← Quay lại trang sách

Chương 3 Hôi của Đông lăng

Hoàng Khắc Vũ bước lên phía trước, hai tay thủ thế trước ngực. Chợt một bàn tay gầy guộc vén rèm xe lên, rồi một mái đầu thò ra, hóa ra là Phú Lão Công. Ông ta nhìn quanh, chậm rãi lên tiếng, “Mấy vị Minh Nhãn Mai Hoa xin hãy dừng bước.” Gương mặt già nua nọ dưới ánh nến lại càng thêm phần quái dị.

Bốn người đều lặng thinh. Phú Lão Công nói, “Vừa rồi ở nhà người ta không tiện hỏi han, nên lão cố tình ở đây đợi, chỉ mong nói chuyện được với hai vị.”

Ông ta nói hai vị, dĩ nhiên là chỉ Dược Thận Hành và Hứa Nhất Thành. Lời mời này quá đột ngột, khiến cả hai đều có phần ngạc nhiên. Dược Thận Hành nghĩ bụng, khánh đồng chẳng biết là của gian Ngô Diêm Vương lấy được từ đâu, chưa chừng lại của người này cũng nên. Giờ đã sắp nửa đêm lại mời người ta đi trò chuyện, nói thế nào cũng không thể đi được.

Hứa Nhất Thành cũng không trả lời, chỉ nhìn lên mui xe, chú ý thấy dưới mái xe phía trước chạm hai con rồng hai bên trái phải, chính giữa là một viên nhật châu.

Thấy cả hai im lặng, Phú Lão Công lại nói, “ Hai vị yên tâm, lão không có ác ý đâu. Chẳng qua khánh đồng này can hệ trọng đại, liên quan tới một sự kiện đáng sợ, không thể không nhờ hai vị xem xét giúp .” Nói tới bốn chữ “can hệ trọng đại”, ông ta còn nghiến răng gằn giọng, thái độ cực kỳ dữ tợn.

Dược Thận Hành hỏi, “Sự kiện gì vậy?” Phú Lão Công lắc đầu, “Đây không phải chỗ nói chuyện. Hai vị không ngại thì mời dời bước tới tệ xá, nghe lão thuật lại cặn kẽ. Việc này chẳng hại gì tới hai vị cả, trái lại còn có lợi cũng nên.” Dược Thận Hành hít một hơi thật sâu, nói rằng theo lễ thì mời người tới nhà trò chuyện phải chọn lúc ban ngày ban mặt gửi thiếp mời, đâu có chuyện nửa đêm nửa hôm chặn đường người ta thế này. Phú Lão Công cười khà, song nụ cười đã có phần lạnh lùng, “Chuyện lão sắp kể không thể công khai, bắt buộc phải kể vào giờ này.”

Nghe đến đó, tim Dược Thận Hành đập thình thịch. Người ta đã nói với hắn đây là chuyện không thể công khai thì hắn không thể rút lui được nữa rồi. Hai tên vệ sĩ xách đèn lồng bước lên ba bước, nhất loạt chìa tay về phía thùng xe, đồng thanh nói “Mời”. Con ngươi Hoàng Khắc Vũ co lại, cậu để ý thấy lòng bàn tay hai kẻ này đều có một lớp chai dày, hẳn là cao thủ lâu năm, muốn khống chế bốn người bọn họ thực dễ như trở bàn tay.

Đúng lúc này, đằng xa chợt nghe tiếng súng nổ giòn rồi im bặt, tựa như đang nhắc nhở họ, Bắc Kinh lúc này đã nằm ngoài vòng pháp luật.

Dược Thận Hành biết hôm nay chẳng thể thoái thác được, đành nói, “Được, hai chúng tôi đi, nhưng ông phải cho chúng tôi biết là đi đâu chứ.” Phú Lão Công hiểu ý liền đưa mắt nhìn Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ, “Ta đưa hai vị này tới Cao Bi Điếm bên bờ sông Thông Huệ ở ngoại ô phía Đông thành, sáng mai sẽ về.”

Nơi đó cách thành Bắc Kinh hơn hai mươi dặm, đi tiếp về phía Đông là Thông Châu, hàng hóa từ phương Nam vận chuyển vào kinh thành bắt buộc phải đi qua đây, dân cư đông đúc, không phải chốn hoang vu hẻo lánh. Dược Thận Hành nghe vậy cũng yên tâm. Hứa Nhất Thành quay sang bảo Lưu Nhất Minh, “Nhất Minh qua Dự Vương Phủ báo hộ với vợ chú một câu nhé.” Lưu Nhất Minh vâng dạ, Hứa Nhất Thành lại tranh thủ hạ giọng dặn dò thêm mấy câu rồi mới để cậu đi.

Dược Thận Hành cũng dặn Hoàng Khắc Vũ về Minh Nhãn Mai Hoa báo một tiếng rồi cùng Hứa Nhất Thành lên xe.

Khoang xe rộng thênh thang, mép cửa bọc đồng, đệm ngồi bằng gấm Tô Châu, bên dưới chỗ ngồi là ngăn tủ chạm hoa, hè để bộ đồ trà, đông đặt lò than. Cách bày biện không xa hoa, nhưng lại toát lên vẻ sang cả tinh tế. Phú Lão Công ngồi chính giữa, đôi mày bạc trắng rủ xuống, nhắm mắt dưỡng thần. Chiếc khánh đồng được ông ta bưng trong tay đầy trân trọng, Dược Thận Hành và Hứa Nhất Thành chia ra ngồi hai bên trái phải, cũng chẳng thể chuyện trò gì, đành ai nghĩ chuyện người nấy.

Dược Thận Hành nghĩ bụng Phú Lão Công là người trong cung ra, e rằng khánh này cũng liên quan tới quý nhân nào đó trong cung. Hắn nghiêng đầu nhìn sang, thấy Hứa Nhất Thành ngả người tựa lưng ghế, hai tay đặt lên bụng, đã ngủ thiếp đi. Lắng tai nghe còn thấy tiếng ngáy khe khẽ. Dược Thận Hành dở khóc dở cười, chẳng biết phải nói kẻ này có phong độ đại tướng hay vô tâm vô tính nữa.

Lát nữa phải nói rõ với Phú Lão Công, Minh Nhãn Mai Hoa là Minh Nhãn Mai Hoa, y là y. Thời buổi rối ren, tốt nhất đừng chuốc lấy tai vạ thì hơn. Dược Thận Hành nghĩ thầm.

Về đêm đường phố Bắc Kinh vắng tanh không một bóng người, song không như giờ giới nghiêm dưới thời Thanh, ngay cổng thành cũng chẳng ai canh gác. Xe ngựa chạy bon bon trên đường, chẳng mấy chốc đã ra khỏi thành, theo đường cái đi về hướng Đông. Bánh xe cao su chạy êm hơn bánh gỗ nhiều, không hề tròng trành. Không bao lâu xe đã đến Cao Bi Điếm, tới trước một ngôi nhà bên bờ sông Thông Huệ. Chỉ nhìn khung xà khắc hoa trên cổng son và hai đôn đá chạm hổ trước cổng là biết căn nhà này tuy không lớn nhưng khá xa hoa, chủ nhân không giàu thì sang.

