay ông ta làm quan sẽ thu nhiều lợi. Hơn nữa, dù Xích Hách Phong không làm tuần phủ hay bố chánh sứ thì hiện nay ông vẫn là tri phủ tại Hàng Châu, kiếm tiền cực dễ. Xích Hách Phong cũng không sợ số tiền bỏ ra sẽ không thu về được; cũng chẳng sợ năm nay bỏ tiền ra không làm được quan. Chỉ cần làm được quan, ngửa tay ra là thu lại số tiền đã bỏ ra, mà lại con “sinh con đẻ cháu” nhiều hơn nữa.
Xích Hách Phong đến kinh, tiêu tiền như nước, tên tuổi lan truyền, được nhiều người kính trọng, cuối cùng được Phúc Trường An và Hòa Thân tiếp kiến. Để gắn bó tình cảm, Xích Hách Phong nài mời Phúc Trường An và Hòa Thân đến khách sạn ăn cơm, rốt cục Hòa Thân cho rằng ông ta thuộc loại “xoàng” nên từ chối. Xích Hách Phong chỉ mời được Phúc Trường An, cảm thấy rất sung sướng, cảm thấy vô cùng vinh dự.
Phúc Trường An nghĩ rằng, hắn đã mời thì cứ để hắn móc túi hắn, nhân tiện nhìn thấy bộ mặt cuộc đời, xem hắn ăn nói thế nào. Phúc Trường An đồng ý đến tiệm ăn nổi tiếng Đồng Phong Đường. Vào phòng, hai người vừa ngồi xuống, mấy kỹ nữ do Hách Phong chuẩn bị sẵn đã bước tới. Phúc Trường An nghĩ bụng: Ngươi biết ở kinh thành mời khách phải có kỹ nữ bên cạnh, vậy để xem ngươi biết được bao nhiêu món ăn trên bàn tiệc, nên nói: “Ngài từ phương nam đến kinh thành, ngài phải là khách nhưng hôm nay ngài mời khách, ta vốn không muốn đi. Bây giờ đã đến đây, món ăn do ngài gọi”. Hai người từ chối nhau một hồi, người hầu bàn đưa thực đơn cho Xích Hách Phong. Phúc Trường An nghĩ thầm: “Thử doạ anh chàng nhà quê này”, liếc mắt nhìn Hách Phong, thấy ông ta dán mắt vào thực đơn, mặt dài ra. Thực đơn gồm có:
Lợn sữa quay, gà quay, vịt quay, gan xào, thịt hầm, du hương nhục, mộc tê nhục, vịt bát bảo, gà rừng quay, cá rán vàng, xúp vi cá, hải sâm xào, chân vịt hầm, tôm hấp, canh nấm v.v... và v.v...
Điểm tâm có: cơm bát bảo, cơm rang, bánh mì, bánh bao, bánh kẹp, bánh rán, bánh lá sen...
Phúc Trường An nhìn mặt Xích Hách Phong cứ kéo dài ra, cười thầm: “Hòa thượng ở chùa còn chưa nhìn thấy kinh phật bao giờ. Hôm nay phải lột tất áo quần của nhà ngươi để lại đây”. Nào ngờ Xích Hách Phong vung mạnh tờ thực đơn, gọi to:
- Mang loại thượng hạng đến, xem ta không có tiền ư? Sao lại đem của tầm thường này cho ta?
Phúc Trường An lúc đầu cứ tưởng Xích Hách Phong giả vờ, nhưng bỗng thấy Hách Phong rút ra từ trong túi áo ba nén vàng, bảo:
- Mang thực đơn loại thượng hạng đến!
Hầu bàn vội vàng, chạy đến nói:
- Quả thực đây là thực đơn loại thượng hạng của tiệm chúng tôi. Nghe giọng nói của quan khách, biết là từ Hàng Châu đến, thực đơn này đúng là học của Hàng Châu, tiệm chúng tôi không thể bằng được ở Hàng Châu, và ở kinh thành này may ra chỉ có một vài tiệm mà thôi.
Hách Phong nghe chủ tiệm nói vậy, chẳng trách mắng nữa, và bảo:
- Hãy chọn món gì ngon nhất.
Phúc Trường An cả kinh, nhìn Hách Phong với con mắt khác, bỗng Hách Phong lại thét:
- Sao lại mang loại rượu này đến đùa ta ư? Hãy lấy loại rượu ngon đến đây.
Chủ tiệm bước ra nhìn thấy Phúc Trường An vội khấu đầu chào:
- Nô tài không biết đại nhân đến, nô tài đáng chết. Đại nhân sao không bảo nô tài một tiếng?
Phúc Trường An nói:
- Chẳng qua thích thì đến, thuận tiện đến chơi một lát nên không muốn phiền ông chủ.
Chủ tiệm nói chuyện với Phúc Trường An một lát, rồi quay lại hỏi:
- Vị quan khách này mới lạ, xin được giới thiệu cho biết. Không đợi Phúc Trường An giới thiệu Hách Phong đã nói:
- Ta, Xích Hách Phong, tri phủ Hàng Châu.
Chủ tiệm kính cẩn nói:
- Từ lâu đã nghe tên đại nhân. Tiểu nhân đang định đến Hàng Châu mở tiệm ăn, nếu đến đấy rất mong quan lớn chiếu cố.
- Nói nghe hay đấy, nhưng rượu này, hãy đổi đi.
- Đổi loại rượu nào?
- Đổi lấy loại rượu vô danh cất giữ trong nhà ấy.
Phúc Trường An ngạc nhiên, thì chủ tiệm cười, nói:
- Ngài tri phủ quả thực sành điệu, chẳng trách tri phủ Hàng Châu.
Ngoài thị trường, có rất nhiều loại rượu nổi tiếng, nhưng đều là hữu danh vô thực, không bằng Nữ nhi hồng, Kiếm nam thiêu, Kim lăng xuân, v.v... đa phần là giả mạo tên hiệu, hơn nữa, dù là rượu thật, ủ nấu công phu, cất giữ lâu năm, nhưng quá nửa không hợp tiêu chuẩn. Còn loại rượu vô danh cất giữ trong nhà, ủ nấu công phu nguyên liệu chọn lựa cẩn thận, cất giữ qua nhiều năm. Do đó, rượu ngon quá nửa là không có tên, rượu có tên quá nửa không phải là rượu ngon thật sự.
