Chương 18
Sở Cảnh sát Trung tâm của vùng Kasr-el-Nil giống với một tòa lâu đài không được chăm chút của một tù trưởng quá cố. Được bảo vệ bởi những hàng rào cao màu đen, mặt tiền sẫm màu của nó nhìn ra một khu vườn, nơi chen chúc lẫn lộn những cây cọ và những chiếc xe cảnh sát trông chẳng khác nào xe tải nhỏ của những người bán rau. Chỉ những xe khổ lớn có đèn hiệu màu xanh, những chiếc xe hai tấn, là có sự khác biệt. Trước một loạt bậc thang, sáu lính gác - sơ mi trắng ngắn tay, mũ kê pi có huy hiệu là một con đại bàng dập nổi trên lá quốc kỳ, súng trường MISR đeo chéo qua vai - đập mép bàn tay lên ngực trước sự xuất hiện của một người đàn ông mập mạp, đạo mạo với ba ngôi sao gắn trên mấy cái vạch ở cầu vai.
Hassan Noureddine chống những ngón tay chuối mắn lên hông và khịt mũi hít thứ không khí sặc mùi khí thải và bụi bặm. Ria mép mỏng đen nhánh, đôi mắt sẫm màu giống như hai quả chà là chín nẫu bên dưới đôi lông mày rậm, hai má đầy nốt rỗ. Ông ta chờ cho Sharko và Nahed Sayyed đến ngang tầm mình rồi mới chào hai người họ. Ông ta lịch sự bắt tay đồng cấp người Pháp, thậm chí còn bồi thêm một câu “Hoan nghênh” đầy uể oải. Ông ta chủ yếu quan tâm đến cô gái trẻ, và trao đổi với cô vài lời bằng tiếng Ả rập. Cô gái nghiêng người về phía trước kèm theo nụ cười đầy gượng gạo. Rồi Noureddine quay người đi, phần thân trên thẳng đơ, chui vào bên trong tòa nhà. Sharko trao đổi với Nahed một ánh mắt thay cho mọi lời bình luận.
Trong tiền sảnh mênh mông rải rác các phòng chức năng, những cầu thang có cảnh sát canh gác dẫn xuống một tầng hầm. Tiếng ầm ĩ trỗi dậy, những bài hát Ả rập, những bài kinh cầu nguyện được các phụ nữ đồng thanh cất lên. Sharko đập nát một con muỗi đậu trên cẳng tay. Con thứ năm, mặc dù anh đã trát lên người cả tấn kem. Lũ sâu bọ này có mặt ở khắp nơi và dường như đã miễn nhiễm trước mọi hình thức phòng vệ.
- Những người phụ nữ đó hát gì vậy?
- “Ngục tù không làm gì được tư tưởng”, Nahed thì thầm. Họ là các nữ sinh viên. Họ phản đối việc cấm tổ chức Anh em Hồi giáo ra ứng cử.
Sharko phát hiện ra một ngành cảnh sát hiện đại với đầy đủ các trang thiết bị - máy vi tính, Internet, chuyên môn hóa về mặt kỹ thuật chẳng hạn như xây dựng chân dung phác thảo - nhưng dường như vẫn hoạt động theo lối cũ. Những người đàn ông và những người phụ nữ - đa số đeo mạng che mặt - đang đứng chờ thành từng nhóm trong tiền sảnh, những cánh cửa văn phòng mở ra như ở các phòng khám của bác sĩ, và ai nhanh chân nhất - khái niệm “xếp hàng” không tồn tại - sẽ là người đầu tiên qua cửa.
Sharko và nữ phiên dịch phải bỏ lại điện thoại di động - để tránh việc chụp ảnh hoặc ghi âm các cuộc trò chuyện - rồi đến một văn phòng có thể sánh với một phòng trong cung điện Versailles. Sự quá khổ ngự trị ở đây. Sàn nhà bằng đá cẩm thạch, bình di hài và bình từ thời Crete cổ đại, trướng có hình vẽ, tượng đồng mạ vàng. Một chiếc quạt khổng lồ quay trên trần, khuấy đảo thứ không khí dính dớp. Sharko thầm mỉm cười. Di sản quốc gia, mọi thứ đều thuộc về nhà nước chứ không thuộc về nhân vật béo tốt kiêu căng vừa nặng nề ngồi vào ghế vừa rít một điếu xì gà địa phương. Nếu đa số người Cairo to béo một cách duyên dáng, thì gã này không thuộc trường hợp đó.