Hộ vệ đi đến gõ cửa, chẳng mấy chốc một a hoàn trẻ tuổi ra mở cổng cho họ vào. Phú Lão Công chắp tay bảo hai người, “Để lão đi mời chủ nhân ra, phiền hai vị tạm đợi trong phòng khách.” Hứa Nhất Thành và Dược Thận Hành thầm ngạc nhiên, hóa ra vị Phú Lão Công này không phải chủ nhà, chỉ là người hầu mà đã phô trương như vậy.

Sân nhà không lấy gì làm rộng, nổi bật nhất là một cây hòe cổ thụ cao lớn thẳng tắp. Cả hai trông thấy đều rúng động. Người Bắc Kinh trồng cây cũng có quy củ, “trước không dâu sau không liễu, giữa nhà chớ trồng quỷ vỗ tay; dâu táo đường lê hòe, không vào nhà âm dương”, trong chữ hòe có chữ quỷ, người kiêng kị chỉ trồng trước cổng nhà để thu hút tài lộc còn trong nhà tuyệt không trồng, e thành điềm gở. Có điều từ thời Minh trở đi Bắc Kinh đã nhan nhản những hòe, nên còn có câu, “ có hòe già, ắt là nhà cổ”. Chính giữa nhà sừng sững một cây hòe, hẳn ngôi nhà này đã có tuổi thọ lâu đời, người sống ở đây e rằng cũng chẳng phải hạng tầm thường.

A hoàn dẫn họ qua sân, vào phòng khách. Bước vào phòng, cả hai cứ ngỡ như mình vừa quay về những năm Tuyên Thống. Ngoài hai cây đèn điện, cách bài trí trong phòng hệt như phủ bối lặc thời Thanh. Họ chia nhau ngồi xuống, a hoàn bưng hai chén trà xanh và hai đĩa đồ ngọt lên. Dược Thận Hành cầm chén trà liếc mắt nhìn theo thói quen, không khỏi tặc lưỡi. Đây là chén cá bơi, mặt gốm phủ một lớp men bóng, rót trà vào sẽ thấy thấp thoáng bóng cá bơi trong chén. Chiếc chén này không phải đồ cổ, song lại là hàng ngự chế trong cung, đem ra chợ bán, một bộ chén có thể đổi được hai gian nhà ngói.

Hứa Nhất Thành không biết nhiều về đồ gốm, tùy tiện hớp một ngụm rồi thản nhiên nhón miếng bánh chín tầng mây đưa lên miệng.

Lúc này, một giọng nói chợt vang lên, “Đầu bếp làm mấy món đồ ngọt này năm xưa từng phục dịch trong cung, các hàng quán bên ngoài không có mà bán đâu.”

Hai người đặt trà bánh trong tay xuống, thấy một người trung niên mập mạp trắng trẻo thong dong từ sau bình phong đi ra, đeo cặp kính tròn gọng đồi mồi, tay phe phẩy quạt, lưng thắt đai vàng tươi, da dẻ nõn nà như trẻ con, không một nếp nhăn, đối lập hoàn toàn với Phú Lão Công theo hầu đằng sau.

“Dân Quốc không mấy ai cúi chào nữa, chúng ta đổi thành chắp tay chào đi.” Gã cười nói. Dái tai gã vừa dày vừa dài, cười trông như Phật, giọng nói lại sang sảng, nhả chữ ung dung, không nhanh không chậm, có mấy phần phong thái của Đàm phái*, xem ra xưa kia cũng là khách mộ điệu. Gã lấy tay trái ôm lấy nắm tay phải, chắp tay tự giới thiệu, “Tại hạ Dục Phương, là một kẻ nhàn rỗi ở kinh thành.”

❖ Trường phái Kinh kịch ra đời sớm nhất tại Trung Quốc, làn điệu nổi tiếng ngọt ngào cổ kính. Do Đàm Hâm Bồi, một kép hát nổi tiếng được xưng tụng là “vua Kinh kịch” khởi xướng. Có những trường phái Kinh kịch khác cũng học tập Đàm phái rồi mới dần dần hình thành bản sắc riêng của mình.

Miệng nói là kẻ nhàn rỗi, nhưng cằm gã lại hơi hếch lên, vẻ thận trọng. Nghe gã xưng tên, hai người đều kinh ngạc. Ở Bắc Kinh, chữ “Dục” này hết sức đặc biệt. Năm xưa Khang Hi quy định con cháu dòng đích nhà Ái Tân Giác La theo tên đệm mà chia vai vế, đặt ra ba chữ Dận, Hoằng, Vĩnh, đến Càn Long lại thêm ba chữ Miên, Dịch, Tái, Đạo Quang thêm Phổ, Dục, Hằng. Người Mãn thường không dùng họ, lại thêm những năm đầu Dân Quốc sợ bị báo thù, nên con cháu tông thất đều tự xưng theo chữ đệm của đời mình.

Nói cách khác, người trung niên mập mạp này vốn thuộc tông thất Mãn Thanh, hàng chữ Dục, nhỏ hơn Phổ Nghi một hàng. Nếu không có Viên Thế Khải, gã đã có thể là bối lặc. Chẳng trách Phú Lão Công trước mặt gã phải xưng là lão nô. Dân Quốc ưu đãi tông thất nhà Thanh, con cháu hoàng tộc tuy không còn đặc quyền, song cuộc sống vẫn sung túc.

Đã ở thời Dân Quốc mà gã vẫn giữ phong thái vương công quý tộc, mở miệng ra là Đại Thanh ta, lưng còn thắt đai vàng đặc trưng của con cháu đích hệ hoàng tộc Mãn Thanh, bím tóc cũng vẫn để.

Dục Phương vén vạt áo chễm chệ ngồi xuống ghế trên, ôm quạt nói, “Vừa rồi Phú Lão Công nói với ta rồi. Đêm hôm khuya khoắt vời hai vị tới đây, không khỏi thất lễ, hiềm nỗi việc này có lý do riêng, mong hai vị bỏ quá cho. Sáng mai ta sẽ đích thân đến cửa tạ lỗi.”

Dược Thận Hành đáp lời, “Không còn sớm nữa, ngài nói thẳng ra đi, chuyện này rốt cuộc là sao vậy?”

Phú Lão Công đưa chiếc khánh trong tay tới trước mặt Dục Phương, gã giơ tay sờ mép khánh, nhẫn ngọc gõ nhẹ vào mép khánh đồng thành tiếng lanh canh. Đoạn gã thở dài hỏi, “Hai vị có biết lai lịch chiếc khánh này không?”

“Nếu tôi đoán không lầm, đây là vật trong cung?” Dược Thận Hành thản nhiên đáp.

Dục Phương gật đầu, “Dược tiên sinh nói không sai. Thời hoàng đế Đồng Trị của Đại Thanh ta còn tại vị, có một phi tần họ Phú Sát của Tương Hoàng kỳ, là con gái viên ngoại lang Phượng Tú. Lão Phật Gia* đích thân chọn nàng vào cung, vốn định phong làm hoàng hậu, về sau Từ An thái hậu phản đối nên chỉ phong là hoàng quý phi. Họ Phú Sát tin Phật, ngày ngày đều lễ Phật. Có một vị Phật sống từng nói nàng là hoa sen giáng thế, nên nàng đã sai người đúc một chiếc khánh đồng, lúc đúc còn bỏ vào ba sợi tóc của nàng, bên trên chạm một hàng chữ Phạn tạo thành hình hoa sen, coi như thế thân của mình, chính là nó.”