Chủ tiệm thấy gặp phải người sành điệu, nên nói:
- Tiểu nhân có rượu Vô Tích Huệ Tuyền, đúng là rượu tự nấu thật sự. Nói xong bảo người nhà bê ra một vò gốm, vừa mở miệng vò, mùi thơm bốc toả khắp phòng. Phúc Trường An xuất thân trong một gia đình đại học sĩ, làm đến Thượng thư bộ Lại, đại thần có quyền hành trong triều, chưa bao giờ ngửi thấy rượu thế này. Xích Hách Phong rót rượu, mời Phúc Trường An cùng uống, rồi nói:
- Đây là rượu Huệ Tuyền chôn dưới đất.
Phúc Trường An thưởng thức cốc rượu, ngọt thơm, êm dịu đượm đà, thuần khiết, ý vị đúng là rượu tiên!
Thời gian nửa đời về sau của Càn Long, các quan phủ nha môn, các quan văn võ lớn bé, suốt ngày rượu chè bê bét, ăn chơi xa xỉ không thể tưởng tượng, nhất là kinh thành, Hàng Châu - Tô Châu.
Những năm tháng đó, cuộc sống của người dân càng điêu linh khốn khổ, riêng ngành ăn uống thì phát triển thịnh vượng. Quan lại thối nát tham ô, các tiệm ăn càng phát triển mạnh, ăn uống càng nhiều thì quan lại càng thối nát tham ô.
Sau mấy chén rượu, Phúc Trường An hăng máu, đứng dậy nói to:
- Việc của ngài là việc của ta, việc của ta, ta... ta bao tất
- Còn tướng phụ,... hạ quan muốn mời tướng phụ dành chút thời giờ nhàn rỗi, đến khách sạn một lần, đại nhân thấy...
- Việc ấy ta cũng bao tất.
Xích Hách Phong mừng như mở cờ trong bụng, biết rằng từ nay về sau, con đường hoan lộ mở rộng. Thế là vui đùa hết cỡ với các kỹ nữ.
Ngày 20 tháng 12, Khâm thiên giám thông báo thời gian nghỉ tết. Quan viên các bộ, viện bắt đầu tổ chức tiệc tùng, mời đãi khách. Mọi người đều vui mừng với những thành tích huy hoàng suốt năm qua, cùng nhau chúc tụng.
Hòa Thân mời mấy gánh tuồng nổi tiếng trong kinh thành luân phiên biểu diễn tại vườn Viên Minh trong cung. Thiên tử cùng vui với dân chúng. Đây là cảnh vui nhộn nhất của các bậc vua chúa. Vì vậy Thái Thượng hoàng, Hoàng thượng, Hòa Thân và bộ Lễ phải định trước chương trình hoạt động chào mừng năm mới, tất nhiên là lấy chủ đề “thiên hạ thái bình”.
Sáng sớm ngày 23, một cây nêu to cao trên buộc cây đèn được dựng lên trước sân nhà Hòa Thân. Hòa Thân mang lễ vật hậu hĩ ra cúng thần linh. Thần linh đâu có phù hộ cho những kẻ nghèo khó không có lễ vật cúng các vị, Hòa Thân đặt lên bàn thờ các lễ vật: môi tinh tinh ướp với thịt lợn ướp, xúp vi cá, xúp cua bể, thịt lợn và thịt dê thui, thịt viên, bánh ngọt và kẹo, v.v... Hòa Thân phết đường lên mồm ông táo. Cúng xong đốt hình nộm và vàng mã. Hòa Thân khấn: “cầu mong thần linh phù hộ cho mọi việc tốt lành”. Hòa Thân rất thạo hối lộ, lấy đường bôi mồm ông táo, để táo quân lên trời tâu xin Thượng đế ban phúc lành vận may cho gia đình Hòa Thân.
Đêm giao thừa, Hòa Thân cúng tổ tiên. Tại điện thờ tổ tiên, tổ chức lễ cúng rất linh đình. Sân nhà treo một chiếc đèn to cao, trên bàn thờ đặt đủ các lễ vật không thiếu thứ gì...
Hôm đó, xong công việc gia đình, Hòa Thân vào cung. Bữa tiệc cuối năm trong điện Bảo Hòa được tổ chức long trọng và náo nhiệt. Bàn tiệc đủ các món ăn Mãn - Hán, tượng trưng cho các dân tộc Mãn - Hán - Mông - Tạng - Hồi bình yên hoà hợp dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Thái Thượng hoàng và Hoàng thượng. Sau khi Hòa Thân nói mấy lời chúc mừng ngắn gọn theo chủ đề nói trên, các vương công quý tộc, đại thần văn võ, bối lặc, lặc tử Mông Cổ bắt đầu cầm đũa. Các món ăn được chia ra làm 5 phần.
Phần một: xúp tổ yến thịt gà, hải sâm gan lợn, xúp hải đối ruột lợn, bào ngư trân châu, tôm bể, vi cá, cua bể, xúp nấm thịt gà...
Phần hai: chân gấu hầm, môi tinh tinh ướp với óc lợn, thai báo, u lạc đà hấp, đuôi hươu hầm nhừ, xúp gà rừng...
Phần ba: xúp óc lợn, xúp lưỡi vịt, trứng phù dung, gan cá thu, xúp đậu phụ Tây Thi, chân vịt hầm, thịt ba ba...
Phần bốn: lợn sữa quay, dê quay, gà, vịt, ngỗng quay, xúp bồ câu, thịt dê lợn thui, bánh bao hoa mai,...
Phần năm: rượu nóng hai mươi vị, hoa quả tươi, hoa quả khô.
Trong triều đình thì yến tiệc vui chơi, bên ngoài thì quân Thanh đánh dẹp Bạch Liên giáo.
Tháng 7 năm Gia Khánh thứ hai, Vương Thông Nhi dẫn nghĩa quân Tương Dương từ Tứ Xuyên trở về Hồ Bắc, đánh vào Tương Dương không được, lại dẫn hai vạn quân lên phía bắc, đánh phá các quận huyện, uy hiếp Tây An. Triều đình vội vàng điều các lộ quân đến Tây An. Tháng ba, Vương Thông Nhi dẫn quân xuống đông nam từ Sơn Dương đến Hồ Bắc. Minh Lượng, Đức Lăng Thái dẫn quân đuổi theo. Lúc này, địa chủ và hương dũng chặn đường phía trước, quân Bạch Liên giáo bị bao vây tại vùng ngã ba sông huyện Vân Tây. Hai người đứng đầu bọn địa chủ và hương dũng là La Tư Cử và Quế Hàm đều võ nghệ giỏi. La Tư Cử còn rất khôn khéo xảo quyệt, từng dẫn mấy mươi hương dũng đánh phá sào huyệt của Vương Tam Hòe ở Phong Thành. Quế Hàm vốn là một tên cướp, chân bó mười cân cát vẫn đi ngàn dặm như không.