Người đàn ông Ai Cập xòe hai bàn tay để ngửa về phía hai chiếc ghế tựa, chỗ ngồi của Sharko và Nahed, cô vừa lấy ra một cuốn sổ nhỏ và một cái bút. Cô mặc váy dài bằng vải kaki, và áo cánh đồng bộ để lộ đôi chút phần gáy rám nắng. Viên chánh thanh tra công khai ngắm cô, bằng đôi mắt to thô lố như mắt lợn. Ở đây, người ta thích tỏ ra là mình ưa chuộng phụ nữ, trái ngược với ngoài phố, nơi những tiếng suỵt, suỵt đầy xúc phạm lan ra ngay khi một loài nào đó mang tính nữ không đeo mạng che mặt bắt gặp một người Hồi giáo. Viên chánh thanh tra vuốt ve ria mép, rồi giơ ra trước mặt một tờ giấy. Trong lúc ông ta nói, Nahed ghi đầy cuốn sổ những ký hiệu tốc ký trước khi dịch lại cho Sharko:
- Ông ấy nói rằng anh là chuyên gia về giết người hàng loạt và những vụ án phức tạp. Hơn hai mươi năm phục vụ trong ngành cảnh sát Pháp, bộ phận cảnh sát hình sự. Ông ấy nói việc đó quả là ấn tượng. Ông ấy hỏi Paris thế nào rồi.
- Paris đang cảm thấy khó thở. Thế ở Cairo thì sao?
Viên chánh thanh tra vừa nhai nát điếu xì gà Cleôpatra giữa hai hàm răng vừa mỉm cười, đồng thời tiếp tục nói. Nahed dịch tiếp.
- Tổng trấn Noureddine nói rằng Cairo đang run rẩy theo nhịp các vụ khủng bố làm rung chuyển Trung Đông. Ông ấy nói rằng Cairo đang bị bóp nghẹt bởi các mạng lưới Hồi giáo, còn nguy hiểm hơn cả bệnh cúm lợn. Ông ấy nói rằng họ đã nhầm mục tiêu khi thiêu hủy toàn bộ lũ lợn đó trong các hố ở thành phố.
Sharko nhớ đến những cột khói đen đằng xa, có thể nhìn thấy từ ngoại vi thành phố: hóa ra họ thiêu hủy lợn. Anh trả lời như một cái máy, nhưng câu nói đó khiến anh muốn nôn mửa:
- Tôi đồng ý với ông.
Noureddine gật đầu, tiếp tục những lời rỗng tuếch thêm giây lát rồi đẩy một túi tài liệu cũ về phía Sharko.
- Liên quan đến vụ án của anh, ông ấy nói rằng tất cả ở trong đó, trước mặt anh. Hồ sơ năm 1994. Chẳng có gì được đưa vào cơ sở dữ liệu cả, vụ đó quá cũ rồi. Ông ấy nói là anh gặp may khi mà ông ấy còn tìm lại được nó đấy.
- Tôi cho là tôi nên cảm ơn ông ta, đúng không?
Nahed dịch rằng Sharko vô cùng cảm ơn Noureddine.
- Ông ấy nói rằng anh có thể tra cứu tài liệu ngay tại chỗ và quay trở lại vào ngày mai nếu anh muốn. Các cánh cửa ở đây đều rộng mở với anh.
Các cánh cửa, đúng thế, nhưng chúng đều được bọc thép, cùng với đám lính canh hẳn là sẽ theo dõi nhất cử nhất động của anh. Sharko ép mình cảm ơn ông ta bằng một cái hất cằm, kéo mấy sợi dây chun ra rồi mở tập hồ sơ. Những bức ảnh chụp hiện trường vụ án chất đống trong một bìa hồ sơ trong suốt. Có cả các báo cáo khác nhau, các phiếu thông tin về mấy cô gái trẻ với nhân thân của họ, chắc hẳn là các nạn nhân. Hàng vài chục trang giấy viết bằng chữ Ả rập.
- Làm ơn, hãy đề nghị ông ấy nói cho tôi biết về vụ án… Chỉ nghĩ đến việc cô sắp phải dịch tất cả những chuyện đó cho tôi nghe, tôi đã thấy buồn nôn rồi.
Nahed làm theo. Noureddine uể oải rít điếu xì gà rồi nhả ra một làn khói.