❖ Lão Phật Gia ở đây chỉ Từ Hi thái hậu, dưới thời Đồng Trị, Từ Hi và Từ An thái hậu đồng thời nhiếp chính. Từ Hi là mẹ đẻ hoàng đế Đồng Trị, còn Từ An là mẹ cả.

Dược Thận Hành lúc trước từng tuyên bố vật này được làm từ thời Càn Gia đổ lại, giờ chứng minh mình giám định đúng, không khỏi tự hào ra mặt.

Phú Lão Công khom người tiếp lời, “Năm Quang Tự thứ ba mươi, vị họ Phú Sát nọ mắc bệnh qua đời, thụy hiệu Thục Thận hoàng quý phi, chôn ở Đông lăng, lăng tẩm nằm trong phi viên mé Tây Huệ lăng*. Chiếc khánh đồng này cũng được chôn theo. Chính tay lão nô đã đặt nó vào quan quách.” Nói tới đó, mắt lão rưng rưng như sắp khóc.

❖ Đông lăng, hay còn gọi là Thanh Đông lăng là quần thể lăng mộ hoàng gia triều Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, Hà Bắc. Nơi đây chôn cất các hoàng đế Thuận Trị, Khang Hi, Càn Long, Hàm Phong, Đồng Trị cùng các hoàng hậu, phi tần, hoàng tử và công chúa. Huệ lăng là lăng mộ hoàng đế Đồng Trị, nằm trong quần thể này. Huệ lăng phi viên là nơi chôn cất phi tần của Đồng Trị đế. Hoàng hậu thường được táng cùng hoàng đế.

Dược Thận Hành và Hứa Nhất Thành đều là cao thủ trong giới cổ vật. Vật bồi táng giờ lại xuất hiện ngoài chợ, rốt cuộc Thục Thận hoàng quý phi đã gặp phải chuyện gì, chẳng cần hỏi cũng rõ. Phú Lão Công này năm xưa hẳn là người bên cạnh hoàng quý phi, chẳng trách vừa thấy khánh đồng đã khóc nức lên.

Dược Thận Hành thận trọng hỏi, “Ngài muốn điều tra xem ngôi mộ này có bị trộm hay không ư?”

Dục Phương gập quạt lại đánh phạch, tức tối hừm một tiếng, “Chuyện đó chẳng cần điều tra nữa. Hai tháng trước, ngày hai mươi chín tháng Ba, một toán giặc cướp đem theo thuốc nổ đã đột nhập Huệ lăng phi viên, quật mồ Thục Thận hoàng quý phi, khoắng sạch đồ bồi táng bên trong, ném di cốt vương vãi dọc lối vào hầm mộ. Hoàng đế Đại Thanh ta mới thoái vị mười mấy năm đã xảy ra chuyện thế này! Thật chẳng còn đạo lý nào nữa!”

Hay tin này, cả hai đều kinh hãi. Đông lăng nằm ở khe Mã Lan châu Tuân Hóa, bên trong chôn cất năm vị hoàng đế Thuận Trị, Khang Hi, Càn Long, Hàm Phong, Đồng Trị cùng mười bốn vị hoàng hậu kể cả hai vị Từ Hi và Từ An, chưa kể hơn trăm phi tần, là lăng mộ lớn nhất của tông thất nhà Thanh. Hoàng đế nhà Thanh thoái vị mười bảy năm song uy thế vẫn còn, bởi vậy tuy dân chúng đua nhau đi trộm mộ, nhưng chẳng kẻ nào dám đụng đến lăng mộ hoàng thất. Chẳng ngờ nay cuối cùng cũng nảy ra tên trộm đầu tiên cả gan dòm ngó Đông lăng.

Người Trung Quốc xưa nay cực kỳ xem trọng lăng tẩm, từ thời Tiên Tần đến thời Thanh, đào mồ quật mả đều được liệt vào tội lớn hạng nhất, trái nhân luân. Vậy mà giờ lại có kẻ coi trời bằng vung, định ra tay trộm mộ vua chúa, quả là đáng sợ.

“Tông thất chẳng phải vẫn có người chuyên giữ lăng đó sao?” Dược Thận Hành hỏi.

Dục Phương lắc đầu, “Ôi, nói ra thực xấu hổ. Phụ trách canh lăng là Dục Bành em ta, trước đó hắn từng tiếp đón một đoàn khảo sát từ Nhật sang, được người ta biếu mấy chai rượu Tây. Thế là thằng ngu ấy uống say túy lúy, bị người ta chặn trong phòng không dám ra ngoài. Mãi tới sáng hôm sau, bọn trộm cướp đi cả, hắn mới lò dò tìm tới Phủ tổng binh thị trấn Mã Lan, dẫn quân truy bắt. Nhưng hai vị biết đấy, thời buổi bây giờ quân lính chẳng bằng giặc cướp, Phủ tổng binh chỉ truy đuổi quấy quá cho xong, từ bấy chuyện này cũng chìm nghỉm.”

Dược Thận Hành thầm thở phào, nghe Phú Lão Công hết “can hệ trọng đại” lại tới “sự kiện đáng sợ”, cứ tưởng là âm mưu long trời lở đất thế nào, hóa ra chỉ là mộ một bà phi bị trộm. Nghĩ vậy, hắn bèn đưa mắt nhìn sang Hứa Nhất Thành, thấy y nghiêm túc lắng nghe, thái độ có vẻ nghiêm trọng thì không khỏi cười thầm: đúng là hạng gà mờ chưa trải sự đời, người trong giới cổ vật đã quen thấy cảnh này, chẳng lấy gì làm lạ, nếu không có đám đổ đấu thì đâu ra nguồn cung cấp cổ vật.

Hắn nào biết Hứa Nhất Thành kinh hãi là bởi một câu nói của Dục Phương.

Trước khi Đông lăng bị trộm, tông thất từng tiếp đãi một đoàn khảo sát Nhật Bản?

Nghĩ kỹ lại thì thời điểm đó vừa đúng lúc đoàn khảo sát phong tục China nọ tới Bắc Kinh. Hứa Nhất Thành gặng hỏi tên đoàn khảo sát kia, Dục Phương liền đáp là đoàn khảo sát phong tục China, trưởng đoàn họ Sakai.

Đoàn khảo sát vừa đi thì Đông lăng bị trộm. Quả là trùng hợp.

Kido Yuzo cũng nói lần này họ tới Trung Quốc chủ yếu là để khảo sát mộ táng, thậm chí dự định sẽ khai quật vài ngôi. Hứa Nhất Thành sực nhớ ra trên nửa mảnh giấy viết thư nọ có một chữ “lăng” viết ngoáy cùng dấu tay máu in hằn năm ngón. Một ý nghĩ hoang đường chợt hiện lên trong đầu y, nói không chừng hai thứ đó tượng trưng cho Đông lăng, nơi an táng năm vị đế vương.

Lẽ nào tin tức mà Trần Duy Lễ liều chết truyền đi là đám người Nhật Bản kia muốn nhòm ngó Đông lăng?