Quân Thanh và hương dũng bao vây quân Vương Thông Nhi, Diêu Chi Phú. Minh Lượng và Đức Lăng Thái cử La Tư Cử và Quế Hàm đi tìm bắt Vương Thông Nhi. Hai người vâng lệnh, mặc toàn quần áo đen, lưng dắt thừng móc câu, vai mang cung tên, chân mang dày da êm, rời doanh trại, chui vào rừng. Dưới ánh sáng chiều tà, đi gần đến doanh luỹ nghĩa quân, Quế Hàm leo lên một ngọn cây to, dùng biệt tài của nghề trộm cướp, với “con mắt nhìn xa ngàn dặm” nhìn thấy một ngôi miếu trên sườn núi, cây cối quanh miếu bị đốn sạch, có người canh gác tuần tiễu, dưới các lùm cây có hầm hố đề phòng.
Quế Hàm nhẹ nhàng tụt xuống gốc cây, nói với La Tư Cử: “Vương Thông Nhi nhất định ở trong ngôi miếu đó” Hai người luồn vào gần bên miếu, núp sau tảng đá lớn, thò đầu quan sát, thấy trước mặt là một khoảnh đất trống trải bằng phẳng, nếu đi vào đó sẽ bị phát hiện ngay. Hai người đang nghĩ cách vào miếu, thì ngay lúc ấy, một tiếng cú vọ kêu lên từ trên ngọn cây bên trái. La Tư Cử tung người lên tóm bắt chim cú vọ, lấy chiếc khăn buộc chặt chân chim, rồi dùng hết sức ném chim cú vào miếu. Chim cú vỗ cánh bành bạch trên không mang theo chiếc khăn lụa. Lúc này, từ trong mấy chiếc hầm dưới lùm cây, vụt lên mấy bóng người đuổi bắt chim cú. Thế là La Tư Cử và Quế Hàm như con tắc kè bò nhanh đến chân tường vây quanh miếu, vượt qua tường, rồi tung người lên mái miếu, nằm đó nhìn thấy trong sân miếu có một ngọn cây to, liền tung thừng móc câu ra, đu lên cây nhìn vào trong miếu. Miếu chia làm hai phòng trong và ngoài, phòng ngoài toàn là những người tay cầm đao kiếm, nếu từ phòng ngoài vào phòng trong thì không được Hai người tính toán vị trí đặt giường ở phòng trong, rồi tung thừng móc câu lên đu trở lại mái miếu, nhẫn nại chờ đợi đến hết canh ba, bắt đầu giở ngói mái miếu, lấy dao khoét trần nhà, nhìn xuống thấy trong phòng đèn sáng, một chân trắng muốt thò ra khỏi màn. Hai người tụt xuống đất, mò đến bên giường, nhìn thấy một cô gái trên 20 tuổi, đang ngủ say, để hở đôi vai và cặp vú, chẳng khác nào hoa hải đường mùa xuân, hoa thược dược trong sương mù. Hai người nuốt nước bọt, cơn dục vọng nổi lên, hai người thầm nghĩ: con gái đẹp thế này mà làm giặc, giết đi cũng phí thật... Nào ngờ trong lúc hai người đang nghĩ vớ vẩn, Vương Thông Nhi bỗng phi chân đá La Tư Cử, nhưng vì không biết còn có một người nữa. Quế Hàm mắt tinh tay nhanh, rút kiếm bên hông chặt trúng bàn chân của Thông Nhi, từ trong màn vang lên tiếng “ái dà”, hai người vội phi thân ra ngoài, lủi vào rừng, về đến doanh trại, đã sang canh năm.
Minh Lượng, Đức Lăng Thái đang chờ trong doanh trại, nghe hai người thuật lại sự việc, bèn truyền lệnh tấn công vào trại địch..
Lúc này Vương Thông Nhi đang hôn mê trên giường, và cũng chẳng có thuốc cứu chữa, nên chỉ dùng mảnh vải buộc lại vết thương, máu cứ chảy. Mọi người kinh hoàng, một lát sau lại nghe tiếng hò hét vang trời dội lại từ bốn phía. Diêu Chi Phú vội lệnh cho người cõng Vương Thông Nhi, còn mình mở đường phá vòng vây. Quân Thanh đông như kiến bao vây tứ phía. Diêu Chi Phú lệnh cho nghĩa quân chiếm cứ sườn núi, đánh từ trên xuống. Nào ngờ, quân Thanh lớp trước bị đánh, lớp sau xông lên, hết lớp này đến lớp khác. Vương Thông Nhi tỉnh dậy vội nói: “phía sau vách núi có một con đường hẻm, hôm trước tôi đã thăm dò rồi, từ đó có thể rút vào rừng sâu”. Diêu Chi Phú lệnh ngay cho nghĩa quân rút lui men theo vách núi, nhưng vừa đến đấy đã thấy quân Thanh chặn vây, không thể thoát được. Hai bên đánh nhau dữ dội. Diêu Chi Phú thấy không đường rút lui, đưa mắt nhìn Vương Thông Nhi, Vương Thông Nhi cũng nhìn lại, bốn mắt gặp nhau, cùng mỉm cười. Diêu Chi Phú ôm Vương Thông Nhi nhảy xuống vách núi.
Minh Lượng, Đức Lăng Thái cho quân đuổi theo xuống chân vách núi kiểm tra xác chết, chặt đầu Vương Thông Nhi và Diêu Chi Phú, lăng trì thi thể hai người. Khi đầu hai người được đưa về triều đình, Hoàng đế Gia Khánh chúc mừng Hòa Thân:
“Đây là nhờ tài của tướng công, ngồi trong trướng, quyết đoán được mọi việc ở xa ngàn dặm”.
Càn Long vô cùng vui mừng như trẻ lại 30 tuổi. Thái Thượng hoàng tặng thưởng càng nhiều cho Hòa Thân. Hòa Thân cũng cho rằng công lao đó là của mình, là do tài chỉ huy của mình, dương dương tự đắc khoái chí như bay vút tận chín tầng mây. Hòa Thân bỗng nghĩ đến vì sao không nhân chuyện dẹp giặc Mẹo để giành cho mình tước công bậc nhất! Thế là cố tìm cho được cơ hội.
Triều đình đang vui mừng, nhưng nào ngờ, nghĩa quân Bạch Liên giáo mất một thủ lĩnh thì lại xuất hiện hai thủ lĩnh khác, mất hai thủ lĩnh thì lại xuất hiện bốn thủ lĩnh khác. Một vùng Hồ Bắc còn hơi yên tĩnh, còn ở Tứ Xuyên, giáo đồ Bạch Liên giáo ngày càng mạnh. Tổng đốc Tứ Xuyên và Tổng chỉ huy các lộ quân là Nghi Miên đành bó tay. Nghi Miên tâu xin triều đình chọn đại thần đến thay mình làm Tổng thống quân vụ.