- Ông ấy nói chuyện đó xảy ra lâu lắm rồi, và ông ấy không còn nhớ rõ lắm. Ông ấy đang suy nghĩ.
Sharko có cảm giác mình đang di chuyển giữa lòng một trong những tập truyện Tintin, cuốn Những điếu xì gà của pharaon , với lão béo Rastapopoulos ngồi trước mặt. Cảnh tượng khá là nực cười.
- Tuy nhiên, những cô gái trẻ bị cắt xẻ khắp người, với những hộp sọ mở phanh, thì chắc là phải gây ấn tượng rất mạnh.
Nahed chỉ trợn mắt nhìn viên thanh tra. Viên sĩ quan Ai Cập bắt đầu nói chậm rãi, thỉnh thoảng ngừng lại để cô gái trẻ có thể dịch.
- Bây giờ ông ấy nhớ ra được đôi chút, hồi đó ông ấy đã phụ trách đồn cảnh sát rồi. Ông ấy nói rằng ba cô gái đó chết cách nhau một hoặc hai ngày. Người đầu tiên sống trong khu Shoubra, phía Bắc thành phố. Người thứ hai sống trong một khu phố tạm gần nhà máy xi măng Tora, bên cạnh sa mạc. Còn người thứ ba, ở gần khu ổ chuột Ezbet-el-Naghl, khu của những người nhặt rác… Ông ấy nói rằng cảnh sát chưa bao giờ thiết lập được mối liên hệ giữa ba cô gái đó. Họ không quen biết nhau và đi học ở các trường khác nhau.
Đối với Sharko, tên các khu phố không hề có ý nghĩa gì. Anh phe phẩy áo sơ mi cho khô. Mồ hôi chảy dọc lưng anh. Không khí mát mẻ khiến anh cảm thấy dễ chịu, nhưng anh khát muốn chết. Có vẻ lòng hiếu khách không phải là phẩm chất hàng đầu của đám cảnh sát này.
- Có nghi phạm hay nhân chứng nào không?
Lão béo vừa lắc đầu vừa nói. Nahed lưỡng lự đôi chút trước khi dịch lại lời ông ta.
- Chẳng có gì cụ thể cả. Họ chỉ biết rằng mấy cô gái đó bị giết vào buổi tối, trong lúc trở về nhà, và người ta đã tìm thấy xác họ ở gần địa điểm họ bị bắt cóc. Lần nào cũng chỉ cách nơi họ sinh sống chừng vài ki lô mét. Bên bờ sông Nil, ở gần sa mạc, trên cánh đồng mía. Tất cả các chi tiết đều có trong báo cáo.
Không tệ, với một gã có trí nhớ bị lỗi. Sharko suy nghĩ. Những địa điểm hẻo lánh, nơi kẻ sát nhân có thể ung dung hành động. Còn về phương thức tiến hành, có cả điểm chung lẫn điểm khác biệt với những cái xác ở Notre-Dame-de-Gravenchon.
- Ông có thể cung cấp cho tôi một tấm bản đồ thành phố không?
- Ông ấy nói sẽ cho anh một tấm ngay lập tức.
- Cảm ơn. Tôi muốn nghiên cứu các báo cáo này ở khách sạn của tôi tối nay, có được không?
- Ông ấy nói là không. Chúng không được rời khỏi đây. Đó là quy định. Ngược lại, anh có thể ghi chép và họ sẽ gửi fax đến Sở Cảnh sát bên anh những phần anh quan tâm, sau khi đã kiểm tra, đương nhiên.
Sharko đòi hỏi thêm chút nữa, anh muốn động chạm đến các giới hạn đặt ra cho phạm vi điều tra của mình.
- Ngày mai, tôi muốn đến những địa điểm đã xảy ra các vụ án và các vụ bắt cóc. Ông có thể cử người đưa tôi đến hiện trường được không?
Người đàn ông nhún đôi vai béo núc ních có gắn sao.
- Ông ấy nói người của ông ấy rất bận. Và ông ấy không hiểu rõ tại sao anh lại muốn đến những nơi chắc chắn là không còn tồn tại nữa. Cairo mở rộng như một… Nó mở rộng như một vùng nấm mốc.
- Nấm mốc ư?
- Đấy là một cách nói thôi… Ông ấy hỏi là tại sao các anh, những người phương Tây, lại không tin tưởng họ mà cần phải làm lại công việc theo cách của các anh.
