CHẠY TRỐN ◄ 1 ►
Ba tuần trôi qua.
Luke ăn, ngủ, thức dậy, rồi lại ăn. Cậu đã sớm thuộc nằm lòng tờ thực đơn, và tham gia vào việc vỗ tay mỉa mai cùng những đứa trẻ khác khi có món gì đó được thay đổi. Một số hôm sẽ có những bài thử nghiệm. Một số hôm sẽ có những mũi tiêm. Một số hôm thì có cả hai. Một số hôm lại chẳng có gì. Một vài mũi tiêm làm cậu bị bệnh. Nhưng hầu hết thì không, cổ họng cậu không còn bị tắc nghẽn nữa, điều này khiến cậu cảm thấy rất biết ơn. Cậu chơi ngoài sân. Cậu xem ti vi, làm bạn với Oprah, Ellen, bác sĩ Phil và thẩm phán Judy. Cậu xem video trên YouTube về những chú mèo tự ngắm nhìn bản thân mình trong gương và những chú chó đuổi bắt những chiếc đĩa nhựa. Đôi lúc cậu xem một mình, đôi lúc xem cùng một vài đứa trẻ khác. Khi Harry bước vào trong phòng cậu, cặp song sinh cũng đi theo và đòi xem hoạt hình. Khi Luke đến phòng Harry, cặp song sinh gần như luôn ở đó. Harry không quan tâm đến phim hoạt hình lắm. Cậu ta rất mê những video về đấu vật, đấm bốc hay giải đua xe đạp NASCAR. Lời chào thông thường của cậu ấy với Luke là “Lại đây xem cái này đi.” Cặp song sinh mê mẩn với việc tô vẽ, nên các hộ tá đã chồng chất trong này hàng đống quyển sách tập tô màu. Thường thì chúng tô đúng đường thẳng nét, nhưng có một ngày thì không, và chúng cười rất nhiều, Luke cho rằng hai cô bé đang say rượu hoặc phê thuốc. Khi cậu hỏi Harry, cậu ta nói rằng chúng chỉ muốn thử thôi. Cậu ấy có vẻ xấu hổ, và khi chúng nôn mửa (cùng một lúc, cũng giống như khi chúng làm mọi thứ khác), cậu ấy trông càng có vẻ xấu hổ hơn. Và cậu ta dọn dẹp đống hỗn độn đó. Một ngày nọ, Helen lộn ba vòng trên tấm bạt lò xo, bật cười, cúi đầu, rồi òa khóc và không được an ủi. Khi Luke cố gắng an ủi, cô ấy đánh cậu bằng những cú đấm nhỏ của mình, thịch-thịch-thịch-thịch. Trong một khoảng thời gian Luke đã đánh bại tất cả những đối thủ chơi cờ vua với mình, và khi điều này trở nên nhàm chán, cậu tìm mọi cách để thua, làm thế hóa ra lại thật sự khó đối với cậu.
Luke cảm thấy mình vẫn như đang ngủ kể cả khi thức dậy. Cậu cảm thấy IQ của bản thân suy giảm, hoàn toàn cảm nhận được điều đó, giống như dòng nước chảy khỏi máy làm mát khi ai đó để vòi mở. Cậu đánh dấu thời điểm mùa hè kỳ lạ này với thanh công cụ ngày tháng trên máy tính. Ngoài những video trên YouTube, cậu chỉ sử dụng máy tính của mình - với một ngoại lệ quan trọng - để nhắn tin với George hay Helen khi họ ở trong phòng của họ. Cậu không bao giờ bắt đầu nhắn tin trước, và luôn giữ cuộc trò chuyện ngắn gọn nhất có thể.
Chuyện quái quỷ gì xảy ra với cậu vậy? Một lần Helen gửi tin nhắn.
Không có gì, cậu nhắn lại.
Tại sao chúng mình vẫn còn ở Khu nửa trước, cậu nghĩ thế nào? George gõ. Không phải là tớ phàn nàn gì đâu.
Không biết, Luke trả lời, và thoát ra.
Cậu phát hiện rằng không khó để che giấu nỗi buồn của mình với những hộ tá, kỹ thuật viên và bác sĩ; họ đã quá quen với việc phải đối mặt với những đứa trẻ bị trầm cảm. Tuy nhiên, ngay cả trong nỗi buồn sâu sắc của mình, cậu đôi lúc cũng nghĩ về hình ảnh tươi sáng mà Avery đã chiếu: một con chim hoàng yến bay ra khỏi lồng.
