← Quay lại trang sách

Chương 25 GIA KHÁNH CẦM QUYỀN-SẤM RỀN KHÔNG MƯA

Hòa Thân chết rồi, tham nhũng còn chăng...

Ngày 1 tháng giêng năm Gia Khánh thứ 4, tức ngày thứ tám sau khi Càn Long băng hà, ngày thứ ba Hòa Thân bị bắt, Chu Khuê nhận được chỉ dụ của Hoàng đế Gia Khánh, nhìn thấy trên bìa chỉ dụ viết bằng mực xanh, lòng cả kinh.

Triều Thanh quy định, trong vòng 27 ngày quốc tang, cấm mặc áo đỏ, cấm treo cờ đỏ; chữ đỏ dấu đỏ, dùng trong các nha môn cũng phải đổi thành chữ xanh dấu xanh; các tấu chương báo về triều đình, sau 15 ngày mới được dùng dấu đỏ.

Sau khi xem thư của Hoàng thượng, Chu Khuê đoán có thể Càn Long đã băng hà, nhưng Hoàng đế Gia Khánh không cho biết, chỉ mong Chu Khuê cấp tốc về kinh. Chu Khuê vội vàng giao lại ấn quan, ngày đêm rong ruổi về kinh. Ngày 17, đến Vương Trang, mới biết đích xác Càn Long băng hà, và nghe nói Hoàng đế Gia Khánh muốn để tang ba năm. Chu Khuê viết tấu cho người vượt 800 dặm về tâu ngay với Hoàng thượng.

“Thần được tin Thái Thượng hoàng băng hà, ruột gan tan nát, kêu thấu trời xanh, sụp lạy đất đày, đau thương vô hạn. Chạnh nhớ đến Thái Thượng hoàng đã lập nên chiến công lừng lẫy; tận hưởng được năm phúc lớn của trần gian, noi theo gương Nghiêu - Thuấn, có thể nói công đức vẹn toàn nay mới băng hà, có thể nói Thái Thượng hoàng cũng được an ủi, xin Hoàng thượng bớt đau buồn, giữ gìn sức khoẻ.

“Thần nghe nói Hoàng Thượng định để tang ba năm, tuy đã là nghĩa cử xưa nay chưa có, khiến muôn đời sau khâm phục, nhưng, xưa nay, lòng hiếu thảo của bậc đế vương phải thể hiện ở chỗ kế thừa ý chí của Tiên hoàng, phát huy rực rỡ sự nghiệp vĩ đại của Tiên hoàng đã xây dựng. Ngày nay gian tặc chưa trừ sạch, bọn giặc đạo đang quấy phá, thần khẩn thiết xin Hoàng thượng nhìn vào hiện thực, gạt bỏ lễ tiết cũ kỹ, bắt tay vào công việc triều chính ngay.

“Trước hết, Hoàng thượng hãy nghe xa nhìn gần, trù tính việc càn khôn trong trái tim rộng lớn, bình thản giữ gìn kỷ cương triều chính, chế định pháp quy thận trọng tỉ mỉ, một khi quyết định thực hiện, phải như nghiêng trời đổ nước, phải như sấm rền chớp giật rung động bầu trời, kiên nghị quả cảm như vừng dương rực sáng, không gì cản nổi. Nếu có động tĩnh trắc ẩn, chớ để lộ ra ngoài; lúc thường phải giữ gìn sức khoẻ, tu dưỡng tinh thần, phải phân biệt rạch ròi giữa dối trá và chân thực; đánh giá con người, phải xem họ là người quân tử hay kẻ tiểu nhân. Nếu lòng dạ Hoàng thượng trung chính, triều chính trong sạch, lễ nghĩa liêm sỉ sẽ chiếu sáng khắp thiên hạ, bốn phương yên ổn. Hoàng thượng nên đích thân tự mình đi đầu tiết kiệm, thưởng phạt phân minh, như vậy sẽ không có trộm cướp, của cải dồi dào.

“Viết xong bản tấu này, nước mắt tuôn trào. Thần mong Hoàng thượng với trái tim của trời cao, với ý chí của tổ tông, luôn luôn ghi nhớ như Nghiêu - Thuấn, trái tim gắn liền với muôn dân thiên hạ.

“Ngày trước thần hầu hạ Hoàng thượng học hành, mười năm xa cách, nay phụng chiếu về kinh, thần đâu dám không khuyên mình, hết lòng hết dạ phục vụ Hoàng thượng.”

Sau khi nhận được bản tấu Chu Khuê, Hoàng đế Gia Khánh lập tức xử tử Hòa Thân, xử Phúc Trường An tội chém, cho Tô Lăng A về vườn, cách chức Ngô Tỉnh Lan, Lý Hoàng, Lý Quang Thứ, số còn lại không truy cứu.

Ngày 18, sau khi vừa ban cái chết cho Hòa Thân, Hoàng đế Gia Khánh lập tức chuyển sự chú ý sang lĩnh vực quân sự, cho gọi thủ lĩnh nghĩa quân Tứ Xuyên, Vương Tam Hòe đến, đích thân thẩm vấn. Hoàng đế Gia Khánh hỏi, vì sao làm phản. Vương Tam Hòe chỉ trả lời bốn chữ: “Quan bức dân phản”. Dù hỏi đi hỏi lại nhiều lần cũng chẳng nói khác. Hoàng đế Gia Khánh hỏi:

- Lẽ nào quan lại Tứ Xuyên chỉ vì lợi ích riêng mà phá hoại kỷ cương phép nước?

- Chỉ có mỗi một vị quan tốt là Lưu Thanh Thiên.

- Lưu Thanh Thiên là ai?

- Đó là Lưu Thanh hiện làm tri đạo Kiến Xương

- Chỉ có mỗi một Lưu Thanh Thiên là quan tốt ư?

- Ngoài Lưu Thanh Thiên, thì phải kể đến ông Triệu Hoa ở huyện Ba, ông Ngô Quế ở huyện Cừ, hai ông này không thể sánh được với Lưu Thanh Thiên, nhưng vẫn là quan tốt, ngoài ra chẳng còn ai nữa.