Hòa Thân thấy một tướng tâm phúc do mình ra công bồi dưỡng lại bất tài như vậy, rất tức giận. Nhưng Nghi Miên vẫn do mình đề bạt cất nhắc, dù tức giận đến mấy cũng không thể giáng chức nên điều Nghi Miên làm Tổng đốc Thiểm - Cam. Hòa Thân suy đi tính lại, xét xem một lượt các tướng, tâu xin Thái Thượng hoàng và Hoàng thượng cho Lặc Bảo làm Tổng thống quân vụ, chỉ huy quân đội, kiêm Tổng đốc Tứ Xuyên. Lặc Bảo phấn khởi, nhất định sẽ báo ân Hòa Thân. Lặc Bảo là người Mãn Châu, anh em với Vĩnh Bảo, vốn chẳng có tài thao lược, lúc đầu là một viên tướng dưới quyền chỉ huy của Hòa Lâm, sau khi Hòa Lâm mất, lập được một số công trạng, được phong lên tước hầu, nhưng thực ra tước hầu đó là do chuyện lằng nhằng của người đẹp mà có.
Mấy năm trước, ở Động Sái Trại, vùng biên giới Mẹo, có một phụ nữ tên là Vương Tương Tiên xinh đẹp, dâm đãng, tư tình với Vĩ-tì-liễu-tu Lưỡng-hạ-lý, kêu gọi dân chúng nổi lên chống quân Thanh đóng ở vùng Nam Lung. Lúc đó Hoà Lâm được tin, lệnh cho Lặc Bảo đi dẹp. Lặc Bảo đến Nam Long nghe nói Vương Tương Tiên dùng yêu thuật giết người nên không dám tiến quân, chỉ lệnh cho thổ ty miền nam Quý Châu là Long Diệu đem quân đội đi đánh. Ông cố của Long Diệu là một tù trưởng nổi tiếng. Em gái của Long Diệu là Ma Muội, đẹp gái, văn võ song toàn. Long Diệu nhận được lệnh của Lặc Bảo, nhưng vì ốm không đi được, Ma Muội thay anh đi ra trận, cưỡi ngựa đem theo mấy nữ binh Mẹo và mấy trăm quân Mẹo đến doanh trại quân Thanh nhận lệnh. Lúc ấy vừa gặp Vương Tương Tiên, Vĩ-tì-liễu-tu đánh nhau với quân Thanh, Lặc Bảo bị vây. Ma Muội phi ngựa xông vào trận, đánh lui quân địch, cứu được Lặc Bảo. Tối hôm đó Ma Muội dẫn đường cho quân Thanh lén đánh Động Sái Trại.
Chủ trại Động Sái Trại, Vương Tương Tiên ra quân thắng lợi, cùng với Vĩ-tì-liễu-tu mở tiệc ăn mừng, nhân lúc rượu hứng, hai người giở trò mây mưa. Đang lúc khoái chí, không đề phòng. Ma Muội dẫn quân Thanh xông vào trại, Vương Tương Tiên không kịp mặc áo quần, cũng chẳng ngượng ngùng cứ thế đánh nhau với Ma Muội, nhưng cô ta đâu phải là đối thủ của Ma Muội. Trong lúc nguy cấp, Vĩ-tì-liễu-tu, người trần như nhộng tiến tới phía Ma Muội, Ma Muội quay lại, Vương Tương Tiên vội khoác chiếc áo lót, đuổi theo Ma Muội. Lúc này quân Thanh đã bao vây Vĩ-tì-liễu-tu, kẻ đâm người chém, Vĩ-tì-liễu-tu ngã, bị bắt sống. Quân Thanh sợ Vương Tương Tiên có yêu thuật, nên không dám tiến đánh, Ma Muội thấy Vĩ-tì-liễu-tu bị trói bèn múa kiếm xông đến Vương Tương Tiên không cho địch thủ giở trò yêu thuật. Ma Muội, tay phải múa kiếm, nhằm đúng lúc, vung tay trái ra nắm lấy quai áo lót của Vương Tương Tiên giật mạnh. Vương Tương Tiên ngã xuống đất, các nữ binh của Ma Muội xông tới trói chặt, khiêng đi.
Trại Mẹo bị phá huỷ, Lặc Bảo tâu về triều đình, chỉ nói công lao của mình, chẳng hề nhắc đến Ma Muội, thế là công tích của Ma Muội trở thành công cốc.
Lặc Bảo cướp công của người khác lừa dối triều đình mà không thấy hổ thẹn, lại được đề bạt làm Tổng đốc quân vụ, đánh dẹp Bạch Liên giáo. Như vậy đủ thấy triều đình lúc bấy giờ chỉ biết sử dụng cất nhắc những người thân tín của mình, vì lợi ích quốc gia hay không mặc kệ, chỉ vì lợi ích cá nhân.
Lặc Bảo phụng mạng triều đình, đem 10 vạn quân ào ạt tiến về Tứ Xuyên. Bắt được mấy người của Vương Tam Hòe, chém đầu thị uy, và cho người về kinh tấu báo công tích. Hòa Thân nhận được bản tấu, tâu ngay với Thái Thượng hoàng và Hoàng thượng. Thái Thượng hoàng và Hoàng thượng rất đỗi vui mừng, ra chỉ dụ khen thưởng và lệnh truy bắt Vương Tam Hòe.