Thật quá hoang đường. Đông lăng là lăng mộ đế vương, khoan bàn tới chuyện này sẽ gây ra xung đột ngoại giao lớn chừng nào, chỉ xét riêng quy mô lăng mộ cũng thấy một đoàn khảo sát với mười mấy thầy giáo không thể nào khoắng xuể. Trừ phi… người Nhật âm thầm tài trợ chi phí và trang thiết bị, mua chuộc đám trộm mộ trong nước ra tay còn mình đứng sau ăn hàng. Trò này không mới, rất nhiều con buôn cổ vật trong nước cũng âm thầm chăn dắt bọn trộm mộ để chúng tuồn hàng cho mình, gọi là “nuôi dế nhũi”, một hình thức hợp tác khá thịnh hành hiện nay.

Nghĩ tới đó, Hứa Nhất Thành đặt chén trà xuống, hơi rướn người về phía trước, chăm chú nhìn Dục Phương, “Nếu chỉ vì ngôi mộ này, có lẽ ngài cũng chẳng phải gọi hai chúng tôi tới đây giữa đêm hôm khuya khoắt, sau đó còn có chuyện gì khác đúng không?”

Dục Phương cảm thán, “Hứa tiên sinh nói không sai. Sau khi lăng mộ bị trộm, Dục Bành thấy Phủ tổng binh chẳng buồn để tâm, bèn báo cáo với nha môn quản lý Đông lăng, rồi lại báo lên hoàng thượng ở Thiên Tân. Hoàng thượng nghe nói liền phục xuống đất khóc nức lên rồi triệu tập các nguyên lão lại bàn bạc, ban ra hai ý chỉ: một là sai tông thất bỏ tiền chôn cất lại cho Thục Thận hoàng quý phi, đồng thời giữ kín chuyện này; hai là tra rõ kẻ trộm mộ. Việc đầu tiên đã có mấy vị vương gia phụ trách, sắp xếp an táng lại rồi, còn việc thứ hai thì rơi xuống đầu ta. Ta tới hiện trường xem xét, thấy bọn chúng đào thông luôn lối vào mộ, cho nổ cửa đá từ phía chính diện rồi tiến thẳng vào địa cung, xung quanh không có dấu vết đào bới nào khác cả. Điều này có nghĩa là gì, hẳn hai vị hiểu chứ?”

Cả hai đều gật đầu. Trộm mộ có mấy cách, một là đào đường hầm tới phía trên mộ rồi đập vỡ tường mộ, gọi là “bắn đại bác”; hai là khơi thông lối vào hầm mộ, gọi là “xâu kim”. Cách đầu tiên khá phức tạp, nhưng chỉ cần dò biết đại khái vị trí mộ là được, cách thứ hai dễ dàng hơn, nhưng phải biết chính xác cửa mộ ở đâu. Theo lời Dục Phương, đám trộm mộ này đào một phát đã trúng ngay cửa mộ, mở được địa cung, không mảy may sai lệch, nhất định phải là kẻ thông thuộc đường lối trong Đông lăng thực hiện.

Dục Phương kể tiếp, “Sau khi khoắng đồ, bọn trộm mộ hoàn toàn mai danh ẩn tích, chẳng nghe phong thanh gì về những đồ bồi táng bị mất cả. Mãi hôm qua ta nghe nói nhà ông chủ Vương có ma, nghe tả hình dạng khánh đồng nọ mới hay đồ bồi táng cuối cùng cũng được tuồn ra bán, nên bèn phái Phú Lão Công đi xem thử. Nào ngờ đến sớm chẳng bằng đến đúng lúc, lại gặp được hai vị cao nhân trong Minh Nhãn Mai Hoa, quả là ý trời.”

Nói đoạn gã đứng dậy trịnh trọng vái một vái thật sâu, thành khẩn nói, “Từ lâu ta đã nghe nói Minh Nhãn Mai Hoa cầm cân nảy mực giới cổ vật kinh thành. Hy vọng hai vị ra tay giúp đỡ, điều tra lai lịch đám trộm mộ kia, để hàng con cháu chúng ta khỏi mang tiếng bất hiếu.”

Dược Thận Hành thầm nghĩ quả nhiên tay cựu thần triều Thanh này nhờ vả Minh Nhãn Mai Hoa giúp tìm ra kẻ trộm, không khỏi khó xử trong lòng.

Dựa vào mạng lưới quan hệ của Minh Nhãn Mai Hoa tại Bắc Kinh, muốn tìm xem đồ bồi táng Thục Thận hoàng quý phi đã được tuồn đi đâu thực chẳng khó khăn gì, hiềm một nỗi, xưa nay quan hệ giữa đám con buôn cổ vật và trộm mộ vô cùng phức tạp chồng chéo. Người trong giới cổ vật không công khai ủng hộ, song cũng không ngang nhiên phản đối hành vi trộm mộ, thường giữ thái độ bàng quan. Nếu Minh Nhãn Mai Hoa bắt tay tra xét, e rằng sẽ phá hỏng quy củ.

Dược Thận Hành ngẫm nghĩ rồi cười đáp, “Phú Lão Công quả thật trung thành, chuyện này với ông ấy quả là một sự kiện đáng sợ.” Nghe ra ý Dược Thận Hành muốn nói Minh Nhãn Mai Hoa không phải Phú Lão Công, không mang ơn triều Thanh nên chẳng cần vì một bà phi bắn đại bác mấy tầm chẳng đến mà đắc tội với người cùng nghề, mặt Dục Phương sầm xuống.

Lúc này Hứa Nhất Thành ngồi bên chợt lên tiếng hỏi, “E rằng Dục Phương tiên sinh sợ có kẻ lòng tham không đáy, thấy bở đào mãi phải không?”

Ánh mắt Dục Phương sắc lạnh, gã đáp ngay, “Đúng thế! Nếu chỉ riêng mộ Thục Thận hoàng quý phi thì cũng thôi. Nhưng chuyện gì cũng vậy, đã có một lần ắt có hai, có hai ắt có ba. Đám trộm mộ này gan lớn tày trời, lại thông thuộc Đông lăng, hôm nay đã quật mồ hoàng quý phi, không lý nào chịu dừng tay, chỉ tổ càng tham lam không biết đủ, ngày sau chưa chừng còn nhòm ngó đến lăng mộ hoàng đế. Nếu không kịp thời ngăn chúng lại, e rằng cả Đông lăng sẽ như trứng để đầu đẳng!”

Nói tới đó, hai mắt gã vằn tơ máu, đập bàn đánh rầm làm khánh đồng suýt nữa rơi xuống sàn, may mà Phú Lão Công nhanh tay đỡ lấy. Trông lão già lụ khụ như vậy, song động tác lại cực kỳ nhanh nhẹn.

Bấy giờ Dược Thận Hành mới nhận ra chuyện này nghiêm trọng nhường nào. Không sợ bị ăn cắp, chỉ sợ kẻ trộm rình mò. Toán trộm mộ này ngày nào còn chưa sa lưới thì Đông lăng còn chưa được yên ổn ngày đó. Nếu hoàng lăng Mãn Thanh bị trộm thật thì quả là trọng án long trời lở đất hàng đầu trong giới cổ vật từ thời Dân Quốc tới nay, e sẽ chấn động cả nước không chừng.