Hoàng đế Gia Khánh vô cùng cảm kích, lệnh dẫn Vương Tam Hòe về ngục, tạm hoãn hành hình, và lập tức ra chiếu dụ:

“Hơn một trăm năm nay, triều đình yêu thương trăm họ, ban ân cho trăm họ, trăm họ được hưởng thái bình. Nếu không bị ép cực chẳng đã, bị bức bất đắc dĩ, thì làm sao không nghĩ đến tính mạng của gia đình, không nghĩ đến vợ con cha mẹ, mà bước vào chỗ hiểm nguy? Tất cả đều do quan lại bức hiếp cướp đoạt dân chúng để cống nộp cho cấp trên, các quan trên đó lại mang của cải cướp đoạt được dâng cho Hòa Thân. Giờ đây gian tặc đã bị trừng trị, kỷ cương phải nghiêm minh. Mọi việc phải tấu báo lên trên, quan lại các nơi phải liêm khiết, công minh làm theo pháp luật, không được quấy nhiễu dân chúng. Bọn giặc đạo ép dân làm làm phản, khi gặp quan quân chúng xua dân lành đi trước để che đỡ cho chúng, thậm chí cắt tóc rạch mặt họ, đề phòng họ chạy trốn, đến nỗi dân chúng có chạy thoát được cũng không có cơm ăn chỗ ở, dân chúng tiến lùi đều chết, Trẫm vì thế ngày đêm đau lòng nhức óc. Xưa nay chỉ nghe nói đem quân đánh nước thù địch, chứ chưa nghe nói đem quân đánh dân chúng. Bây giờ Trẫm tuyên dụ: những ai bị bắt buộc theo giặc nếu bắt được thủ lĩnh giặc, nộp cho triều đình thì không những được tha tội mà còn được ban thưởng, nếu khi ra trận bỏ trốn hoặc đầu hàng đều được phóng thích cho về quê quán, an cư lạc nghiệp. Dân chúng đã bị ức hiếp đến tột đỉnh, mong muốn an cư lạc nghiệp, Trẫm thiết nghĩ, khi nghe ân chỉ của Trẫm, họ nhất định quy thuận triều đình.

“Các quan lại thanh liêm ở Tứ Xuyên mà Vương Tam Hoè cho biết, ngoài Lưu Thanh, còn có Triệu Hoa ở huyện Ba, Ngô Quế ở huyện Cừ, Trẫm ban thưởng, đề bạt họ theo nguyện vọng của dân chúng. Còn Tri châu châu Đạt là Đái Như Hoàng, ngoài già yếu ốm đau ra, chỉ còn lo chuyện tham ô đê tiện, lấy cớ truy nã bọn giặc đạo, xua 5.000 quân đến khắp nơi lùng sục cưỡng hiếp các nhà giàu có, trong lúc đó lại nhận hối lộ, thả bọn đầu sỏ trộm cướp như Từ Thiên Đức, Vương Học Lễ, khiến dân chúng oán hận. Thường Đan Quỳ ở Vũ Xương, lấy cớ truy nã giặc, giết hại mấy ngàn người vô tội, dùng hình phạt tàn khốc, vơ vét của cải tiền bạc đến nổi khiến Nhiếp Nhân Kiệt đứng lên chống lại, bọn họ đều bị bắt trị tội ngay tức khắc. Nạn nhân không có nơi ăn chốn ở, không có đất ruộng cày cấy, Lặc Bảo và Lưu Thanh hãy xem xét, giải quyết thoả đáng. Phải để các nơi biết được, Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Hồ Bắc biết được ý chỉ của Trẫm, không được sai sót.”.

Chiếu dụ đưa xuống, các quan lại từ trên xuống dưới khắp các địa phương mới biết Hoàng đế Gia Khánh lúc bình thường đã hiểu rõ mọi việc như trong lòng bàn tay. Sau đó, Hoàng đế Gia Khánh giảm bớt quyền hạn của Cục quân cơ, mọi việc quân - chính đều do một mình Hoàng đế quyết định, mọi tấu chương phải được đệ trình Hoàng đế. Hoàng đế Gia Khánh bổ nhiệm thân vương Vĩnh Tinh là đại thần quân cơ, ổn định tình hình.

Chẳng bao lâu, Chu Khuê đến Bắc Kinh, đi thẳng tới điện Vĩnh Trung khóc lóc, Hoảng thượng kéo tay Chu Khuê, khóc nức nở. Bao nhiêu năm Hoàng thượng chịu bao nhiêu nỗi uẩn khúc, nơm nớp lo sợ, giờ đây đã nắm quyền, mọi việc ngổn ngang, bắt đầu như thế nào đây, vừa sốt ruột, vừa lo âu, lòng không yên, giờ thầy đã đến, người mà Hoàng thượng tín nhiệm nhất đã đến, Hoàng thượng sao khỏi nức nở bùi ngùi xót thương?

Gia Khánh lệnh Chu Khuê đến Nam Thư Phòng làm Thượng thư bộ Hộ.

Kiến nghị đầu tiên của Chu Khuê là miễn giảm thuế khoá cho dân chúng, bình ổn vật giá và tâu rằng:

“Viết văn làm thơ chế nhạo triều đình, như chó sủa trăng, Thánh thượng chí công vô tư như vừng dương giữa trưa, có gì mà không thể rộng lượng tha thứ được? Nếu dựa vào câu thơ lời văn mà cho vào tù ngục thì càng có nhiều người dấu kín, chi bằng huỷ bỏ các bài văn bài thơ ấy, đó là cách nút chặt trị thuỷ”. Thế là “án văn tự” chấm dứt bắt đầu từ thời Gia Khánh.

Chu Khuê lại tâu: “Tâu Hoàng thượng, Doãn Tráng Đồ được trong và ngoài triều ca ngợi là cương trực, Tiên hoàng cũng thích tính cương trực đó, vì sao không triệu ông ta về kinh?”.

Doãn Tráng Đồ yết kiến Hoàng đế Gia Khánh, bản tấu đầu tiên được dâng lên là: “Việc cấp bách hiện nay là phải quét sạch Bạch Liên Giáo, nhưng đó không phải là điều cơ bản nhất, cấp bách nhất. Muốn bình định cuộc nổi loạn của đạo này, điều căn bản và cấp bách nhất là chỉnh đốn lại việc cai trị của quan lại ở các tỉnh. Hiện nay các thói hư tật xấu lan rộng, mỗi khi Tổng đốc, Tuần phủ, Ty đạo đi qua các châu huyện trực thuộc, kéo theo hàng trăm người tuỳ tùng, ở chật cả năm sáu nhà khách đòi hỏi cung phụng đủ thứ, các châu huyện lấy cớ bổ vào đầu dân.