Lúc này, tín đồ Bạch Liên giáo ở Hồ Bắc, vì Vương Thông Nhi và Diêu Chi Phú đã chết, nên liên hệ với tín đồ ở Xuyên Bắc, tập trung hết về Tứ Xuyên. Nhóm Lý Toàn, Cao Quân Đức từ Thiểm Tây vào Tứ Xuyên; Nhóm Trương Hán Triều, Lưu Thành Luyện cũng là dư đảng của Thông Nhi và Chi Phú từ Hồ Bắc vào Tứ Xuyên. Triều đình chỉ dụ: giặc Thiểm Tây - Hồ Bắc bị bức phải rút vào Tứ Xuyên. Ở Tứ Xuyên quan binh Mãn - Hán có không dưới 5 vạn, Lặc Bảo phải cùng với các tướng, đồng tâm diệt giặc, không được để chúng chạy thoát. Lệnh cho Ngạch Lặc Đăng Bảo, Minh Lượng, đánh dẹp bọn Trương Hán Triều, Lưu Thành Luyện; Đức Lăng Thái đánh dẹp bọn Cao Quan Đức, Lý Toàn; Đồng Huệ Linh, Hằng Thụy đánh bọn La Kỳ Thanh, Nhiễm Thiên Trù; Nghi Miên giữ vững biên giới Thiểm Tây, không để giặc vào Thiểm Tây, Cảnh An giữ vùng biên giới Hồ Bắc, không để giặc vào Hồ Bắc; Lặc Bảo đánh dẹp bọn Vương Tam Hòe, Từ Thiên Đức và trinh sát tình hình địch ở các lộ tuỳ cơ ứng biến, tiêu diệt bọn giặc. Lặc Bảo tiếp được chỉ dụ nghĩ rằng mình là thống soái, chỉ cần tóm được một vài tên giặc là đủ lập công nổi tiếng, nên liên tiếp đem quân đánh Vương Tam Hòe trước, không ngờ Vương Tam Hòe cố thủ ở An Lạc Bình, huyện Đông Hương địa thế hiểm trở, quân đông, quan binh không thể tiến đánh, ngược lại bị chúng tấn công, thương vong không ít. Lặc Bảo lại tấu báo láo, hôm nay diệt mấy trăm địch, ngày mai diệt mấy ngàn địch. Không ngờ Thái Thượng hoàng phát hiện, chỉ dụ quở trách “giết kẻ a tòng, không giết được đầu sỏ, quân lính chết nhiều báo ít, giết giặc ít báo nhiều, chỉ mong được khen thưởng, cố ý dối trên, từ nay về sau không được khen thưởng”. Mấy câu nói đó đánh trúng vào tâm địa xấu của Lặc Bảo. Lặc Bảo sợ toát mồ hôi. Sau một ngày suy nghĩ, Lặc Bảo nghĩ ra một kế, lệnh hương dũng xông trận trước còn lính Lục Doanh, Bát Kỳ, Cát Lâm, Tố Luân thì đi sau, tấn công Vương Tam Hòe. Ý đồ của Lặc Bảo là bọn hương dũng có chết cũng không phải báo lên trên, tránh được tội quân lính triều đình chết nhiều báo ít. Lúc đầu, La Tư Cử, Quế Hàm dốc lòng dốc sức vì Lặc Bảo, đánh thắng địch hai trận. Nhưng sau nghe nói công lao của mình bị người khác cướp cả, nên cũng bực tức. Từ đó hương dũng và quan binh đùn đẩy nhau, mặc cho giặc tự do đi lại.
Trong các tướng, có một người trước là thuộc hạ của Hải Lan Sát, rất thiện chiến, đó là Ngạch Lặc Đăng Bảo. Thấy Lặc Bảo ngu dốt bất lực, nên tấu báo tình hình thật sự về triều đình. Hòa Thân nhận được bản tấu, định ỉm luôn đi, nhưng nghĩ rằng Đăng Bảo là thuộc tướng của Hải Lan Sát, có quan hệ chặt chẽ với Hải Lan Sát, nên không dám không tâu với Thái thượng hoàng và Hoàng thượng, song sửa đổi lời lẽ ý tứ của bản tấu. Thái Thượng hoàng và Hoàng thượng chỉ dụ nghiêm khắc quở trách Lặc Bảo sợ chết không dám tiến quân. Hòa Thân nhân đó muốn lập công, tâu rằng: “thế giặc mạnh, các tướng bó tay, nô tài định tự mình cầm quân dẹp giặc, nhưng Thái Thượng hoàng cần nô tài bên cạnh, nên nô tài cho rằng cần phải cử một đại thần ra tiền tuyến đôn đốc”, và đề cử Phúc Trường An. Thái Thượng hoàng và Hoàng thượng chuẩn tấu.
Lặc Bảo buồn rầu hết cỡ, nghĩ đi nghĩ lại chẳng còn cách nào, đành phải bàn với mấy người tâm phúc. Ai nấy đều vắt óc suy nghĩ, nhưng chẳng nghĩ ra cách gì hay. Bỗng một người đứng lên nói: “Tôi có một kế chẳng biết có thực hiện được không?”
Lặc Bảo mừng ra mặt, chắp tay hỏi, người đó nói:
- Chỉ dụ của triều đình là muốn đại soái diệt trừ Vương Tam Hòe, nếu bắt được hắn là chấp hành đúng mệnh lệnh.
- Dĩ nhiên rồi. Lặc Bảo nói.
- Lưu Thanh hiện là trí đạo Kiến Xương, trước đây từng làm tri huyện Nam Sung, có lần chiêu dụ được Vương Tam Hòe, và thả hắn ra. Giờ đây chi bằng lệnh cho Lưu Thanh dụ hắn đến, bắt giải về kinh, há chẳng phải lập công to?
Lặc Bảo cả mừng viết thư mời Lưu Thanh đến.
Lưu Thanh là một vị quan thanh liêm số một ở Tứ Xuyên, dân chúng gọi ông là Lưu Thanh Thiên, được Vương Tam Hòe và La Kỳ Thanh kính phục. Nếu tất cả các quan ở Tứ Xuyên đều như Lưu Thanh Thiên, dù có bảo họ làm phản họ cũng chẳng làm. Chỉ vì tham ô thì nhiều, thanh liêm thì ít, cho nên dẫn đến hoạ lớn. Lưu Thanh được thư của thống soái, bèn dẫn cống sinh văn thư Lưu Tinh Cừ đi ngay trong đêm đến gặp Lặc Bảo. Lưu Thanh hỏi “cho gọi có việc gì?” Lặc Bảo nói qua kế hoạch chiêu hồi Vương Tam Hòe. Lưu Thanh nói:
- Vương Tam Hòe rất ranh mãnh ngang ngược, lần trước bản chức chiêu hồi, hắn xin đầu hàng, sau đó lại như cũ, e rằng khó thể chiêu hồi hắn, có lẽ dùng quân lính tiêu diệt hắn thì hay hơn.
- Triều đình đem quân đi dẹp đã ba năm rồi, người ngựa thương vong không ít, quân lương tiêu tốn khá nhiều, nhưng vẫn chưa kết quả, nếu chiêu hồi được mấy tên thủ lĩnh, tránh được binh đao, là tốt nhất. Ngài, tên tuổi nổi tiếng, giặc rất khâm phục, nay xin ngài thay tôi đi một chuyến. Nếu Vương Tam Hòe chịu quy thuận, tôi không quên công ngài. Một khi thủ lĩnh giặc đầu hàng, quân giặc tan rã hoặc quy thuận, đó chẳng phải là hạnh phúc của Tứ Xuyên ư?