Dược Thận Hành liền hỏi, “Hành vi phạm tội nghiêm trọng như vậy sao không báo với chính phủ để giải quyết?” Vừa buột miệng hắn đã phì cười, giờ chính phủ ốc chưa mang nổi mình ốc, sức đâu mà lo đến xương cốt vua chúa triều trước? Vội chữa lại, “Dù chính phủ không quản, cũng có thể đăng báo để các đoàn thể quần chúng hô hào nhau bảo vệ Đông lăng, sao tông thất lại giữ kín?”

Dục Phương gượng cười, “Chúng ta nào dám làm ầm lên? Nếu lộ chuyện này ra, cũng ngang bằng cho cả thiên hạ biết Đông lăng đã không còn người canh giữ, vàng bạc đầy đất thả sức mà nhặt. Tới lúc đó trộm mộ rầm rập kéo đến, thế là Đông lăng tiêu tùng. Bởi vậy hoàng thượng đã căn dặn việc này phải bí mật điều tra, càng ít người biết càng tốt.”

Đến đây Dục Phương coi như đã trình bày hết toàn bộ sự việc. Tông thất muốn bắt kẻ trộm, nhưng lại sợ rút dây động rừng làm nhiều kẻ đổ đến hơn, đành âm thầm vời người trong nghề tới điều tra.

Dược Thận Hành hỏi, “Tông thất các vị ở kinh thành cũng có thần có thế, sao không tự điều tra mà phải tìm người ngoài?”

Dục Phương mân mê nhẫn ngọc trên tay, vẻ buồn bã chỉ hận rèn sắt không thành thép, “Đại Thanh suy tàn, tông thất cũng không còn điểm tựa. Lại lắm con cháu bất hiếu, vì thuốc phiện mà cả gan bán hết tổ tiên. Nếu ta huy động lực lượng của tông thất, để đám khốn kiếp ấy biết được Đông lăng cũng quật được, ắt còn đáng lo hơn.”

Than thở một hồi, Dục Phương lại nhìn Dược Thận Hành và Hứa Nhất Thành, “Thế nên nửa đêm mời các vị đến đây cũng là để giữ bí mật, chuyện này liên quan đến việc an nghỉ của tổ tông, Dục Phương không dám lỗ mãng. Chẳng hay ý các vị thế nào?”

Cả hai đều lặng thinh, chưa vội đáp ngay.

Thấy cả hai im lặng, Dục Phương bèn vỗ tay, a hoàn lập tức bưng vào hai con tỳ hưu ngọc, đặt trước mặt hai người. Chỉ thấy hai con đều xanh biếc, chất ngọc trong veo, thoạt trông đã biết là hàng tốt. Dục Phương nói, “Đây không phải thù lao, chỉ là chút quà cảm tạ hai vị nửa đêm ghé thăm. Nếu hai vị chịu giúp đỡ, tông thất chúng ta sẽ hậu tạ.”

Dược Thận Hành thoáng chần chừ, “Đây là việc lớn, tôi không dám tự quyết. Để tôi về bẩm với chưởng môn rồi xin trả lời ngài. Còn…” Hắn kéo dài giọng, nhìn sang Hứa Nhất Thành, “Về phần chú Thành đây, tôi cũng không dám phát biểu.” Ý hắn là Hứa Nhất Thành không liên quan gì tới Minh Nhãn Mai Hoa, không thể gộp chung vào được.

Dục Phương nhướng mày, không ngờ giữa hai người này còn có khúc mắc, bèn nhìn sang Hứa Nhất Thành. Hứa Nhất Thành thong dong phủi cổ áo, “Đây là việc trọng đại, tôi cũng phải cân nhắc đã.”

Dục Phương cũng không hy vọng họ nhận lời ngay, liền cười khà xòe quạt đánh phạch, phe phẩy mấy cái, “Dĩ nhiên rồi, hai vị cứ cân nhắc cho kỹ. Nhưng phải nhanh lên đấy. Ta chờ được chứ bọn trộm không đợi nổi đâu.” Dứt lời gã đưa mắt cho Phú Lão Công, Phú Lão Công khom lưng mời, “Muộn quá rồi, hai vị vào thành cũng không an toàn nữa. Chi bằng nghỉ lại đây một đêm, sáng mai hẵng đi.”

Trước lúc rời phòng, Hứa Nhất Thành thình lình hỏi Phú Lão Công, “Trong số đồ bồi táng bị mất, có thứ gì như kiếm báu không?” Phú Lão Công phật ý đáp, “Thục Thận hoàng quý phi ăn chay niệm Phật, sao có thể chôn theo những thứ hung hiểm như gươm đao được, xin đừng nói bậy!” Hứa Nhất Thành lại hỏi, “Vậy trong các lăng tẩm khác có gươm đao không?” Phú Lão Công trả lời, “Đại Thanh ta lấy võ mở nước, đao kiếm bồi táng không một nghìn cũng phải mấy trăm thanh. Anh hỏi chuyện này làm gì?”

Hứa Nhất Thành ậm ừ trả lời quấy quá cho qua. Đoàn khảo sát phong tục China đặc biệt hứng thú với kiếm Trung Quốc, Đông lăng lại nhiều đao kiếm như vậy, chưa chừng giữa hai chuyện này cũng có liên quan. Y đã bại lộ trước mặt Sakai Daisuke, không thể đi sâu điều tra được nữa, nếu có thể tìm hiểu ngọn nguồn thông qua vụ hôi của Đông lăng này, chưa chừng lại có cách thấy được chân tướng bằng con đường khác.

Ôm suy nghĩ ấy, y và Dược Thận Hành lần lượt được đưa tới nghỉ ở hai gian phòng cho khách, cả hai chẳng nói với nhau câu nào.

Qua một đêm, tới sáng hôm sau, hai người trở dậy, dùng bữa sáng rồi từ biệt Dục Phương và Phú Lão Công. Ra khỏi cửa, còn chưa kịp lên xe ngựa, họ đã nghe đằng xa có tiếng động cơ ầm ì rồi một chiếc xe tải hai màu đen trắng băng băng chạy đến đỗ xịch ngay cạnh xe ngựa. Hai thớt ngựa bồn chồn đá hậu liên tục, mãi tay đánh xe mới vỗ yên được.

Năm sáu cảnh sát rầm rập nhảy từ phía sau xe tải xuống, bao vây cổng nhà. Gã cảnh sát dẫn đầu không cao, cằm nhọn, song ánh mắt lại lạnh lùng như sói. Hắn đi đến trước mặt Dục Phương, thẳng thừng hỏi, “Ông là Dục Phương?” Dục Phương chắp tay, “Cảnh sát Cao Bi Điếm tôi đều quen mặt cả, sao lại chưa gặp anh đây bao giờ?” Tay cảnh sát cười nhạt, không trả lời gã mà cứ thế nói tiếp, “Có người báo rằng chỗ ông có kẻ bắt cóc hành hung.”

Dục Phương biết ngay cảnh sát đến vì chuyện của hai người Minh Nhãn Mai Hoa, vội giải thích, “Là hiểu lầm thôi, hai vị đây đều là bạn tôi, tôi mời họ tới nói chuyện.” Tay cảnh sát hừ giọng, nhìn sang Hứa Nhất Thành. Hứa Nhất Thành xác nhận, “Đúng là không phải bắt cóc.”