Đại thần triều đình mỗi lần đi công tác xuống các tỉnh, các Tổng đốc, tuần phủ, ty đạo đón tiếp suốt ngày không rời một bước, yến tiệc ăn uống liên miên. Đến đâu thì nơi ấy cống nộp lễ vật. Công sở của Tổng đốc, Tuần phủ, Ty đạo trang trí lại, nhà cửa sửa chữa lại, ngay cả xe kiệu, thức ăn cho ngựa, than đun, tất tần tật đều do công quỹ đảm chịu, hoặc do châu huyện lo liệu rồi bổ vào đầu dân chúng. Phủ nha mở tiệc ca hát, tập trung đào kép, mỗi lần yến tiệc chi phí trên cả trăm lạng vàng, thậm chí trong phủ cũng chứa đào kép, tha hồ hưởng lạc. Nếu không tìm ra nguyên nhân của những thói xấu đó thì cuối cùng cũng không thể xoá bỏ được chúng. Những năm gần đây, các thói hư tật xấu đó càng phát triển, lòng người cũng quen dối trá, kẻ dưới muốn được việc phải lấy lòng, nịnh bợ cấp trên, quan trên được quan dưới đón tiếp linh đình thì khoái chí. Tất cả những thứ đó phải kiên quyết chấn chỉnh tận gốc. Nếu quan lại được thanh lọc, giặc phỉ tự nhiên không có, giặc phỉ chẳng qua là bệnh ngoài da, quan lại mới thực là hoạ lớn bên trong, quyết không thể có bệnh mà sợ thầy sợ thuốc”.

Hoàng đế Gia Khánh và Chu Khuê rất tán thành với cách nói “giặc chẳng qua là bệnh ngoài da, quan lại mới thực là hoạ lớn bên trong”. Do đó Hoàng đế Gia Khánh quyết tâm chỉnh đốn cách cai trị của quan lại.

Trước hết, Bố Chánh sứ Hồ Nam, Trịnh Nguyên Thọ bị tóm cổ. Ông ta tác oai tác quái ở Hồ Nam, trong nhà có đến hơn 300 người, nuôi riêng hai phường hát, tiền bạc tham ô nhiều hơn các vì sao trên trời. Bị giết trước tiên.

Tiếp theo tổng đốc Vân - Quý, Phú Cương, tham ô công quỹ, bòn rút của dân, bị xử tử.

Sau đó, Bố Chánh sứ Hồ Bắc phát giác Tri đạo An Tương Vân ở Hồ Bắc là Hồ Tế Sũng đã ăn chặn quân lương, báo cáo khống, lấy tiền biếu xén. Đã tham ô hơn 419 vạn lạng bạc, không phát lương đúng kỳ, tự ý cắt xén 29 ngàn lạng bạc.

Vụ án Hồ Tế Sũng dần dần được bóc trần ra; ở tiền phường, các “tướng nhà họ Hòa” cũng dần dần bị đưa ra xét xử. Vĩnh Bảo nhận của Hồ Tế Sũng 6.000 lạng bạc, của Tất Nguyên 2.000 lạng. Khánh Thành lấy tiền tham ô mua nhà cửa, ruộng đất, cho vay hơn 1 vạn lạng, Ngạc Huy nhận hối lộ 4.000 lạng.

Vĩnh Bảo, Khánh Thành, Ngạc Huy đều bị khám nhà và tịch thu gia sản. Riêng Ngạc Huy đã chết, nên không bị bắt.

Trong khi phát giác vụ án Hồ Tế Sũng, quyền Tổng đốc Tứ Xuyên, Khôi Luân tấu báo, quan chức quân đội Tứ Xuyên đã mưu mô tư túi, thông đồng kéo bè kéo cánh, không phát lương đúng kỳ hạn cho quân lính.

Hoàng đế chỉ dụ: “Trước hết phải xét hỏi đại thần kinh lược Lặc Bảo, sau đó kiểm tra Phúc Ninh, phụ trách tiền bạc. Cơn số quân nhu dùng cho Hồ Bắc không nhiều mà đã xảy ra tệ nạn nghiêm trọng như vậy, huống hồ chi phí quân nhu ở Tứ Xuyên còn lớn hơn gấp mấy lần Hồ Bắc”.

Khôi Luân tố cáo: “Khi Phúc Ninh quản lý quân nhu ở Tứ Xuyên, đã lợi dụng quân đội, ăn chơi vô độ, còn binh lính thì đói meo”.

Phúc Ninh thấy mình bị phát giác, nên kéo Lặc Bảo vào tròng. Phúc Ninh tấu báo: “Lặc Bảo ăn chặn quân lương, mỗi tháng quân lương là mấy vạn lạng, nhiều hơn các lộ quân khác nhưng bọn giặc bị tiêu diệt không tăng mà giảm, đó là do Lặc Bảo lơ là việc dẹp giặc”.

Hoàng đế Gia Khánh cảm thấy áy náy, nếu các lộ quân cứ tiếp tục tố giác tiếp tục trừng trị chẳng khác nào phá tan quân đội? Một lúc tìm đâu ra được nhiều quan tướng, quan chức địa phương: Chẳng bằng khoan dung cho họ, để họ hăng hái lên, diệt giặc lập công, chỉ cần họ biết sai chữa sai, có công được thưởng, nếu vẫn còn phạm tội sẽ nghiêm trị không tha. Nhưng bây giờ cần phải làm rõ vấn đề của Phúc Ninh: Do đó lệnh cho Khôi Luân đến Tứ Xuyên thị sát việc quân, điều tra sự việc, tấu báo về triều đình.

Lặc Bảo đến gặp Khôi Luân nói:

- Hai chúng ta ở Tứ Xuyên khá lâu, quen biết nhau nhiều, kết làm bè bạn, có chuyện gì nên giúp đỡ bảo ban nhau, dẫu sao cũng không nên phá bĩnh nhau.

Khôi Luân, tay cũng dính chàm nên làm sao không hiểu được ẩn ý trong lời nói của Lặc Bảo, nếu Lặc Bảo bị lôi ra, mình cũng bị tố giác, nên nói:

- Đại nhân kinh lược yên tâm, tôi nhất định căn cứ vào sự thật, tấu báo với triều đình.

Sau nhiều ngày điều tra xem xét, Khôi Luân tấu báo với triều đình: “Con số giặc đạo thực tế giảm nhiều, chẳng qua bọn chúng chia ra nhiều nhóm nhỏ, mang rất nhiều tên gọi khác nhau, Phúc Ninh xử lý việc quân nhu, quá lộn xộn, một lúc không thể làm rõ được”.