Lưu Thanh khó từ chối, đành chấp thuận, đi ngay. Lặc Bảo cử một đô tư cùng đi. Ba người đến An Lạc Bình, báo tin cho Vương Tam Hòe. Vương Tam Hòe nghe Lưu Thanh Thiên đến, ra khỏi trại đón tiếp, mời Lưu Thanh vào trại. Lưu Thanh khuyên Tam Hòe nên quy hàng, triều đình khỏi hỏi tội. Vương Tam Hòe nói:
- Ngài Thanh Thiên đã nói tiểu dân đâu dám không nghe? Nhưng lần trước đã theo ngài Thanh Thiên đến doanh trại của Nghi Miên đại nhân, Nghi Miên đại nhân không chân thành đối xử, nên tiểu dân không dám đầu hàng. Bây giờ Lặc đại nhân, tiểu dân chưa từng gặp mặt, nên chẳng biết Lặc đại nhân có chân thành hay không? Hay lừa tiểu dân chém đầu? Vương Tam Hòe vẫn hoài nghi.
Lưu Thanh lòng dạ ngay thẳng, nói:
- Nếu có nghi ngờ, hãy đi cùng chúng ta đến gặp Lặc đại soái, ta ngồi đó, bảo lãnh được không?
- Thế này thì không phải, tôi xin đi cùng với ngài Thanh Thiên, nếu ngài để các tùy tùng của ngài ở lại đây tôi rất lấy làm cảm kích.
Lưu Thanh đồng ý. Vương Tam Hòe theo Lưu Thanh ra khỏi trại. Người của Vương Tam Hòe ở An Lạc Bình biết rõ uy tín của Lưu Thanh Thiên, nên không khuyên ngăn Vương Tam Hòe.
Lưu Thanh đi trước, Vương Tam Hòe theo sau, đến thẳng doanh trại Lặc Bảo. Lưu Thanh vào trước bẩm báo. Lặc Bảo lập tức truyền các tướng sĩ sắp hàng đứng nghiêm hai bên để phô trương uy nghiêm, rồi truyền Vương Tam Hòe vào. Vương Tam Hòe vừa bước vào, Lặc Bảo thét:
- Bắt lấy hắn!
Quân sĩ hai bên vâng lệnh, hùng hổ bước đến trói chặt Vương Tam Hoè. Lưu Thanh nói:
- Vương Tam Hòe đến xin đầu hàng, xin đại soái không nên xử tội.
Nào ngờ Lặc Bảo dương mày trợn mắt, nói với Lưu Thanh:
- Hừm! Hắn là tên đầu sỏ Bạch Liên giáo đại nghịch mà không trị tội ư?
- Đô tư của đại soái, cống sinh văn thư của bỉ chức, còn ở tại An Lạc Bình, nếu xử tội Vương Tam Hòe, liệu hai người ấy có được sống không? Xin đại soái nghĩ kỹ.
Lặc Bảo từ tức giận chuyển sang tươi cười.
- Ngài bảo ta trừng trị hắn ư? Hắn là người mà triều đình có lệnh truy bắt, đương nhiên phải giải về kinh do triều đình xét xử. Triều đình muốn thả thì thả, muốn giết thì giết, ngài chẳng thể làm gì, chủ soái như tôi cũng chẳng làm gì! Nếu vì một đô tư, một cống sinh, thả hắn ra, sau này triều đình hỏi, ai chịu trách nhiệm?
- Bản chức xin chịu trách nhiệm.
Lặc Bảo cười ha hả:
- Hôm nay bắt được thủ lĩnh quân giặc là công lao của ngài, bản soái đâu dám tranh công, xin ngài yên tâm.
- Công lao là việc nhỏ, tín nghĩa là việc lớn.Hôm nay Vương Tam Hòe đến quy thuận. Nếu giải về kinh sau này tín đồ nghi ngờ sẽ không dám quy thuận, lúc đó hao tổn binh lực càng nhiều. Xin đại soái suy nghĩ thật kỹ.
- Việc ấy bàn sau, giờ phải quản hắn cho chặt. Lặc Bảo lệnh cho quân lính tống giam Vương Tam Hòe, rồi lùi vào bên trong, bảo người viết tấu báo tin mừng về triều đình.
Đúng lúc này Phúc Trường An đến, hai người bàn nhau, uống nước không quên người đào giếng, xem công lao đó là của Hòa tướng phụ. Kế dụ Vương Tam Hòe là do Hòa Thân hoạch định từ xa vạn dặm. Bản tấu về đến triều đình. Vương Tam Hòe đang trên đường bị áp giải về kinh, mọi người trong triều đều hoan hỉ. Thái Thượng hoàng và Hoàng thượng chỉ dụ: “Theo tấu báo của Lặc Bảo, đã dẹp xong giặc ở An Lạc Bình, bắt được Vương Tam Hòe, Trẫm rất vui mừng, Hòa Thân có công hoạch định kế hoạch, Phúc Trường An có công đốc thúc quân lính. Đặc biệt ban thưởng tước Công cho quân cơ đại thần, Đại học sĩ Hòa Thân, tước Hầu cho Thượng thư bộ Lại, Phúc Trường An; Lặc Bảo từ tước Hầu uy cần lên tước Công uy cần, em là Vĩnh Bảo trước đây bất tài trong việc đánh giặc, bị cách chức giao bộ Hình xét xử, nay được tha, lập công chuộc tội”.
Chỉ dụ đó của Thái Thượng hoàng rõ ràng là không thoả đáng, nhưng Hoàng đế Gia Khánh không dám trái lệnh.
Lặc Bảo vốn chẳng thạo việc quân, suốt ngày chỉ biết rượu tiệc, múa hát bên cạnh kỹ nữ, nay dược phong tước Công, cảm thấy mình công lao to lớn, sống càng bê tha bừa bãi.
Mỗi khi bắt được “nữ tặc” nào có nhan sắc thì cưỡng hiếp suốt ngày đêm, ai không đồng ý thì bị tra tấn đến chết. Có một cô gái tuổi còn rất nhỏ, không chịu để Lặc Bảo làm nhục bèn bị Lặc Bảo đánh chết.