Giọng nói của người đàn ông Ai Cập vẫn uể oải, có sức nặng, nhưng chất chứa rất nhiều sắc thái, sắc thái của sự thống trị, của uy quyền. Đây là nhà ông ta, lãnh địa của ông ta.
- Tôi chỉ muốn tìm hiểu làm sao mấy cô gái tội nghiệp đó lại rơi vào tay một kẻ sát nhân tồi tệ đến thế. Cảm nhận được tên giết người đó đã di chuyển trong thành phố này như thế nào. Mọi kẻ sát nhân đều để lại mùi của chúng, dẫu nhiều năm có trôi qua. Đó là mùi của sự đồi bại và sự biến thái. Tôi muốn đánh hơi những mùi ấy. Tôi muốn bước đi ở nơi hắn đã giết chóc.
Sharko nhìn chằm chặp vào Nahed bằng đôi mắt u tối, như thể anh đang nói trực tiếp với chính cô. Cô gái trẻ người Ai Cập dịch lại những lời anh vừa nói. Noureddine dụi mạnh điếu xì gà vừa châm vào chiếc gạt tàn và đứng dậy.
- Ông ấy nói là ông ấy không hiểu gì cả về nghề nghiệp lẫn phương pháp làm việc của anh. Cảnh sát ở đây không có mặt để hít ngửi như lũ chó, mà để hành động, để tiêu diệt lũ bất lương. Ông ấy không muốn quay trở lại với những vấn đề đã bị chôn vùi trong quá khứ, cũng không muốn khơi lại những vết thương mà Ai Cập muốn quên đi. Đất nước chúng tôi đã đủ đau đớn với nạn khủng bố, những kẻ quá khích và ma túy rồi. (Cô hất cằm về phía tập hồ sơ mỏng dính.) Mọi thứ đều có ở đó, ông ấy không thể làm thêm bất cứ điều gì khác nữa. Vụ án này đã quá lâu rồi. Có một phòng làm việc ở bên cạnh. Ông ấy mời anh đứng dậy và sang đó…
Sharko làm theo, nhưng trước đó, anh đặt mạnh bản sao bức điện của Interpol ngay trước mũi viên chánh thanh tra. Anh nói với Nahed, cô nhắc lại bằng tiếng Ả rập Ai Cập:
- Một thanh tra có tên là Mahmoud Abd el-Aal đã gửi bức điện này. Hồi đó, chính anh ta là người điều tra vụ án. Thanh tra Sharko muốn nói chuyện với anh ta.
Noureddine đờ người, đẩy bức điện ra khỏi tầm mắt và khạc ra một mớ hổ lốn đầy những từ ngữ lộn xộn.
- Tôi xin dịch nguyên văn từng từ một: “Con chó Abd el-Aal đó chết rồi.”
Sharko có cảm giác như vừa bị tống một quả đấm vào bụng.
- Sao lại chết?
Viên sĩ quan người Ai Cập vừa nói vừa nghiến chặt hai hàm răng. Bên trên chiếc cổ áo sơ mi chật khít, các mạch máu ở cổ ông ta phồng lên.
- Ông ấy nói rằng người ta tìm thấy anh ta bị thiêu cháy ở tận sâu một con hẻm nhơ nhớp trong khu Sayeda Zenab, vài tháng sau vụ án này. Một vụ thanh toán lẫn nhau của đám người Hồi giáo cực đoan. Tổng trấn Noureddine kể rằng khi cảnh sát đến căn hộ của Abd-el-Aal, sau khi thảm kịch xảy ra, họ đã phát hiện bản hiến chương của Mặt trận Hành động Hồi giáo giấu trong đồ đạc của anh ta, với những đoạn do chính tay Abd el-Aal khoanh tròn. Anh ta là một kẻ phản bội. Và ở đất nước chúng tôi, lũ phản bội sẽ phải “chết như lũ chó”.
Trong tiền sảnh, Noureddine cương quyết chỉnh lại chiếc mũ bê rê. Ông ta nghiêng người nói vào tai Nahed, đặt tay lên vai cô. Cô gái trẻ đánh rơi cuốn sổ. Viên chánh thanh tra nói chuyện với cô hồi lâu, rồi rẽ về hướng những cầu thang nơi đang vang lên tiếng hát.
- Ông ta vừa nói gì thế? Sharko hỏi.
- Rằng có một tấm bản đồ vùng này, trong phòng làm việc nơi chúng ta sắp vào.
- Có vẻ ông ta nói với cô dài hơn thế nhiều.