Hoàng đế Gia Khánh xem bản tấu của Khôi Luân không tìm ra được chứng cứ, Phúc Ninh cũng không có vấn đề gì lớn, không dính líu gì đến vấn đề tài chính. Nhưng không lâu, Phúc Ninh tàn sát giặc đạo đã đầu hàng, Hoàng đế Gia Khánh tức quá, cách chức Phúc Ninh.

Thế là vụ án tham nhũng trong quân đội Tứ Xuyên gác lại. Không vướng víu đến vấn đề quân nhu trước đây và cũng không thể để họ ăn chặn quân nhu từ nay về sau, đồng thời phải cho họ thấy rõ khoan dung là có giới hạn, Hoàn đế Gia Khánh lại ra chỉ dụ:

“Hoà Thân bưng bít sự thật, chuyên trò lừa dối, đại thần cầm quân các lộ được Hòa Thân che chở, giả mạo công tích, ăn chặn quân lương, phần đông không tấu báo sự thật. Cho nên không dễ gì thay đổi tướng soái trong một lúc, vì thiếu người, Lặc Bảo vẫn là Tổng đô thống kiêm đại thần kinh lược, Tổng đốc Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Hồ Bắc, Hà Nam và các đại tướng cầm quân, quyền hành đều bị hạn chế, chỉ được nắm giữ một việc. Minh Lượng, Ngạch Lặc Đăng Bảo đều làm phó đô thống kiêm đại thần tham tán. Ngoài ra quan quân ở các lộ, nếu có ai không tuân quân lệnh, ghi tên trình tấu. Kinh phí, quân lương của Tứ Xuyên, Hồ Bắc hơn 70 triệu lạng, rất lớn, đều do đại thần nội vụ Hòa Thân nắm giữ, bên ngoài Phúc Khang An, Hoà Lâm thì chè chén đàn hát vui chơi, hoang phí tiền bạc của quốc gia, còn quân lính ở các lộ thì chậm được phát lương, thậm chí bụng đói rã rời, chân trần phải lấy da trâu bó lại thay giày hành quân. Tệ nạn này bắt đầu từ Tất Nguyên ở Hồ Bắc, Nghi Miên, Anh Thiện ở Tứ Xuyên. Nay phải điều tra kỹ, không được tái diễn, sẽ bị nghiêm trị”.

Chu Khuê xem chỉ dụ đó, tâu “không thể không nghiêm trị bè đảng Hòa Thân trong quân đội, phải diệt trừ dư đảng của Hòa Thân”. Gia Khánh và Chu Khuê bàn luận hồi lâu rồi ra chỉ dụ:

“Những nơi trước nay Nghi Miên tấu báo đều là những nơi không có giặc, và chưa hề đánh nhau với giặc, nay lại già yếu bệnh tật, lệnh cho thôi việc về kinh. Huệ Linh lâu nay chẳng có công lao gì, nương nhẹ cho giặc, lệnh về kinh ngay chịu tội. Cảnh An là cháu của Hòa Thân, thường ngày a dua nịnh hót, mọi việc tấu báo đều theo sự chỉ dẫn của Hòa Thân, ỷ thế có ô to dù lớn, không ra sức dẹp giặc đóng quân ở Nam Dương mà để cho giặc ở Hồ Bắc xâm phạm Hà Nam, ra quân, chỉ chuyên chạy theo đuối giặc không đám chặn giặc mà đánh, thậm chí được người đời tặng cho biệt hiệu “chuyên gia đưa đón”, dân mang lương thực khao quân cũng từ chối, tướng sĩ đòi đánh giặc chẳng cấp cho họ một tên lính, lại còn chê trách tham tướng Quảng Phúc, bất tài mà được phong tước bá, cướp công của Tri đạo Hoàn Nhan Đại trong việc bắt bọn tà giáo Triết Giang - Tứ Xuyên, mang tội khi quân, hại dân hại nước, bắt giải ngay về kinh trừng trị”.

Theo hai chỉ dụ ấy, ngoài Cảnh An bị nghiêm trị ra, nhiều người khác khỏi bị truy cứu. Có người đã nhìn thấy ẩn ý của Hoàng đế Gia Khánh, sấm to mưa nhỏ, đầu voi đuôi chuột. Chỉ có một số người, không hiểu được ẩn ý của hoàng đế Gia Khánh như đại thần phủ nội vụ, Thượng thư bộ công Na Ngạn Thành.

Na Ngạn Thành, tự là Dịch Đường, cháu của Đại học sĩ A Quế, được bổ nhiệm làm Khâm sai đại thần đến Tứ Xuyên đôn đốc việc quân. Trên đường đi Tứ Xuyên, ông thăm dò điều tra, phát hiện doanh trại bệ rạc, tướng lười lính nhát, bèn giết mấy tên lơ là chức trách, biểu thị phải kiên quyết xoá bó tình trạng thối nát, ai lơ là việc quân sẽ hạ cấp, làm theo quân pháp.

Nghe tin Na Ngạn Thành xử lý như vậy, Hoàng đế Gia Khánh vội vàng chỉ dụ Nga Ngạn Thành: “chấn chỉnh quân kỷ, cần phải thận trọng không nên khinh suất và trách ông ta rằng: kinh lược đại thần cũng không có quyền chém trước tâu sau, huống hồ khanh chỉ là khâm sai đại thần, Trẫm chưa giao cho khanh quyền đó. Nếu khanh điều tra thấy có kẻ lơ là việc quân, dù ở mặt trận hoặc ở quân nhu, dù lính trơn đi nữa, cũng phải tuân theo chỉ dụ, cớ sao tự mình độc đoán?” Thế là, Na Ngạn Thành mất hết phấn khởi.

Chu Khuê tâu tằng: “Hoàng thượng có thể lệnh cho các tướng soái có tội được lập công chuộc tội, thế nhưng họ đều bất tài vô dụng, chỉ độc biết ăn chơi hưởng lạc, nếu nới tay với họ, thực chẳng có lợi cho đất nước.

Giặc đạo, không thể để kéo dài, hơn nữa Hoàng thượng mới cầm quyền, phải thể hiện uy phong nghiêm túc của mình, không được mềm yếu trong việc chỉnh đốn quân đội. Nếu Hoàng thượng thấy trong quân đội không có người, thần xin tiến cử Ngạch Lặc Đăng Bảo, trước là thuộc hạ của dũng tướng Hải Lan Sát. Khi Hồ Tế Sũng bớt xén tiền lương của lính để biếu xén các tướng soái, chỉ có Ngạch Lặc Đăng Bảo từ chối không nhận. Mỗi khi lương thực vận chuyển khó khăn, Ngạch Lặc Đăng Bảo tự lo liệu, chưa hề lấy đó làm khó khăn. Chức kinh lược giao cho người này, thì không lo chuyện giặc đạo ở phương nam”.