Sự mộng du trong nỗi buồn của cậu đôi khi bị xuyên thủng bởi những lát cắt ký ức rực rỡ luôn xuất hiện một cách bất ngờ: bố cậu cầm vòi tưới cây xịt nước vào cậu, bố cậu thực hiện cú ném phạt khi đứng quay lưng lại cột bóng rổ và Luke sẽ bổ nhào vào ông khi bóng vào rổ, rồi cả hai cùng ngã xuống cỏ, cười vang; mẹ cậu mang đến một chiếc bánh cupcake khổng lồ cắm đầy những cây nến đang cháy, đặt bánh lên bàn vào ngày sinh nhật tuổi mười hai của cậu; mẹ ôm cậu và nói Con trai của mẹ ngày càng lớn rồi; bố mẹ cậu nhảy múa điên cuồng trong bếp khi phát bài “Pon de Replay” của Rihanna. Những ký ức này thật đẹp, nhưng cũng đau nhói tựa những cây tầm ma.
Khi Luke không nghĩ về cặp vợ chồng bị sát hại ở Falcon Heights - đúng hơn là mơ về họ - cậu nghĩ về chiếc lồng mà mình đang bị nhốt bên trong và khao khát được trở thành một chú chim tự do. Đó là những lúc duy nhất cậu lấy lại được sự tập trung và nhạy bén trong tâm trí như trước đây. Cậu để ý đến nhiều thứ mà dường như khẳng định niềm tin của cậu, rằng Học Viện đang vận hành với cái cách hời hợt theo quán tính, giống như tên lửa tắt động cơ khi đạt đến vận tốc thoát ly [81] . Những chụp camera bằng kính đen trên trần nhà chẳng hạn. Hầu hết đều bám đầy bụi, như thể đã lâu không được lau chùi. Điều này đặc biệt đúng trong Chái nhà Phía đông của tầng phòng ở. Camera trong những cái chụp đó vẫn hoạt động, nhưng hình ảnh của nó hẳn là mờ tịt. Mặc dù vậy, dường như không có bất cứ mệnh lệnh nào yêu cầu Fred và những đồng nghiệp tạp vụ của ông ta - Mort, Connie, Jawed - lau sạch chúng, điều này có nghĩa dù có là ai đang giám sát hành lang đi chăng nữa thì người đó cũng không thèm quan tâm nếu khung hình trở nên ảm đạm mờ mịt.
Luke tiếp tục chuỗi ngày của mình với tâm thế cam chịu, làm theo những gì được bảo mà không hề phản kháng, nhưng khi cậu không dật dờ trong căn phòng của mình, cậu trở thành một chiếc bình chứa bé nhỏ với hai bên quai cầm lớn [82] . Hầu hết những gì cậu nghe được đều vô dụng, nhưng dù sao cậu vẫn tiếp thu tất cả. Tiếp thu và ghi nhớ. Những chuyện tầm phào chẳng hạn. Như chuyện bác sĩ Evans theo đuổi bác sĩ Richardson, cố gắng bắt chuyện, và ông ta đã giật-nảy-như-mèo (cụm từ này của hộ tá Norma) khi biết rằng Felicia Richardson sẽ không đời nào chạm vào mình dù bằng một cây sào dài ba mét. Hay như chuyện Joe với hai người hộ tá khác, Chad và Gary, thỉnh thoảng dùng các mã thừa mà không phát cho lũ trẻ, để lấy những chai rượu bỏ túi và những chai Hard Lemonade nhỏ từ máy bán hàng tự động ở khu vực phòng chờ phía tây. Đôi khi họ nói chuyện về gia đình của mình, hay uống ở một quán bar có tên là Outlaw Country, nơi có những ban nhạc biểu diễn. “Nếu cô muốn gọi đó là âm nhạc”, Luke tình cờ nghe thấy một hộ tá tên là Sherry nói vậy với Gladys Cười Giả Tạo. Quán bar này, được các hộ tá và những kỹ thuật viên nam gọi là The Cunt, nằm trong một thị trấn gọi là Khúc Sông Dennison. Luke không biết rõ thị trấn ấy cách Học Viện bao xa, nhưng chắc chắn rằng không quá bốn mươi cây số, xa đến năm mươi cây là cùng, bởi vì bọn họ dường như đều tới đó mỗi khi có thời gian nghỉ.