Cô căng thẳng vén tóc ra sau lưng.
- Chỉ là anh cảm thấy thế thôi…
Cô đưa anh vào một căn phòng được trang bị ở mức tối thiểu cho công việc. Bàn, ghế, bảng, trang thiết bị văn phòng tối cần thiết. Một ô cửa sổ đóng kín quay ra phố Kasr-El-Nil. Không có máy tính. Sharko ấn một chiếc công tắc hẳn là dùng để bật quạt trần.
- Nó không hoạt động. Họ cố tình chừa cho ta cái phòng làm việc này.
- Không, không đâu, anh đang nghĩ gì vậy? Chỉ là ngẫu nhiên thôi mà.
- Ngẫu nhiên, ôi chao. Chẳng hề có gì là ngẫu nhiên với đám người này cả.
- Từ khi anh đến đây, tôi cảm thấy anh hơi… ngờ vực chúng tôi, thanh tra ạ.
- Chỉ là cô cảm thấy thế thôi.
Viên cảnh sát nhận thấy sự hiện diện của một lính gác, không xa cửa lắm. Người ta theo dõi anh. Đương nhiên là các chỉ thị đã được đưa ra.
- Chúng ta có thể photocopy không?
- Không. Mọi thứ đều có mã bảo vệ. Chỉ có máy tính của các sĩ quan mới có ổ cắm USB hoặc đầu đọc CD. Không bao giờ có thứ gì ra khỏi đây.
- Bí mật quân sự, đương nhiên rồi. Được thôi, chúng ta sẽ xoay xở vậy.
Sharko mở tập hồ sơ. Anh thọc tay vào túi giấy đựng ảnh và lưỡng lự một chút trước khi trải chúng ra. Anh đang không ở đỉnh cao phong độ, còn Nahed, cô có vẻ bấn loạn.
- Sẽ ổn cả chứ? anh hỏi cô.
Cô gật đầu mà không trả lời. Viên thanh tra xếp những bức ảnh ra trước mặt. Cô gái trẻ cố gắng nhìn vào chúng và đưa tay lên che miệng.
- Thật khủng khiếp.
- Nếu không khủng khiếp, tôi đã không ở đây.
Hàng chục bức ảnh thể hiện cái chết, dưới tất cả các góc độ. Chắc chắn người ta đã chụp ảnh các thi thể vài giờ sau khi họ chết, nhưng cái nóng đã khiến mức độ phá hủy thêm trầm trọng. Sharko phân tích kỹ càng cảnh tượng ghê rợn ấy. Những cái xác bị vứt bỏ một cách dã man, bị băm vằm, bị cắt xẻ bằng dao, không hề có ý đồ đặc biệt nào trong việc dàn cảnh. Viên cảnh sát nhặt mấy tờ phiếu thông tin cá nhân, chăm chú quan sát ảnh các nạn nhân do gia đình cung cấp. Những bức ảnh chất lượng kém, được chụp ở trường học, trên đường phố, ở nhà. Các cô gái đều sống động, tươi cười, trẻ trung, và có một số điểm chung. Độ tuổi của họ - mười lăm hoặc mười sáu -, đôi mắt và mái tóc đều có màu đen. Viên thanh tra đưa mấy tờ phiếu cho Nahed và yêu cầu cô dịch lại. Trong lúc đó, anh quan sát tấm bản đồ Cairo ghim trên tường, với tất cả các tên phố bằng tiếng Ả rập. Thành phố này là một con quái vật của nền văn minh, bị rạch bụng từ Bắc xuống Nam bởi dòng sông Nil, hai đầu Đông và Đông Nam bị rặng đồi Moqattam chặn lại, phía Nam bị ngốn ngấu bởi một vùng cát rộng rải rác những đống đổ nát của khu thành cổ.
Viên cảnh sát găm đinh ghim lên những địa điểm quan trọng mà cô gái chỉ ra. Thi thể các nạn nhân được phát hiện tại các vị trí cách nhau chừng mười lăm ki lô mét, dọc theo trục cầu vồng bao quanh khu dân cư. Khu của những người nhặt rác ở phía Đông Bắc, đoạn bờ sông nơi sông Nil tách làm đôi ở phía Tây Bắc - cách đồn cảnh sát năm ki lô mét -, và sa mạc cát trắng phía Nam. Những cô gái trẻ đang độ tuổi đi học, thuộc tầng lớp trung lưu hoặc nghèo khổ. Nahed thuộc Cairo như lòng bàn tay. Cô có thể chỉ ra vị trí trường học và khu phố của từng nạn nhân. Sharko quan tâm đến khoảng không gian rộng đến mức khó tin chiếm lĩnh bởi nhà máy xi măng Tora, nhà máy rộng nhất thế giới, gần nơi sinh sống của một trong ba nạn nhân.