Không ngoài dự kiến của Chu Khuê, từ tháng giêng đến tháng 6, quân của Ngạch Lặc Đăng Bảo đã giết được Lãnh Thiên Lộc, quân của Đức Lăng Thái giằng co với Từ Thiên Đức, đánh tận Vân Dương. Quân của Minh Lượng chỉ quanh quẩn trong nội địa Thiểm Tây, chẳng đánh thắng trận nào. Lặc Bảo có phần kiêng nể Hoàng thượng, không dám lừa dối tất cả, nhưng giang sơn thì dễ đổi thay, còn bản tính thì khó chuyển dời, thấy địch thì sợ, tìm cách đùn đẩy, trốn tránh. Nghĩa quân Tứ Xuyên ào ạt tiến vào Hồ Bắc, đông không dưới 2 vạn người, từ phía bắc tiến về Kinh Nhượng, Lặc Bảo chẳng chặn đánh cũng chẳng truy quét, mà lại tìm nơi không địch đóng quân, há miệng chờ sung. Tổng đốc mới của Hồ Quảng là Oa Thập Bố tấu báo tình hình thực tế lên Hoàng thượng. Gia Khánh quyết tâm, bắt Lặc Bảo, và sau đó là Minh Lượng.

Từ đó, Lặc Bảo, Minh Lượng, Vĩnh Bảo, Tần Thừa Ân, Nghi Miên, Khánh Thành, Anh Thiện, Huệ Linh đều bị xử phạt, ra khỏi quân đội và bắt trị tội.

Ngạch Lặc Đăng Bảo nhận ấn tín kinh lược, tình hình quân đội bắt đầu có chuyển biến.

Hoàng đế Gia Khánh xử lý các tướng soái nói trên không phải vì họ tham ô thối nát mà vì yếu kém bất tài về mặt chỉ huy. Gia Khánh mềm tay do dự trừng trị nạn tham những trong quân đội, vì thấy rằng lúc xử lý nạn tham nhũng ở địa phương, ngay khi mới trừng trị Hòa Thân, đã mất đi hơn một nửa lực lượng quan trọng.

Quyền phó đô thống Phú Lâm Bố tâu rằng:

- Xin khám xét, tịch thu toàn bộ tài sản của các quan lại phạm tội, dù lớn nhỏ ở các nơi như Hà Châu, Cam Túc, Đài Loan, Hà Nam, Hồ Bắc; quan lại và quân lính ở kinh, sinh kế khó khăn nghèo khổ, ngày càng thậm tệ; dân chúng không có cơm ăn, e rằng sẽ sinh ra chuyện trộm cướp.

Hoàng đế Gia Khánh tức giận:

- Phú Lâm Bố tâu không có căn cứ, chỉ nói mò, lại xuyên tạc sự thật, phao tin đồn nhảm, mở mồm nói càn, phải cách chức lưu nhiệm, quản thúc chặt chẽ.

Tổng đốc Trực lệ, Hồ Quý Đường tâu:

- Từ năm Càn Long thứ 32 về sau, nợ của nhà nước chưa trả hết, số bạc lên đến 1 triệu 44 vạn lạng; có trên 139 quan chấm mút khoản tiền này. Thần cho rằng, nên bắt giữ và tập trung họ về tỉnh, lệnh cho họ phải bồi thường.

Gia Khánh chỉ dụ:

- Hễ quan chức nào mắc nợ trong thời gian đương chức đều phải hoàn trả. Khoản nợ căn cứ vào con số chênh lệch giữa số bạc thu vào và số bạc còn trong kho. Ai hoàn trả đúng kỳ hạn thì được phục chức, nếu không sẽ bị trừng phạt.

Thực tế, số quan chức địa phương mắc nợ quá nhiều, không thực hiện được theo chỉ dụ.

Bố chánh sứ Hồ Bắc, Tôn Ngọc Đình tấu báo:

- Cần kiểm tra toàn bộ kho tàng trong toàn tỉnh Hồ Bắc, xem thiếu bao nhiều tiền bạc, lương thực. Cách chức và bắt lên tỉnh những quan nợ dưới 1 vạn lạng, buộc họ phải hoàn trả đúng kỳ hạn. Bắt ngay những quan nợ vạn lạng trở lên, buộc phải hoàn trả nếu không sẽ nghiêm trị.

Hoàng đế Gia Khánh thấy diện mắc nợ quá rộng, nên chỉ dụ:

“Việc này không nên tiết lộ cho dân biết”.

Rõ ràng Gia Khánh bao che cho tội phạm tham ô.

Việc của Hồ Bắc vừa làm lấy lệ cho xong, Hoàng đế Gia Khánh lại nhận được một bản tấu đề nghị kiểm tra kho bạc nhà nước, trừng trị quan lại phạm tội.

“Các châu huyện trong tỉnh Sơn Đông thiếu hơn 70 vạn lạng bạc, truy cứu nguyên nhân, có cái thì do các quan khi xuống địa phương làm việc, địa phương phải cung phụng, chiêu đãi, chi tiêu rất lãng phí; có cái thì do trạm dịch phân tán, kinh phí không đủ; có cái do quan tiền nhiệm đã quá cố, bàn giao không rõ ràng, lấy cắp vô tội vạ, cấp dưới bắt chước làm theo, tội đâu có người chịu, chẳng sợ. Hoàng thượng nên quy định thời hạn lệnh cho ai nợ phải đem tiền trả đủ. Phải nghiêm túc chấn chỉnh quan lại”.

Hoàng đế Gia Khánh thấy món nợ quá lớn, liên quan đến rất nhiều quan chức, nên giải quyết thế nào? xử lý thế nào? Vì thế phê vào bản tấu như sau: “Việc này phải từ từ xử lý”.

Có một anh chàng chẳng biết tiến thoái, bỗng dưng xông ra, nhắc lại gia sản của Hòa Thân. Đó là Tát Bân Đồ, đậu tiến sĩ năm Càn Long thứ 45, làm chủ sự bộ Hộ, sau làm viên ngoại lang, rồi học sĩ nội các kiêm phó đô thống. Tát Bân Đồ tâu:

- Tài sản của Hòa Thân quá nhiều, không chỉ có con số đã điều tra ra, nhất định còn chôn dấu, gửi gắm ở đâu đó. Bởi vì khi bộ Hình điều tra, các quan có ý mập mờ, phủ nội vụ, quan thống lĩnh bộ binh có ý bao che, xin Hoàng thượng cử đại thần truy cứu.