Luke ghi nhớ kỹ những cái tên mình nghe được. Bác sĩ Evans tên thật là Jim, bác sĩ Hendricks tên thật là Dan, Tony là Fizzale, Gladys là Hickson và Zeke là Ionidis. Nếu cậu thoát ra khỏi đây, nếu con chim hoàng yến bay ra khỏi cái lồng của nó, cậu hy vọng mình sẽ có một danh sách để làm bằng chứng chống lại những tên khốn này trước tòa án. Cậu nhận ra đây có thể chỉ là một ảo mộng, nhưng điều đó giữ cho cậu tiếp tục kiên trì.
Cậu đang bước qua chuỗi ngày hiện tại như một cậu bé ngoan, cậu đôi khi bị bỏ lại một mình dưới tầng C trong một khoảng thời gian ngắn, luôn kèm theo lời nhắc nhở hãy ở yên một chỗ. Cậu gật đầu, cho kỹ thuật viên chút thời gian đi làm việc riêng của họ và bỏ mặc cậu một mình. Có rất nhiều camera ở các tầng thấp hơn, tất cả đều được giữ gìn tốt và sạch sẽ, nhưng không có một còi báo động nào kêu lên và không có hộ tá nào ập vào từ ngoài hành lang và vung vẩy cây dùi cui điện. Đã hai lần cậu bị phát hiện khi đi bộ xung quanh và được đưa về, một lần với tiếng trách mắng và một lần với một cú đánh chiếu lệ vào sau gáy.
Trong một lần thám hiểm (cậu luôn cố tỏ vẻ nhàm chán và không có mục đích, như một đứa trẻ chỉ đang giết thời gian trong khi chờ đến bài thử nghiệm tiếp theo hay được cho phép quay trở lại phòng của mình), Luke tìm thấy một kho báu. Trong phòng chụp cộng hưởng từ, không ai sử dụng ngày hôm đó, cậu phát hiện một tấm thẻ được sử dụng để vận hành thang máy đang nằm lấp ló dưới màn hình máy tính. Cậu đi ngang qua chiếc bàn, nhặt thẻ lên và nhét nó vào túi trong khi cậu nhìn vào lồng chụp cộng hưởng từ trống rỗng. Cậu gần như nghĩ rằng tấm thẻ sẽ bắt đầu hét toáng “Trộm, trộm” khi cậu bước ra khỏi phòng (giống như cây đàn hạc ma thuật mà cậu bé hạt đậu Jack đã lấy trộm từ người khổng lồ), nhưng không có gì xảy ra cả, kể cả sau đó và sau đó nữa. Họ không theo dõi những tấm thẻ này sao? Hình như là không. Hoặc có lẽ tấm thẻ đã hết hạn, vô dụng như tấm thẻ khóa từ của khách sạn khi nó được mã hóa trên máy tính lúc khách trả phòng.
Nhưng khi Luke thử tấm thẻ đó ở thang máy vào ngày hôm sau, cậu rất vui sướng phát hiện ra là nó vẫn hoạt động. Bác sĩ Richardson đi ngang qua cậu vào ngày hôm sau nữa, khi cậu đang lén lút nhìn vào căn phòng tầng D có chứa bể ngâm, cậu cho rằng mình sẽ bị phạt - có thể là một cú giật điện từ cây dùi cui điện mà cô ta giữ dưới lớp áo trắng thường mặc, hay có thể là một cú đánh từ Tony hoặc Zeke. Nhưng thay vào đó, cô ta lại dúi cho cậu một mã, cậu cảm ơn.
“Cháu vẫn chưa phải thử nghiệm với cái kia”, Luke nói, chỉ vào bể ngâm. “Nó có tệ không ạ?”
“Không hề, thú vị lắm”, cô ta trả lời,và Luke đáp lại với một nụ cười toe toét, như thể cậu thực sự tin những lời nhảm nhí ấy. “Nào, bây giờ cậu đang làm gì ở đây?”
“Cháu đang tìm một hộ tá. Cháu không biết rõ là ai. Chắc là anh ấy quên không đeo thẻ tên của mình.”
“Tốt lắm”, cô ta nói. “Nếu cậu biết tên anh ta, tôi sẽ phải báo cáo lại, và anh ta sẽ gặp rắc rối. Rồi sau đó? Giấy tờ, giấy tờ, giấy tờ.” Cô ta tròn mắt và Luke nhìn lại tỏ ý cháu đồng cảm. Cô ta đưa cậu đến thang máy, hỏi xem đáng lẽ ra cậu phải ở đâu, và cậu nói rằng cậu ở tầng B. Cô ta đi lên cùng cậu, hỏi cậu có còn đau không, cậu nói rằng mình không sao, hoàn toàn ổn.