- Vừa rồi, cô có nói về một khu phố không chính thức gần nhà máy xi măng. Điều đó nghĩa là thế nào?
- Đó là khu vực sinh sống tạm bợ do người nghèo xây nên, không tuân thủ các quy định về đô thị và không được hưởng các dịch vụ công cộng. Không có nước sạch, không có hệ thống vệ sinh môi trường, không có thu gom rác thải. Ở Ai Cập, những khu này rất nhiều, và làm bùng nổ kích thước của thành phố. Nhà nước cung cấp khoảng một trăm ngàn chỗ ở mỗi năm trong khi cần phải có bảy trăm ngàn mới đáp ứng được tăng trưởng dân số.
Viên cảnh sát ghi chép lại. Họ tên của ba cô gái, địa điểm phát hiện ra xác họ, bối cảnh địa lý…
- Các khu vực này thuộc loại khu ổ chuột đúng không?
- Các khu ổ chuột ở Cairo còn tệ hơn. Phải nhìn tận mắt thì mới tin được. Nạn nhân thứ hai, Boussaïna, sống gần một trong các khu ổ chuột đó…
Viên thanh tra vẫn chăm chú quan sát các bức ảnh. Những khuôn mặt, những đặc điểm hình thể. Anh không chịu tin rằng đây chỉ là ngẫu nhiên. Kẻ giết người đã di chuyển, để đi từ khu này sang khu khác. Những cô gái nghèo, không đặc biệt xinh đẹp, không thu hút sự chú ý. Tại sao lại là ba cô gái này? Hắn đã quen sống chung với cảnh nghèo khổ, do hoạt động của hắn chăng? Hắn đã gặp họ từ trước chăng? Một điểm chung… Nhất thiết phải có một điểm chung.
Một giờ sau, Nahed khó nhọc nêu ra những điểm chính trong bản báo cáo giám định pháp y, đây là phần chuyên môn và rất phức tạp đối với một phiên dịch. Cô cho biết các dấu vết ketamin, một loại thuốc gây mê mạnh, đã được tìm thấy trong ba thi thể. Các ước tính về thời gian qua đời chứng tỏ rằng sự việc xảy ra trong đêm khuya. Còn về nguyên nhân ban đầu của cái chết, đây chắc chắn là điều gây bối rối nhất. Các vết cắt xẻ được thực hiện bằng dao, nhưng là sau khi chết . Dường như nguyên nhân gây chết là do những thương tổn khi cưa mở hộp sọ, và đương nhiên, là do việc lấy não và mắt.
Có vẻ như các hộp sọ bị cưa mở trong lúc các cô gái còn sống. Và tiếp sau đó là rất nhiều nhát dao được thực hiện.
Sharko lau trán bằng một chiếc khăn mùi soa, trong khi Nahed chìm sâu vào im lặng, đôi mắt thất thần. Viên cảnh sát hình dung rõ cảnh tượng đó. Trước hết, kẻ sát nhân bắt cóc các cô gái này, vào buổi tối, bằng cách đánh thuốc mê họ, rồi mang họ ra chỗ vắng và tiến hành những việc làm ghê rợn của hắn, với những trang thiết bị chết người. Lưỡi cưa của bác sĩ pháp y, những con dao mổ để khoét nhãn cầu, con dao rộng bản để cắt xẻ. Chắc chắn hắn có một chiếc xe hơi, hắn biết rõ thành phố này và đã xác định các dấu mốc. Tại sao lại rạch xẻ nạn nhân sau khi họ chết ? Nhu cầu không thể kìm nén trong việc khiến các thi thể chẳng còn giống người chăng? Chiếm hữu họ chăng? Hay bởi vì hắn nuôi mối căm thù mãnh liệt đến nỗi phải giải tỏa bằng hành động phá hủy cuối cùng?