Y nói mập mờ, phủ nhận việc bắt cóc, song cũng không thừa nhận là được mời đến. Kẻ kia chắp tay sau lưng nhìn quanh, đột nhiên ồ một tiếng rồi ngẩng phắt lên, trỏ hình chạm trổ trên xe ngựa hỏi, “Song long à? Ông là người của đảng Tông Xã?”

Câu này vừa thốt ra, cả Dục Phương, Phú Lão Công lẫn Dược Thận Hành đều tái mặt.

Đảng Tông Xã còn gọi là Hội ủng hộ Quân chủ lập hiến, một tổ chức cuối thời Thanh, do những con cháu quý tộc Mãn Thanh không cam lòng thấy vương triều sụp đổ tập hợp lại mà thành, lấy song long làm biểu tượng, một lòng muốn khôi phục đế chế. Sau khi thành viên cốt cán là Lương Bật bị Hội đồng minh đánh bom chết, tổ chức này cũng tan rã. Về sau Thiện Kỳ xây dựng lại đảng Tông Xã tại Nhật, rắp tâm khởi sự ở Đông Bắc, kết quả lại dính vào vụ ám sát Trương Tác Lâm nên bị cưỡng chế giải tán. Sau khi quân phiệt Phụng Thiên kéo vào quan ải, Trương Tác Lâm vẫn ghi thù, quy đảng Tông Xã là phản động, trị cho các tông thất ở Thiên Tân và Bắc Kinh một mẻ ra trò.

Nghe tay cảnh sát nói vậy, Dục Phương vội giơ tay chỉ, “Quan trên ngài xem, ở giữa hai con rồng còn một hạt trân châu, đây gọi là song long hí châu, không liên quan gì tới đảng Tông Xã cả.” Tay cảnh sát nheo mắt nhìn, “Hạt châu trông mới quá nhỉ, có phải mới gắn vào không?”

“Đâu có.” Dục Phương len lén dúi cho hắn một chiếc vòng tay ngọc trai, tên cảnh sát cũng chẳng khách sáo, cầm ngay lấy nhét vào túi ngực rồi nhìn sang Phú Lão Công. Phú Lão Công trừng mắt nhìn hắn, hai tên hộ vệ đi theo đưa tay định rút súng, nào ngờ kẻ nọ còn nhanh hơn, soạt một tiếng đã chĩa súng vào đầu Dục Phương, gằn từng tiếng, “Định làm phản à? Các người tưởng thành Bắc Kinh hiện giờ không còn pháp luật nữa phỏng?”

Dục Phương gượng cười lắc đầu, “Những tông thất có ý đồ đã bị Phùng Ngọc Tường trừ bỏ từ dạo Trương Huân* ủng hộ nhà vua lấy lại ngai vàng rồi, số còn lại chỉ muốn sống yên ổn. Ngoài một lòng trông giữ lăng mộ tổ tông, chúng tôi chẳng mong gì khác.” Tay cảnh sát cười nhạt, “Thế thì tốt.” Đoạn thu súng, vẫy tay nói, “Đi thôi.”

❖ Trương Huân (1854-1923), một viên tướng trung thành với nhà Thanh, từng cố gắng khôi phục ngai vàng cho Phổ Nghi nhưng không thành công.

Hứa Nhất Thành và Dược Thận Hành theo toán cảnh sát lên xe tải đi thẳng. Nhân lúc xe tải quay đầu, Phú Lão Công thấy trên ghế lái phụ có một thiếu niên nhang nhác Lưu Nhất Minh, liền hiểu ra ngay đây là quân cứu viện Hứa Nhất Thành gọi tới.

“Tay Hứa Nhất Thành này đúng là không biết tốt xấu. Chúng ta tiếp đãi lễ độ, vậy mà hắn lại dẫn cảnh sát tới bao vây bắt chẹt!” Phú Lão Công hậm hực.

Song Dục Phương chẳng những không nổi giận, trái lại còn gật gù, “May mà chúng ta tiếp đãi lễ độ, bằng không đây chính là kế thoát của hắn. Tối qua trong lúc trò chuyện, Hứa Nhất Thành chỉ nói vài câu, song toàn hỏi trúng điểm mấu chốt, ngươi thấy không? Trông tầm nhìn và thủ đoạn đủ biết kẻ này không phải dạng vừa.”

Nhìn theo chiếc xe chạy xa dần, gã lại cọ hai ngón tay lên nhẫn ngọc, chẳng hiểu đang nghĩ chuyện gì.

Xe chạy được mấy cây số, Hứa Nhất Thành mới quay sang chắp tay với viên cảnh sát mặt lạnh nọ, “Làm phiền thanh tra Phó Quý rồi.” Phó Quý chẳng buồn ngước lên, chỉ tựa người vào thùng xe, lạnh lùng đáp, “Cậu nói một câu mà làm mấy anh em chúng tôi tất bật cả nửa đêm, sáng sớm nay mới lần được đến đây đấy.”

Hứa Nhất Thành cười cầu hòa, “Mai tôi xin khao các vị một bữa ở nhà hàng Hồng Tân vậy.” Phó Quý xua tay, “Thôi thôi, tôi không đi đâu. Nói cho cậu biết, không có lần thứ hai đâu nhé.” Hứa Nhất Thành lấy tỳ hưu ngọc ra đưa cho Phó Quý, “Hàng tốt đây, anh cho anh em cầm đi uống trà.” Phó Quý trợn mắt, “Cậu mà đưa, lần sau tôi sẽ thu phí theo giá này đấy.” Song Hứa Nhất Thành cứ dúi vào túi hắn cười nói, “Anh chẳng bảo không có lần sau nữa còn gì.”

Phó Quý bất đắc dĩ bèn ném tỳ hưu cho tay thuộc hạ, dặn bán đi rồi chia nhau, đám cảnh sát liền ồ lên hoan hô.

Xe chạy rất nhanh, gió thổi thốc vào khoang sau, Phó Quý giữ chặt vành mũ cảnh sát, bảo Hứa Nhất Thành, “Giờ thời cuộc rối ren, Sở Cảnh sát cũng không chống giữ được cục diện, về sau cậu bơn bớt đến những chỗ lai lịch bất minh thế này đi. Vợ cậu sắp sinh rồi, phải cẩn thận chứ.” Hứa Nhất Thành cười khì, không giấu được vẻ đắc ý.

Lưu Nhất Minh ngồi ghế phụ lái, nghe tiếng hai người chuyện trò vẳng qua cửa sổ, nghĩ bụng chắc Phó Quý này là người bạn ở Sở Cảnh sát mà chú Thành nói đây.

Tối qua theo lời dặn của Hứa Nhất Thành, cậu đã đến Dự Vương Phủ. Nơi này không phải phủ đệ của vương gia triều Thanh mà là bệnh viện Liên Hiệp ở Đông Đơn, được xây dựng bằng khoản quyên trợ của vua dầu lửa Rockefeller trên đất phủ Dự thân vương trước đây nên dân Bắc Kinh vẫn quen gọi là Dự Vương Phủ. Vợ Hứa Nhất Thành làm y tá tại bệnh viện Liên Hiệp. Lưu Nhất Minh đến nơi, thấy một phụ nữ bụng bầu phải đến bảy tám tháng vẫn còn trực đêm thì không khỏi kinh ngạc, bởi thời buổi này rất ít người chịu để vợ ra ngoài làm việc, huống hồ lại còn làm y tá.