Tấm thẻ cũng đưa cậu đến tầng E, nơi có rất nhiều thứ máy móc rác rưởi, nhưng khi cậu cố gắng đi xuống tầng thấp hơn - có tầng thấp hơn, cậu đã nghe được những cuộc nói chuyện về tầng F và tầng G - Cô Nàng Giọng Nói Thang Máy vui vẻ thông báo cho cậu rằng truy cập bị từ chối. Nhưng không sao. Bạn chỉ biết khi đã thử.
Không có bài kiểm tra giấy nào ở Khu nửa trước, nhưng có rất nhiều bài đo điện não đồ. Bác sĩ Evans đôi khi đo cả đám trẻ một lúc, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Một lần, khi Luke đang bị kiểm tra một mình, bác sĩ Evans đột nhiên nhăn mặt, ôm bụng và nói rằng sẽ quay lại ngay. Gã ta dặn Luke không được chạm tay vào bất cứ thứ gì và lao ra ngoài. Chắc là đi vệ sinh, Luke đoán vậy.
Cậu kiểm tra màn hình máy tính, lướt ngón tay qua một vài phím, định gõ loạn lên một chút, nhưng rồi quyết định rằng đó là một ý tưởng tồi tệ, và thay vào đó, cậu đi đến phía cửa. Cậu nhìn ra ngoài đúng lúc thang máy mở ra, một gã đầu hói to béo bước ra, vẫn mặc bộ đồ màu nâu trông có vẻ đắt tiền của gã. Hoặc có thể là một bộ khác. Tất cả những gì Luke biết là, Stackhouse có cả một tủ áo đầy những bộ đồ màu nâu đắt tiền. Hắn cầm một tập giấy tờ trên tay. Hắn bắt đầu đi xuống hành lang, xáo tung đống giấy, và Luke nhanh chóng lùi về. C-4, căn phòng với những thiết bị đo điện não đồ và điện tâm đồ, có một hốc nhỏ trong tường để cất dụng cụ, nằm thẳng hàng với những cái kệ chứa đầy các vật dụng khác nhau. Luke trốn vào bên trong cái hốc đó mà không biết liệu việc ẩn nấp này chỉ là vì cậu có một linh cảm thông thường, là do một trong những sóng não của khả năng TP mới của cậu, hay đơn thuần là vì một sự hoang tưởng. Dù gì, cậu cũng vừa kịp nấp thì Stackhouse thò đầu vào, ngó nghiêng xung quanh, sau đó rời đi. Luke đợi để biết chắc rằng hắn ta sẽ không quay trở lại, rồi sau đó mới trở về chỗ ngồi của cậu bên cạnh máy đo điện não đồ.
Hai hay ba phút sau, Evans vội vã bước vào với chiếc áo thí nghiệm trắng đang bay phấp phới phía sau lưng. Má ông ta ửng đỏ và đôi mắt mở to. Ông ta túm lấy áo Luke. “Nói đi! Stackhouse đã nói gì khi thấy cậu ở đây một mình?”
“Ông ấy không nói gì cả vì ông ấy không nhìn thấy cháu. Cháu đứng chờ ở cửa, và khi Stackhouse bước ra từ thang máy, cháu đã trốn vào đó.” Cậu chỉ tay về phía cái hốc đựng dụng cụ, sau đó ngước nhìn Evans bằng đôi mắt ngây thơ, mở to. “Cháu không muốn gây rắc rối gì cho chú.”
“Ngoan lắm”, Evans nói, và vỗ vào lưng cậu. “Tôi muốn đi vệ sinh, và tôi cảm thấy hoàn toàn có thể tin tưởng cậu. Bây giờ chúng ta sẽ hoàn tất bài kiểm tra này chứ? Sau đó cậu có thể lên tầng và chơi với bạn của mình.”
Trước khi gọi Yolanda, một người hộ tá khác (họ là Freeman) để đưa cậu trở về tầng A, Evans đưa cho Luke hơn chục cái mã và một phát vỗ lưng nồng nhiệt khác. “Đây là bí mật của riêng chúng ta, được chứ?”
“Chắc chắn rồi ạ”, Luke nói.
Gã ta thực sự nghĩ rằng mình ưa hắn, Luke thấy ngạc nhiên. Thấy cú trả đũa đó thế nào? Hãy chờ tới lúc tôi nói với George nữa.