Trong bầu không khí ngột ngạt và nặng nề của phòng làm việc, viên thanh tra vất vả kết nối phương thức tiến hành vụ án này với phương thức tiến hành đã được áp dụng ở Pháp. Ở đây, dù sao cũng vẫn có một nghi thức, có sự sắp đặt, chứ không phải là ý đồ đặc biệt nhằm che giấu những cái xác. Hơn nữa, kẻ giết người đã mở hộp sọ các nạn nhân lúc họ còn sống. Nhưng ở Pháp, đa số nạn nhân bị bắn chết, trong cảnh hỗn độn, nếu xét theo vùng tác động của những viên đạn. Đấy là còn chưa nói đến sự tỉ mỉ để vô hiệu hóa việc nhận dạng xác chết: cắt tay, nhổ răng.
Hai loạt vụ án giết người vừa gần lại vừa xa nhau, về thời gian, và về không gian. Có thực sự tồn tại một mối liên hệ giữa chúng không? Thế nếu anh sai lầm ngay từ đầu thì sao? Nếu như rốt cuộc, sự ngẫu nhiên chính là yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện này? Mười sáu năm… Mười sáu năm dài…
Tuy nhiên, Sharko cảm thấy một mối liên hệ không thể nắm bắt, đó là cùng một mong muốn quỷ quái trong việc lấy đi hai cơ quan quý giá nhất trên cơ thể con người: bộ não và đôi mắt.
Tại sao lại là ba cô gái này ở Ai Cập?
Tại sao lại là năm người đàn ông kia ở Pháp, trong đó có một người châu Á?
Viên cảnh sát ừng ực uống hết những cốc nước mà Nahed đều đặn mang vào cho anh và lại càng chìm sâu hơn vào tối tăm, trong khi những tia sáng của thần Râ hành hạ lưng anh. Mồ hôi anh nhỏ thành giọt. Bên ngoài là một địa ngục của cát, bụi, muỗi, và anh đã khao khát nghĩ đến không khí điều hòa trong phòng khách sạn, khi anh trốn trong màn.
Đáng buồn thay, mớ giấy tờ còn lại chỉ toàn là những nội dung phỉnh phờ và tào lao. Chẳng có gì được tiến hành một cách nghiêm túc hết. Vài tờ giấy rời rạc, được viết tay, có dấu của thẩm phán, về lời khai của các ông bố bà mẹ hoặc hàng xóm. Hai trong số ba cô gái trở về từ chỗ làm, cô gái thứ ba từ một khu phố nơi cô thường đến đổi sữa dê lấy vải. Còn có cả danh sách những thứ được niêm phong, nhưng vô dụng. Ở đất nước này, dường như người ta giải quyết cho xong những vụ giết người cũng giống như những vụ ăn cắp máy thu thanh trên ô tô ở Pháp.
Và đó chính là điều không ổn.
Sharko nói với Nahed:
- Nói cho tôi biết xem, cô có nhìn thấy cái tên Mahmoud Abd el-Aal ở đâu trong mấy bản báo cáo này không? Cô có nhận thấy những ghi chép có ký tên anh ta không, ngoài mấy trang này ra?
Nahed đọc lướt qua những tờ ghi chép rồi lắc đầu.
- Không. Nhưng anh đừng ngạc nhiên về sự nghèo nàn của những hồ sơ này… Ở đây, người ta thích hành động hơn là giấy tờ. Thích trấn áp hơn là suy ngẫm. Mọi thứ đều bị vặn vẹo, bị gặm nhấm bởi nạn tham nhũng. Thậm chí anh không thể hình dung nổi đâu.
Sharko lấy bản sao bức điện của Interpol ra.
- Cô thấy đấy, Interpol nhận được bức điện này hơn ba tháng sau khi những cái xác được phát hiện. Chỉ có một thanh tra kiên trì và nhiệt tình mới có thể gửi nó đi được. Một cảnh sát liêm khiết, với những phẩm chất tốt đẹp, có lẽ anh ta muốn đi đến cùng vụ việc.
Sharko nhặt mớ giấy lên rồi lại thả cho chúng rơi xuống trước mặt.
-… Thế mà người ta lại đang tìm cách khiến tôi tin rằng chỉ có từng này thôi sao? Thông tin chính thức ư? Không có những ghi chép cá nhân sao? Thậm chí còn không có bản sao của bức điện chết tiệt kia? Phần còn lại đâu rồi? Kết quả điều tra tại các hiệu thuốc hoặc các bệnh viện liên quan đến ketamin chẳng hạn?
Nahed chỉ nhún vai. Khuôn mặt cô nghiêm nghị. Sharko lắc đầu, đưa một tay lên xoa trán.