Thạch Tác Thuỵ, Tri đạo Kiến Xương, Tứ Xuyên, là thuộc hạ của Lặc Bảo, lo việc quản lý quân lương, ăn chặn tiền bạc có đến hơn 50 vạn lạng bạc. Thường mở tiệc chiêu đãi các tướng, mỗi lần tiêu hơn 200 lạng bạc. Y khấu trừ, ăn bớt lương của quân lính, có lúc mấy tháng liền không phát lương, thậm chí còn làm giả sổ sách để lĩnh khống tiền lương, bỏ túi riêng. Các quan tướng không phát lương, quân lính ăn đói mặc rách, đói rét, thậm chí phải lấy da trâu quấn vào chân để trèo núi vượt đèo, quan tướng chẳng thèm để ý. Tục ngữ có câu: “Đi lính để kiếm ăn”, nhưng lương tiền bị các quan tướng ăn chặn, do đó lính còn hung hãn hơn thổ phỉ, ra sức giết người cướp của, cướp được những gì thì dùng tất, chúng nói: “giữ lại bên mình cũng bị quan tướng cướp mất”. Nhìn thấy chủ soái tiệc tùng hoang dâm suốt ngày, họ nói: “Lẽ nào các quan châu được đốt đuốc mà không cho dân chúng thắp đèn”. Thế là chúng cướp đàn bà con gái bất kể xinh xấu, cưỡng hiếp thoải mái. Có một số quan tướng mang luôn những phụ nữ có nhan sắc theo quân đội, nếu họ sinh con thì giết luôn cả đứa bé, hoặc bỏ ngoài đồng ruộng. Quân đội như một thùng rác hôi thối bẩn thỉu.
Dân chúng đã khổ với quan, lại khổ với lính, vẫn biết tham gia Bạch Liên giáo là chết, nhưng họ vẫn đua nhau vào. Quân đội càng đánh địch, địch càng đông.
Lặc Bảo ở Tứ Xuyên chỉ biết vui chơi dâm đãng; Tuần phủ Thiểm Tây, Tần Thừa Ân càng nực cười hơn.
Tần Thừa Ân, tự là Chi Hiên, người Giang Ninh, Giang Tô, đậu tiến sĩ năm Càn Long thứ 26, được chọn làm Thứ Cát sĩ, phụ trách biên tu và thị giảng, sau làm tri đạo Cửu Nam, Quảng Nhiêu, Giang Tây, rồi làm Bố chánh sứ Trực Lệ, rồi Tuần phủ Thiểm Tây.
Khi Nghi Miên, Tổng đốc Thiểm Tây và là Tổng thống quân vụ được điều đến Tứ Xuyên, Tần Thừa Ân phụ trách công việc quân chính Thiểm Tây - Cam Túc, chủ yếu đánh dẹp giặc Bạch Liên giáo ở Thiểm Tây. Năm Gia Khánh thứ 3, Nghi Miên sau khi giao lại chức vụ của mình cho Lặc Bảo, trên đường về Thiểm Tây nhậm chức Tổng đốc, thì quân Bạch Liên Giáo Tương Dương đang đánh phá huyện Mi, cách Tây An 150 dặm.
Quân địch hao vây thành huyện. Tần Thừa Ân đứng trên tường thành, nhìn thấy quân địch đông như kiến, sợ mất hồn vía, đôi chân run lẩy bẩy tựa hồ muốn quỳ xuống đất, ngay lúc đó, ở phía dưới, một đoàn người ngựa phóng đến dưới chân thành, trong số đó có một người ngước mắt nhìn lên tường thành thét:
- Thành này như một cái đĩa, mũi dày của ta chỉ hất một cái là đổ ngay, lấy thành dễ như chơi.
Tần Thừa Ân đứng trên thành, nghe nói như vậy, đứng không vững, ngã nhào, đầu va vào tường sưng bầm tím, lính hầu ôm đỡ dậy, dìu vào trụ sở, khong dám nói đến chuyện đánh đấm, ôm đầu nằm ngủ. Lúc này quân địch công phá thành khá khẩn trương, đề đốc Vương Văn Hùng thấy tình thế nguy hiểm, e không giữ được bao lâu nữa, chạy vào trong, kéo chiếc chăn ra, nhìn thấy Tần Thừa Ân run lập cập, bèn nói:
- Bây giờ là lúc nào, Tuần phủ còn ngủ ngon như vậy?
- Ta... ta... ta đang lên cơn sốt, không thể chỉ huy quân đội giữ thành, mọi... mọi việc... đều trông cậy vào tướng quân.
Vương Văn Hùng tập trung lực lượng, lệnh cố thủ ba mặt thành, chỉ đánh ở mặt nam mà thôi. Một tiếng thét lớn, cổng thành mở tung, quân lính xông ra khỏi thành. Quân địch bị phân tán, bị đánh mạnh, phải lùi lại. Quân địch ở ba mặt kia nghe quân Thanh xông ra ở mặt nam, nên vội đến cứu viện. Vương Văn Hùng thừa thế xông đến đánh lui quân địch, nhưng không dám đuổi theo, vì lực lượng vừa ít, vừa yếu nên rút quân vào thành. Tần Thừa Ân nghe tin quân địch đã lui, cảm thấy dễ chịu, đứng trên mặt tường thành, bỗng quỵ xuống, quân địch khắp nơi ào ào kéo đến, thế là vội vàng vào phòng, trùm chăn kín mít.
Đề đốc Vương Văn Hùng bước vào phòng, lật chăn ra nói:
- Tuần phủ đại nhân phải có kế sách gì chứ?
- Ta là quan văn, không thạo việc quân, tất cả đều trông cậy vào tướng quân. Tần Thừa Ân khóc mếu máo...
- Tuần phủ đại nhân phải ra lệnh, mạc tướng mới dám hành động.
- Giữ... giữ.
Bảy hôm sau, viện binh đến, quân địch rút lui. Tần Thừa Ân lẽo đẽo theo sau quân đội, truy kích địch và tấu báo về triều đình, đại thắng. Chỉ dụ khen thưởng của triều đình chưa đến thì tín đồ Bạch Liên giáo khắp nơi trong tỉnh Thiểm Tây lại ào ào nổi lên, hưởng ứng cuộc đấu tranh của tín đồ Tương Dương. Tần Thừa Ân lại vội vàng rúc vào thành.
Vương Văn Hùng hỏi:
- Tuần phủ đại nhân, lần này thế giặc khá mạnh, tín đồ cả Thiểm Tây tập hợp lại một nơi, e rằng quân ta không giữ được thành, vậy tính thế nào đây?
Tần Thừa Ân bỗng nghĩ ra một kế khá hiểm độc, cười nói:
- Có rồi, có rồi, cho chúng đi không về! Nói xong lệnh cho Vương Văn Hùng cử người trộn bột thuốc độc vào hàng vạn cân bột mì rang chín, vứt vào các ngôi nhà trống không ở khắp đường phố,và vứt thuốc độc vào các giếng nước. Khi mọi việc bí mật chuẩn bị xong, bèn rút quân ra khỏi thành. Quân địch khắp nơi kéo đến, thấy quan quân đã bỏ thành rút đi nên xông vào thành, tìm kiếm thức ăn, vừa may nhìn thấy bột mì rang sẵn, tranh nhau ăn lấy ăn để, rồi tìm nước uống, thế là thi nhau ngã chết.