Con người này thật thà đến ngây thơ, thấy Hoàng thượng lâu không nhắc nhở đến đề nghị của mình, nên tâu báo một lần nữa:

- Theo nô tài điều tra, Hòa Thân cất dấu vàng bạc trong một cái hầm lớn, hầm này nằm trong khu nhà ở của Hòa Thân. Nô tài có đầy đủ chứng cớ xác thực chứng minh kho bạc của Hòa Thân đều do người tì thiếp Khanh Lân và bốn nữ tì của ông ta quản lý. Tuy Khanh Lân đã tự vẫn nhưng bốn nữ tì kia vẫn còn sống, tên họ của họ nô tài cũng đã điều tra nắm rõ. Họ tên là Hương Liên, Huệ Phương, Lư Bát Nhi và Vân Hương. Xin Hoàng thượng giao họ cho nô tài thẩm vấn. Nô tài bảo đảm sẽ điều tra ra khối vàng bạc của cải.

Tát Bân Đồ tâu đi tâu lại nhiều lần, Hoàng đế Gia Khánh thấy phải làm rõ chuyện này, cử thân vương Vĩnh Lương, thượng thư Bố Ngan Đạt Lại, cùng với Tát Bân Đồ thẩm vấn bốn tì nữ của Hòa Thân. Xét hỏi nhiều lần, vẫn không tìm được chứng cứ, không thấy có tài sản.

Hoàng đế Gia Khánh vô cùng tức giận:

“Tát Bân Đồ quả là không biết điều, cứ kèo nhèo về tài sản của Hòa Thân, chẳng hiểu cái chính thể này, chẳng hiểu cả ý khoan dung của Trẫm. Vụ án Hòa Thân đã kết thúc từ lâu, các đại thần quân cơ và ngay cả Chu Khuê cũng chẳng ai nhắc đến chuyện Hòa Thân cất dấu tài sản với Trẫm, còn ông ta thì ra rả suốt ngày. Trẫm quả thật nghi ngờ về ý đồ của Tát Bân Đồ. Lẽ nào nghi ngờ Trẫm tham ô tài sản của Hoà Thân! Tất Bân Đồ thật là ngông cuồng hết chỗ, vô cùng bỉ ổi! Giao cho bộ Hình xét xử, từ nay về sau tất cả các quan lớn nhỏ không được tấu báo bừa bãi về chuyện tài sản Hoà Thân, không nên chỉ dán mắt vào tài sản Hòa Thân”.

Tát Bân Đồ bị cách chức bãi quan.

Người ta hoàn toàn hiểu được Hoàng đế Gia Khánh sau thất bại của Pháp Thức Thiện như sau:

Vừa mới nắm quyền, Hoàng đế Gia Khánh đã phất cờ “duy tân trị quốc”. Pháp Thức Thiện thấy Hoàng thượng trọng dụng một số hiền thần, trừng trị một số tham quan ô lại, xoá bỏ các vụ án văn tự, chỉnh đốn Cục quân cơ, cách chức một số tướng soái trong quân đội; cấm vương công đại thần và các tuần phủ tổng đốc cống nộp lễ vật, miễn giảm thuế,v.v... Pháp Thức Thiện cho rằng; Hoàng đế muốn triệt để xoá bỏ tệ nạn trước đây, nên tâu báo với Hoàng thượng, mạnh miệng nói chuyện “duy tân”. Quan điểm chủ yếu của Pháp Thức Thiện là:

“ Chiếu chỉ phải được tuân thủ, quân vụ phải nắm thật chặt, tổng đốc tuần phủ làm việc phải nghiêm minh, điều động những người trong bát kỳ không có công ăn việc làm, lắng nghe lời trung thực; tổ chức thi cử chọn người hiền tài”.

Thực ra, lúc này Gia Khánh sợ người ta nói ông đi quá xa, nên nghĩ rằng: “ Ta tiếp tục con đường,đổi mới này có phải là ngông cuồng hay không? Người ta có cho rằng ta đối nghịch với Tiên đế hay không? Duy tân cải cách thế này có hại đến quyền lực của ta không? Làm thế nào đây?”.

Sau khi xem xong tấu chương của Pháp Thức Thiện. Hoàng đế Gia Khánh ngẫm nghĩ: “Trẫm lấy trái tim của Tiên đế làm trái tim của mình, lấy chính sự của Tiên đế làm chính sự của mình, vẫn theo lề lối cũ, còn e chưa bằng, có chỗ nào duy tân đâu?”.

Điều khiến cho Gia Khánh đau đầu là hai đề nghị sau đây của Pháp Thức Thiện: “Quân vụ phải nắm thật chặt”, “Điều động những người trong bát kỳ không có công ăn việc làm”. Nội dung cụ thể của hai kiến nghị này là: “xin cử một thân vương làm đại tướng quân chỉ huy quân đội”; vùng Tây bắc, đất rộng phì nhiêu, có thể cho con em bát kỳ đến đấy canh tác, khai khẩn sản xuất, giảm bớt gánh nặng cho nhà nước.

Vĩnh Tinh phụ trách Cục quân cơ, là kế tạm thời của Hoàng đế Gia Khánh. Lúc ấy Hòa Thân bị giết, Cục quân cơ không người quản lý. Một bộ phận quan trọng như vậy trong giờ phút chuyển giao quyền lực quan trọng, đương nhiên phải có người có đủ tin tưởng chủ trì, vì vậy Gia Khánh cử Vĩnh Tinh làm đại thần quân cơ. Thế nhưng, Gia Khánh không an tâm ngay khi thân vương vừa nhận chức đại thần quân cơ, nếu theo kiến nghị của Pháp Thức Thiện thì phải phong thân vương làm đại tướng quân, Gia Khánh suy nghĩ: “như vậy trong tay ta còn cái gì?” Gia Khánh rút ra từ Càn Long một kinh nghiệm quan trọng nhất là chuyên chế tập quyền. Kiến nghị của Pháp Thức Thiện phải chăng là làm lung lay nền tảng thống trị chuyên chế tập quyền của Hoàng đế Gia Khánh? Do đó sau khi xem bản tấu của Pháp Thức Thiện, Gia Khánh bác bỏ ngay:

“Ngày đầu dựng nước, có thể để cho vương công cầm quân đánh giặc, nay lúc thái bình không cần có chế độ đó. Bởi vì nếu cử thân vương cầm quân, lập được công lao thì làm thế nào phong cao hơn được nữa? Nếu thân vương phạm tội, cứ theo phép nước trừng trị thì sẽ tổn thương đến danh dự hoàng gia; nếu chiếu cố đến thân phận hoàng thân quốc thích, thì lại vứt bỏ pháp luật của triều đình. Pháp Thức Thiện nhìn thấy thân vương đi lại trong Cục quân cơ, biết rõ không có khả năng cầm quân, nên đưa ra kiến nghị trên. Thực ra là muốn thân vương nắm quyền ở Cục quân cơ để dễ bề nịnh bợ lấy lòng thân vương, hoàn toàn chẳng nghĩ đến chính thể quốc gia. Đây chẳng phải là chạy theo tật xấu đó sao?”