Vợ Hứa Nhất Thành vừa nghe Lưu Nhất Minh thuật lại đầu đuôi vừa lúi húi viết bệnh án. Nghe xong, chị gọi điện cho Phó Quý, chỉ nói vắn tắt mấy câu rồi cụp máy, tiếp tục làm việc, chẳng mảy may lo lắng. Lưu Nhất Minh tò mò hỏi “Cô không lo cho chú sao”, chị chỉ sờ bụng, bình thản đáp, “Anh ấy là Hứa Nhất Thành nên sẽ không việc gì đâu.” Lòng tin tưởng cùng thái độ bình tĩnh của chị khiến Lưu Nhất Minh phục sát đất.

Cuộc sống của Hứa Nhất Thành khác hẳn những người khác trong Minh Nhãn Mai Hoa. Càng hiểu nhiều lại càng thấy đôi bên cách nhau trời vực. Lưu Nhất Minh thậm chí nhận thấy mình chẳng những không thể kéo Hứa Nhất Thành về gần với Minh Nhãn Mai Hoa, mà bản thân còn bị kéo ra xa theo y. Nghĩ tới đó, cậu nhắm nghiền mắt lại, tựa đầu vào cửa sổ, lắc lư theo nhịp xe tròng trành.

Thấy xe sắp chạy vào cổng Triều Dương, Phó Quý hỏi Hứa Nhất Thành đi đâu. Hứa Nhất Thành nhìn sang Dược Thận Hành, “Tôi vẫn còn chút việc, anh đưa cả hai chúng tôi về Minh Nhãn Mai Hoa đi. Anh Hành, mấy hôm nay cụ Thẩm ở đâu?”

Dược Thận Hành vẫn ngồi im trong khoang xe không nói năng gì, nghe Hứa Nhất Thành hỏi mới lên tiếng đáp, “Mấy hôm nay ông ấy giữ ải ở Tố Đỉnh Các.”

Tuy Minh Nhãn Mai Hoa chủ yếu lo việc giám định, song cũng có sản nghiệp riêng, Bắc Kinh, Thiên Tân, Hà Nam, Thiểm Tây v.v… đều có tiệm đồ cổ, thông thường đều do cao thủ coi giữ, gọi là giữ ải. Tố Đỉnh Các này là một cửa tiệm khá lớn của Minh Nhãn Mai Hoa trong thành Bắc Kinh, nằm tại Lưu Ly Xưởng. Tuy Thẩm Mặc đã gần tám mươi, song thỉnh thoảng cũng ghé qua trông coi mấy cửa tiệm quan trọng.

Phó Quý chẳng buồn nhìn Dược Thận Hành, lệnh cho tài xế lái thẳng tới đó. Đường sá ở Lưu Ly Xưởng khá hẹp, xe qua lại hơi bất tiện nên đành dừng ở đầu đường. Hứa Nhất Thành, Dược Thận Hành, Lưu Nhất Minh đi bộ vào, còn Phó Quý dẫn người về Sở Cảnh sát.

Lưu Ly Xưởng vốn là nơi quy tập cổ vật số một trong kinh thành, hằng ngày rất đông nhã khách lui tới. Giờ can qua nổi lên, Lưu Ly Xưởng cũng không còn nhộn nhịp như trước. Người ta vẫn đổ đến đây, song đa phần là nhớn nhác bán đồ lấy tiền mặt, chẳng còn mấy khách nhàn nhã ghé mua. Đây là thời điểm tốt để gom hàng, nhưng nếu chỉ mua vào không bán ra được thì các chủ tiệm cũng lo ngay ngáy. Quạ đậu trên cột điện kêu quang quác, khiến quang cảnh tấp nập nhuốm thêm mấy phần quạnh quẽ.

Ba người đến Tố Đỉnh Các, hỏi thăm cậu chạy vặt rồi Lưu Nhất Minh ở lại bên ngoài, còn hai người kia đi thẳng vào trong. Thẩm Mặc đang ngồi trước bàn, cầm kính lúp săm soi một miếng ngọc chạm hình rồng cuộn, thấy Dược Thận Hành và Hứa Nhất Thành cùng vào thì không khỏi sững người, chẳng biết hai người này đi với nhau từ khi nào?

Thẩm Mặc mời cả hai ngồi rồi đặt miếng ngọc xuống, cảm thán, “ Cái kính lúp này hay thật, soi là thấy hết đường mài trên ngọc, hơn hẳn mắt người. Có điều…” Dược Thận Hành nhanh nhẹn tiếp lời, “Có điều cái căn bản là con người chứ không phải kỹ thuật. Dụng cụ chỉ là phương pháp, suy cho cùng vẫn phải rèn luyện bản thân mới có ngày thành tài được.” Thẩm Mặc cười, “Anh nhớ kỹ nhỉ.” Dược Thận Hành đáp, “Lời chưởng môn đã dạy, không lúc nào dám quên.”

Sau mấy câu hàn huyên, Thẩm Mặc hỏi hai người có việc gì. Dược Thận Hành bèn thuật lại chuyện hôi của Đông lăng và tông thất nhờ vả, lấy cả tỳ hưu ngọc Dục Phương tặng đặt lên bàn, nói rằng để chưởng môn định đoạt. Thẩm Mặc hai tay vịn gậy, lặng thinh không nói.

Đào mồ quật mả là tội lớn, nhưng với con buôn cổ vật lại chẳng phải chuyện gì to tát. Hàng chống gỉ chỉ có bấy nhiêu, nếu không có hàng gỉ* quật dưới mộ lên thì việc buôn bán cổ vật không thể mở mang được. Nhưng đẳng cấp Đông lăng không thể xem thường. Nếu tin này hở ra, dư luận nhất định sẽ xôn xao, bất luận chính phủ nào cũng phải tra xét thật nghiêm. Lần này Minh Nhãn Mai Hoa ra tay sẽ dính líu đến lợi ích đủ mọi mặt, không thể không thận trọng.

❖ Kim loại khi chôn dưới đất qua nhiều phản ứng hóa học sẽ bị biến chất, trở nên hoen gỉ. Sau khi đào lên người ta phải xử lý bằng hóa chất để loại bỏ gỉ và chống gỉ sét hao mòn, có vậy mới bảo tồn được lâu dài. Ở đây tiếng lóng trong giới buôn đồ cổ gọi những cổ vật đã được khai quật là hàng chống gỉ, ý rằng đã được xử lý bảo tồn, còn những cổ vật vẫn chưa được khai quật là hàng gỉ, vì vẫn đang chôn dưới đất, chịu tác động oxi hóa.

Thẩm Mặc nghĩ ngợi một lát rồi nhướng mắt hỏi, “Hai anh thấy thế nào?”

Trên đường về, Dược Thận Hành đã suy xét kỹ càng, bèn đáp, “Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta xưa nay giám định cổ vật chỉ nhìn thật giả, không hỏi lai lịch. Dù là của gia truyền, chôn giấu hay trộm cướp, đều không liên quan đến chúng ta. Lần này tông thất nhà Thanh nhờ vả, nếu ta làm tốt sẽ được lợi không nhỏ, song nhỡ làm hỏng thì sẽ bị kéo vào vụ án long trời lở đất, không khéo lại thành bia đỡ đạn.” Nói tới đó, hắn ngả người về trước, vẻ lo âu, “Huống hồ toán cướp đó đã dám trộm cả Đông lăng, hẳn là không sợ chết. Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta làm ăn đàng hoàng, nay lại đi đập vỡ bát cơm của người ta, có khác gì giết cha mẹ họ không.”