Lúc này, quân của Hằng Thụy vừa đến, hợp với quân của Tần Thừa Ân, thấy quân giặc chết nhiều như vậy, cười khoái trá, khen lấy khen để mưu kế của Tần Thừa Ân. Hằng Thụy, Tần Thừa Ân dẫn quân vào thành, quân địch chạy tán loạn. Hằng Thụy, Tần Thừa Ân vội báo công về triều đình, không ngờ hai người tranh công, ai cũng nói công đầu thuộc về mình.
Hằng Thụy nói:
- Ngài bị vây hãm trong thành. Tôi hai lần đến đánh đuổi giặc đi, công đầu không phải của tôi, vậy là của ai?
- Tôi đã đánh tan quân giặc, ngài đến làm gì?
Hai người đều là bè đảng của Hoà Thân, nhưng Thừa Ân là môn sinh của Hoà Thân, cãi cọ một hồi, tức quá, Hằng Thụy mang quân đi và thề rằng từ nay về sau chẳng thèm đến cứu Tần Thừa Ân.
Thực ra, các quan tướng đó đều là bất tài vô dụng, chỉ biết trấn giữ một phương, vơ vét của cải. Nên chỉ muốn địa phương mình bình an vô sự, chàng hề đoái hoài đến nơi khác đang khói lửa ngập trời. Họ đều có ý đồ của mình, giữ lực lượng tinh nhuệ cho mình, tranh công nhau, nếu địch rút lui thì lập tức đuổi theo chém giết, báo lập công lớn, toàn thắng.
Lần này, Tần Thừa Ân, đúng là toàn thắng.
Quân Bạch Liên Giáo ăn uống phải thuốc độc, liên tiếp ngã chết dọc đường không còn sức chiến đấu.
Mấy ngàn nông dân, gồm già trẻ đàn bà con gái, chạy theo quân Bạch Liên giáo, không còn con đường nào khác, đành phải đầu hàng quân Thanh. Tần Thừa Ân cả mừng chọn một số con gái có nhan sắc, và chọn 1.000 thanh niên khoẻ mạnh vào quân đội, số còn lại thả về. Tần Thừa ân đưa 1.000 thanh niên nông dân vào thành, nói với họ: “Các người sẽ được phân về các doanh trại, tối nay sẽ được nhận quần áo lương thực”.
Tối đó, họ được phân về các doanh, theo quân Thanh đi nhận quần áo, lương thực. Cơm đã chuẩn bị sẵn. Vì đói khát quá nhiều ngày, họ lao vào ngồi xuống trước bàn ăn. Nào ngờ, chưa kịp há mồm, đầu đã bị chém rơi tại chỗ. Tối đó ngoài 1.000 thanh niên trai trẻ bị giết, còn có hơn 1.000 người già khác bị chôn sống.
Tần Thừa Ân còn nghĩ ra một kế hiểm ác khác. Thả bọn tội phạm trộm cướp đang bị giam giữ ra và biên chế bọn chúng thành đội quân đi đầu. Bọn chúng đến đâu cũng hò hét hung hăng đánh nhau với quân Bạch Liên giáo. Tần Thừa Ân khoái chí ngồi cười.
Nghi Miên giao ấn soái cho Lặc Bảo, trên đường về Thiểm - Cam, lập được công lớn.
Thủ lĩnh quân Bạch Liên Giáo ở Vân Dương, Tứ Xuyên là Cao Danh Quý, được tin nghĩa quân Tương Dương bị đánh bại đang định vào Tứ Xuyên, nên tập hợp 5.000 quân, chia ra thành 5 doanh tiền, hậu, trung, tả, hữu, đóng tại biên giới huyện Vân Dương, chuẩn bị tiếp ứng.
Đầu mục quân hương dũng là La Tư Cử nói với Nghi Miên:
- Tôi có một kế có thể lấy đầu Cao Danh Quý.
- Cùng với Quế Hàm ư?
- Đây là cách há miệng chờ sung, làm sao mà không tóm được Cao Danh Quý!
- Không thế, thì không thể bắt được hắn!
La Tư Cử nói với Nghi Miên, cho mọi người ra, ông ta trình bày mưu kế. Nghi Miên nói:
- Kế này được đấy. Dù không thành, cũng chẳng có thiệt gì. Thế là tự mình đưa quân đi mai phục.
Trời hửng sáng, Cao Danh Quý vừa thức dậy, bỗng có lính vào báo:
- Nghĩa quân Tương đương đã đến.
Cao Danh Quý cả mừng, bước ra ngoài nhìn xem, thấy mấy trăm quân sĩ bận áo quần trắng, đầu chít khăn trắng, bím tóc đuôi sam đã cắt bỏ, tay cầm cờ Bạch Liên giáo, miệng thổi tù và, đúng là nghĩa quân. Cao Danh Quý gọi to:
- Đại sư bát ở đâu?
La Tư Cử bước lên phía trước đáp:
- Ta là nghĩa quân Tương Dương, đánh nhau với bọn quan quân. Đại sư bát hiện ở phía sau, sắp đến đấy, xin quý thủ lĩnh bước ra trước trao đổi câu chuyện, rồi cùng đi một thể.
La Tư Cử chuyển cho Cao Danh Quý bức thư. Cao Danh Quý xem thư đúng là thư của đại sư bát nghĩa quân Tương Dương, bút tích ám hiệu đều đúng, nên chọn 400 quân cùng mình theo La Tư Cử. Vừa đến một thung lũng, La Tư Cử bất ngờ nhảy lên ném ba quả pháo sáng. Quân Thanh mai phục bốn bên thấy tín hiệu, la ó xông ra. Cao Danh Quý và 400 quân đi theo đều bị vây chặt, giết chết, không sót người nào. Nghĩa quân nghe tin, tập hợp hơn 3000 người ra sức đến cứu, lại bị quân Thanh mai phục sẵn đổ ra vây đánh tiêu diệt toàn bộ.
Nhờ đó, Nghi Miên trở thành danh tướng túc trí đa mưu mọi người đều biết, triều đình cũng có phần hối hận đã không để ông tiếp tục giữ Tổng thống quân vụ.
Thái Thượng hoàng suốt ngày yến tiệc vui chơi; Hòa Thân đi đầu tham nhũng; đốc phủ, quan tướng thay nhau trấn áp “giặc đạo” để phát tài thăng chức; quan lại địa phương tự do hoành hành, sách nhiễu bóc lột dân chúng. Vì thế, một thủ lĩnh Bạch Liên giáo hy sinh, lại một thủ lĩnh khác xuất hiện; một đội quân này bị tiêu diệt, lại một đội quân khác xuất hiện. Đúng là: “Lửa âm ỉ trên đồng cỏ, chờ gió thổi đến lại bùng lên”.