Với kiến nghị đưa người bát kỳ ra khỏi kinh thành để khai khẩn sản xuất, Hoàng đế Gia Khánh giận dữ nói: “Nếu thực hiện theo bản tấu, kinh thành sẽ trống rỗng! Đây thật quá sức ngông cuồng!”.

Sau đó Hoàng đế Giá Khánh lại phê phán Pháp Thức Thiện làm hại thanh danh, tham ô hủ hoá, giáng chức và cho ông làm biên tu.

Học sĩ nội các Doãn Tráng Đồ thấy mình được trọng dụng, nên đưa ra kiến nghị, phải thanh tra khảo sát các quy định của các tỉnh. Hoàng đế Gia Khánh nói: “một số quy định không thể xoá bỏ được, kiến nghị của Doãn Tráng Đồ không phù hợp với chính thể”.

Sau đó Doãn Tráng Đồ cứ lải nhải tâu trình, đề nghị, Hoàng đế Gia Khánh bực quá, cách chức cho về quê con người có tiếng ngay thẳng trung thực này.

Đã không lo tiến thủ về chính trị, Gia Khánh lại bắt đầu hưởng lạc.

Theo quy định của triều Thanh, con gái bát kỳ đến 13 tuổi phải tuyển vào cung, những cô gái đẹp được Hoàng đế chọn, sẽ làm phi tần, còn lại làm cung nữ. Tháng 2, mặc dù vẫn còn trong thời kỳ để tang, nhưng Gia Khánh vẫn tiến hành chọn gái đẹp trong bát kỳ, tháng 8 thì chọn con gái Tam Kỳ Bao Y (nô tỳ). Con gái của Lang Trung bộ Hình, Đạt Trọng A không đưa vào cung để Hoàng thượng “chọn người đẹp” mà lại giả cho người khác. Hoàng đế Gia Khánh biết được rất tức giận, quở trách Đạt Trung A khi quân, đồng thời chỉ dụ, sau khi dự tuyển mỹ nữ trong cung, con gái bát kỳ và tam kỳ bao y mới được phép gả cho người khác.

Trước cảnh muốn làm gì thì làm của Gia Khánh, Hồng Lượng Cát xót xa phiền não.

Hồng Lượng Cát đã về nhà nghỉ được một năm Tháng 2 năm Gia Khánh thứ 4, ông ở tại quê nhà Thường Châu nghe tin Càn Long băng hà, liền đi cùng với một người hầu thẳng đến kinh sư. Ông có làm một bài thơ:

Hôm qua để tang nhà.

Hôm nay để quốc tang.

Gian khổ đâu dám than,

Lệ sao cứ tuôn tràn.

Gạt lệ lên phương bắc,

Bước đi trong gió tuyết.

Ngày 3 tháng 8 Hồng Lượng Cát đến kinh sư vào điện Quan Đức dự lễ tang, khóc thương khôn xiết. Tháng 4, Hồng Lượng Cát được bở nhiệm làm biên tu Thực lục quán, đồng thời được cử làm quan giám khảo khoa thi hội năm Kỷ Mùi, quan nhận quyển thi cuộc thi điện, tháng 5, phụng chỉ làm thứ cát sĩ khoa Kỷ Mùi.

Con đường công danh của Hồng Lượng Cát thuận buồm xuôi gió, cứ thế mà đi, tiền đồ rộng mở. Bởi vì những người như Chu Khuê, Vương Kiệt, Lưu Dung là những đại thần tin cậy nhất của Hoàng thượng là những đại thần đầy quyền lực nhất, đều là thầy của Hồng Lượng Cát, là bạn lâu năm của Hồng Lượng Cát. Ngay từ thời Càn Long, Hồng Lượng Cát đã được các vị trên coi trọng, chí đồng đạo hợp. Sau khi Gia Khánh cầm quyền, Chu Khuê đã nhiều lần tiến cử ông với Hoàng thượng, rõ ràng Hồng Lượng Cát sắp lên tận mây xanh.

Thế nhưng, Hồng Lượng Cát, lòng ngổn ngang phiền muộn, ông thường cùng Pháp Thức Thiện, v.v... bàn chuyện quốc gia, chân thực, khảng khái. Họ đều cho rằng, con đường để đất nước tiến lên giàu mạnh là đổi mới, tiêu diệt mọi tệ nạn, nhất là sự thối nát của quan lại. Hồng Lượng Cát lo nghĩ cho tiền đồ của đất nước, nhân lúc trăng trong gió mát, hứng chí làm bài thơ:

May còn bạn đồng chí,

Lòng dạ đầy chí khí.

Cùng nhau bàn thế sự,

Vui mừng hay buồn đây!

Hồng Lượng Cát và “bạn đồng chí” nhìn thấy, ngày nay và trước đây chẳng có gì thay đổi. Các quan lớn ở triều đình các quan to ở địa phương, đều là những kẻ tham chức tham tiền, chẳng vì dân, chỉ vì quan và tiền, táng tận lương tâm. Hồng Lượng Cát làm bài thơ sau:

Ngàn vàng xây đình đài,

Trăm vàng mua bức tranh,

Ông trời đành chịu thôi

Chẳng lẽ đập tan tành,

Cổng trước săn bắt tin,

Cổng sau đưa hối lộ,

Tường dày không dấu nổi,

Cất vàng dưới hầm sâu.

Chủ nhân đã thay rồi,

Nhà kia vẫn cứ thế.

Giữa xuân én bay về,

Ríu rít như ngày xưa.

Hồng Lượng Cát rơi vào cảnh cực kỳ sầu não. Cái đau lòng nhất của ông là, những người thầy của ông, những thần tượng được ông sùng bái trước đây, cũng chỉ vì quan cao lộc hậu của mình mà mắt nhắm mắt mở, giả câm giả điếc, lo cho phận mình mà thôi.