- Và cô có biết điều gì khiến tôi băn khoăn nhất không? Đó là, thật lạ lùng, Mahmoud Abd el-Aal đã chết.
Cô gái trẻ quay người và đi về phía khung cửa kính. Cô đưa mắt nhìn ra tiền sảnh. Người lính gác vẫn không hề nhúc nhích.
- Tôi không biết trả lời anh thế nào, thanh tra ạ. Tôi ở đây chỉ để phiên dịch và…
- Tôi đã nhận thấy Noureddine quấy rầy cô đến mức nào rồi, và cô đã tìm mọi cách thoát khỏi ông ta mà không được. Chuyện đó là gì vậy? Một cuộc trao đổi theo đúng lề lối chăng? Hay một thông lệ ở đất nước cô, buộc cô phải tuân theo những đòi hỏi của lão béo phệ ấy?
- Không có thứ gì như thế cả.
- Tôi đã nhìn thấy cô run rẩy nhiều lần khi đối mặt với những bức ảnh này, và khi mô tả các chi tiết trong vụ án. Cô cũng từng trải qua độ tuổi của ba cô gái này khi họ qua đời. Cô cũng từng đi học, giống họ.
Nahed mím môi. Hai bàn tay cô xoắn vặn lấy nhau. Đôi mắt lẩn tránh, cô nhìn đồng hồ đeo tay.
- Sắp đến giờ hẹn với Mickaël Lebrun rồi và…
- Và tôi sẽ không đi. Tôi còn vô khối thời gian để uống vang Pháp tại Pháp.
- Có thể anh sẽ khiến anh ta mếch lòng đấy.
Sharko vớ lấy bức ảnh chụp một trong ba cô gái đang tươi cười và đẩy nó về phía Nahed.
- Tôi thường đụng độ với giới ngoại giao và các loại bánh ngọt. Cô không nghĩ rằng ba cô gái này xứng đáng được chúng ta quan tâm sao?
Im lặng nặng nề. Nahed có nhan sắc nổi trội, và Sharko biết rằng đa số phụ nữ xinh đẹp thường có trái tim lạnh lùng. Nhưng anh cảm nhận được có gì đó tổn thương ở cô gái Ai Cập này, một vết thương hở miệng đôi khi khiến ánh mắt đen huyền của cô mờ đi.
- Được rồi. Anh muốn tôi làm gì cho anh đây, thưa thanh tra?
Đến lượt Sharko lại gần rèm cửa, rồi anh hạ giọng.
- Sẽ không có người nào trong đám cảnh sát hiện diện tại sở cảnh sát này nói chuyện với tôi. Lebrun thì bị bó buộc với đại sứ quán nên sẽ chẳng làm gì được. Cô hãy tìm cho tôi địa chỉ của Abd el-Aal. Chắc chắn anh ta phải có vợ, có con hoặc anh chị em. Tôi muốn nói chuyện với họ.
Sau một hồi lâu im lặng, Nahed nhân nhượng.
- Tôi sẽ thử, nhưng chủ yếu là…
- Tuyệt đối im miệng, cô cứ tin ở tôi. Khi lấy lại được điện thoại di động, tôi sẽ gọi cho Lebrun, bảo với anh ta là tôi xin lỗi vì đang khó ở. Cái nóng, nỗi mệt mỏi… Tôi sẽ nói với anh ta rằng ngày mai, tôi vẫn sẽ dành thời gian ghé qua đây, để kết thúc cho xong chuyến đi này. Còn cô, cô hãy gặp tôi ở khách sạn lúc 20 giờ, và tôi hy vọng lúc ấy cô đã có địa chỉ tôi cần.
Cô gái ngần ngại.
- Không, không phải ở khách sạn. Anh hãy bắt một chiếc taxi, và… - cô viết nguệch ngoạc vài chữ lên một mảnh giấy rồi đưa cho Sharko - đưa cho tài xế mẩu giấy này. Anh ta sẽ biết phải đưa anh đến đâu.
- Đây là đâu?
- Đằng trước nhà thờ nữ thánh Barbara.
- Nữ thánh Barbara? Cái tên nghe không được Hồi giáo cho lắm.
- Nhà thờ này nằm trong khu Copts ở thành cổ Cairo, phía Nam thành phố. Cái tên này lấy theo tên một thiếu nữ tử vì đạo đã tìm cách giúp cha mình cải sang đạo Công giáo.