Hồng Lượng Cát chua xót ngẫm nghĩ. Ta sẽ đi đâu về đâu? chỉ cần ta im lặng thì con đường hoan lộ của ta sẽ xuôi chèo mát mái, nhưng như thế ta còn là Hồng Lượng Cát nữa không? Nếu ta nói với Hoàng thượng, ta không những đối mặt với một Hoàng đế mà là với cái xã hội thối nát này. Tuy có người phê phán tham quan ô lại hại nước hại dân, căm ghét bọn quan lại tham nhũng, nhưng nếu bạn hô hào, dấn thân vào cuộc chiến đấu, thì họ lại chẳng thèm đứng lên giúp sức, họ rụt đầu rụt cổ lại, thậm chí còn cười nhạo bạn, nói bạn khoe tài, mắc bệnh tâm thần. Bọn quan lại thối nát đó, càng ti tiện, độc ác. Họ là những kẻ sống gửi, là bọn lười nhác, nhưng có ai chỉ trích họ, họ sẽ trở nên tàn bạo khó tưởng. Nếu ta nói thẳng, tất sẽ đi đến một kết cục đáng buồn, đó là tất nhiên, người ta sẽ mắng chửi ta là thằng ngu, thằng dại, thằng khùng.

Trở về quê cũ, sống cuộc đời thanh nhàn, sống cuộc đời siêu thoát thế sự, ý nghĩ đó choán hết tâm trí của ông. Ông đệ đơn từ quan, chuẩn bị ngày 2 tháng 9 sẽ về quê ở phương nam.

Sau khi được chuẩn y về quê. Suốt một tháng trời ăn ngủ không yên.

Ngày 13 tháng 8, sau bao nhiêu ngày suy nghĩ, trăn trở, cuối cùng Hồng Lượng Cát quyết định gửi lên Hoàng thượng bản can gián. Hôm đó, ông viết một bản can gián, sau này gọi là “Thiên ngôn thư”, sao chép thành ba bản một gửi cho ân sư Chu Khuê, một gửi cho ân sư Lưu Quyền Chi, một gửi cho thân vương Vĩnh Tinh là bạn thơ lâu năm của ông.

Hồng Lượng Cát đưa bản gốc “Thiên ngôn thư” cho người con trưởng là Dĩ Tôn xem, và nói với cậu con, đại họa sắp giáng xuống đầu. Sau đó gặp gỡ các bạn tri kỷ, từ biệt. Mọi người đều kinh ngạc, cho rằng đây là lần vĩnh biệt cuối cùng.

Nhận được bản can gián của Hồng Lượng Cát, Chu Khuê và Lưu Quyền Chi sợ run cầm cập, mất cả hồn vía, và cứ ngỡ rằng Hồng Lượng Cát chỉ gửi cho mỗi mình mình thôi, nên dấu đi không báo, sợ liên lụy, mang hoạ vào thân. Thành thân vương Vĩnh Tinh thấy không thể để lâu được, ngày 25 tháng 8 đệ trình “Thiên ngôn thư” lên Hoàng đế Gia Khánh. Hoàng đế Gia Khánh nổi giận, lập tức lệnh cho nội các ra chỉ dụ:

“Nội các phụng chỉ dụ: Hôm nay đại thần quân cơ tâu trình thư của biên tu Hồng Lượng Cát gửi Thành thân vương. Trẫm đích thân phê duyệt, những điều nói trong thư không có chứng cứ cụ thể, lời lẽ lộn xộn, ngông cuồng. Giao cho đại thần quân cơ truyền cho Hồng Lượng Cát đưa ra chứng cứ cụ thể theo tình tiết trong thư”.

Đây là một chỉ dụ thêu dệt thêm tội lỗi. Gia Khánh công khai nói rằng, những điều Hồng Lượng Cát nêu ra đều không có căn cứ, lời lẽ lộn xộn ngông cuồng, vậy sao lại bảo Hồng Lượng Cát đưa ra chứng cứ cụ thể đó mới là giả dối.

Chỉ dụ thứ nhất vừa phát đi, lại phát thêm chỉ dụ nữa, cách chức Hồng Lượng Cát, chuyển giao ông cho bộ Hình, đại thần quân cơ cùng với bộ Hình thẩm vấn, và tấu báo tỉ mỉ kết quả cuộc thẩm vấn. Hồng Lượng Cát bị giam vào nhà ngục bộ Hình.

Ngày 26 trống canh tư vừa điểm, Hồng Lượng Cát bị giải đến nha môn Đô Tư Ngu, ngoài Tây Hoa Môn, do đại thần quân cơ đồng thẩm vấn. Thẩm vấn xong, chiếu theo luật “đại bất kính” bị xử trảm. Người bị xử trảm đã sẵn sàng. Bạn bè thân hữu đồng liêu nghe tin đều đến vĩnh biệt. Nhiều người ôm Hồng Lượng Cát khóc than. Hồng Lượng Cát cười nói: “Có gì mà phải xót thương, trượng phu tin chắc đầu mình vững, nguyện để triều đình thử một đao”.

Thành thân vương Vĩnh Tinh một mặt định tội “đại bất kính” cho Hồng Lượng Cát, một mặt lại tâu rằng: “Lượng Cát tự xưng là quan nhỏ cổ hủ, hồ đồ về chính trị, thực ra chưa kịp hối cải, chỉ mong trị tội thật nặng”. Gia Khánh lại xem cái bản tấu khác, chẳng thấy có chỗ nào phản nghịch, nên giảm nhẹ hình phạt cho Hồng Lượng Cát, không xử chém, đày đi Y Lê. Gia Khánh lại ban một chỉ dụ dài bác bỏ những điều Hồng Lượng Cát nêu ra, trong đó có mấy câu dưới đây làm chấn động cả trong và ngoài triều đình, khiến các nhân sĩ chẳng dám tuỳ tiện bàn việc chính trị:

“Hiện nay có thói quen bàn luận những việc không căn cứ, hoặc có những bài thơ bài văn ngông cuồng, khiến lòng người xôn xao, không thể không trừng trị răn đe, lẽ nào trong thời kỳ cực thịnh của bản triều lại có những việc xấu xa như vậy!”

Từ đó con đường ngôn luận bị vít lối, cải cách thành ảo ảnh. Vương triều Đại Thanh một thời huy hoàng, bắt đầu đi vào con đường mất nước...