Thẩm Mặc không tỏ thái độ gì, quay sang hỏi ý Hứa Nhất Thành. Hứa Nhất Thành hơi ngước lên, nửa cười nửa không, “Vụ trộm Đông lăng này chưa chắc đã đơn giản như ta tưởng, không chừng đằng sau còn dính líu đến cả người Nhật nữa.”

Thẩm Mặc và Dược Thận Hành ngẩn người, sao chuyện này lại liên quan đến cả người Nhật được?

Hứa Nhất Thành chậm rãi thuật lại cái chết ly kỳ của Trần Duy Lễ rồi lấy nửa mảnh thư ra, “Tôi nghi dấu năm ngón tay máu và chữ ‘lăng’ này ám chỉ Đông lăng, nơi an táng năm vị hoàng đế Mãn Thanh. Nếu chúng ta lần theo manh mối ấy, chưa chừng có thể tra ra được mối liên hệ giữa đám trộm nọ và người Nhật, làm rõ sự thật cái chết của Duy Lễ. Về việc này, tôi cần mượn thế lực Minh Nhãn Mai Hoa.”

Dược Thận Hành bực bội, “Chỉ vì muốn báo thù cho bạn chú mà kéo cả Minh Nhãn Mai Hoa vào nguy hiểm ư?”

Hứa Nhất Thành cao giọng, “Anh vẫn chưa hiểu à? Duy Lễ liều chết đưa tin, chứng tỏ việc này không chỉ đơn giản là ân oán cá nhân nữa, mà có lẽ còn liên quan đến sự an nguy của cả Đông lăng đấy!”

Dược Thận Hành cười ha hả, “Chú nghĩ lạ thật đấy, tôi từng tiếp xúc với người Nhật, thấy họ rất lịch thiệp lễ độ, đâu có chuyện nhòm ngó Đông lăng?”

Hứa Nhất Thành cười nhạt, “Mấy năm nay họ nhòm ngó ta còn ít ư? Kosaku Hamada ở Lữ Thuận, Matsumoto Nobuhiro, Nishioka Hideo ở Giang Chiết, đội khảo sát Trung Á của Otani ở Tân Cương, Torii Ryuzo ở Liêu Đông, Tadashi Sekino ở động đá Long Môn, Tokiwa Daijo ở chùa Hưởng Đường… Anh có biết mỗi năm phía Nhật Bản phái bao nhiêu người sang Trung Quốc trộm cắp dưới danh nghĩa khảo cổ không?”

Những cái tên y liệt kê đều là những cuộc khảo cổ nổi tiếng của học giả Nhật tại Trung Quốc mười mấy năm đổ lại đây, cuộc nào cũng làm rúng động giới học thuật Trung Quốc, khiến người ta ngậm ngùi than thở. Hứa Nhất Thành theo học Lý Tế, người vốn hết sức đau xót trước cảnh các di tích của nước nhà bị đào bới vô tội vạ nên bản thân y lúc nào cũng canh cánh trong lòng những vụ việc này.

Dược Thận Hành phản bác, “Người Nhật muốn tới lấy thì lấy, muốn mua thì mua, chúng ta có mất mát gì đâu, thuận mua vừa bán thôi mà.”

Hứa Nhất Thành quay sang Dược Thận Hành, vẻ mặt nghiêm nghị chưa từng có, “Anh nhầm rồi. Đây không phải thuận mua vừa bán, mà là đào gốc trốc rễ người Trung Quốc chúng ta!”

Thấy y nói quá nghiêm trọng, Thẩm Mặc nhíu mày, “Ý cậu là…” Hứa Nhất Thành nghiêm mặt đáp, “Cụ Thẩm, việc này nhất định phải tra xét. Về công về tư, chúng ta không thể bàng quan được.”

Dược Thận Hành cười, “Chú tận tụy như thế, xem ra là lòng hướng về nhà Thanh rồi, tại Dục Phương ra tay rộng rãi với chú quá hả?” Hứa Nhất Thành từ từ đứng dậy, nhìn chằm chằm Dược Thận Hành, đập bàn đanh giọng, “Đông lăng tuy là lăng tẩm của hoàng đế Mãn Châu, nhưng giờ đã là thời Dân Quốc, nó thuộc về nhân dân. Thấy kẻ trộm đột nhập cướp bóc mà anh khoanh tay đứng nhìn được sao?”

Giọng y không lớn, song nghe âm vang trong phòng, lời lẽ khẩn thiết, khiến Dược Thận Hành không nén nổi tức giận, sầm mặt vặc lại, “Ăn nói hùng hồn quá nhỉ, đừng tưởng tôi không biết nhé. Cái môn khảo cổ khảo cứu gì đó chú học ở Thanh Hoa, chẳng phải là trộm mộ à, chẳng qua nói hoa mỹ lên thôi. Lão Lý Tế thầy chú chẳng đào bới lung tung khắp nơi đấy ư?”

“Mông muội.” Hứa Nhất Thành buông một câu.

Thẩm Mặc giơ tay ngăn hai người cãi vã, trầm tư giây lát rồi chậm rãi lên tiếng, “Cả hai đều có lý cả. Thế này đi, Nhất Thành, việc ở Đông lăng giao cho cậu đấy. Nếu cần Minh Nhãn Mai Hoa hỗ trợ thì cứ bảo Thận Hành phối hợp.”

Thẩm Mặc chỉ nói mập mờ, nhưng cả hai đều hiểu. Quyết định này rõ ràng thiên vị. Tháng Tám này là đại thọ tám mươi của Thẩm Mặc, trong tiệc mừng thọ ông ta sẽ chuyển giao quyền lực, trong giai đoạn mấu chốt này, Dược Thận Hành chẳng cần lập công, chỉ mong không mắc lỗi. Hứa Nhất Thành và Minh Nhãn Mai Hoa khi gần khi xa, nếu thất bại thì một mình y phải gánh chịu, nếu thành công thì tông thất lại mang ơn Minh Nhãn Mai Hoa. Về phần Minh Nhãn Mai Hoa hỗ trợ được Hứa Nhất Thành bao nhiêu, thì phải xem tâm trạng Dược Thận Hành.

Hứa Nhất Thành đã lường trước được kết cục này nên cũng chẳng mất công khuyên thêm, cao giọng nói, “Nhất Thành không dám đại diện cho Minh Nhãn Mai Hoa, nhưng tôi đã hứa với Duy Lễ sẽ tra xét việc này đến cùng, tới chết mới thôi.” Đoạn y đẩy cửa đi thẳng.

Trông cánh cửa vẫn rung rung, Dược Thận Hành và Thẩm Mặc nhìn nhau, vẻ mặt đầy phức tạp. Cả hai không ngờ Hứa Nhất Thành vừa nghe nói Minh Nhãn Mai Hoa không muốn nhúng tay vào đã bỏ đi luôn, chẳng mảy may luyến tiếc.

“Tính nó từ nhỏ đã thế, thích cái gì là hết lòng hết sức, còn đã không thích thì chẳng thèm nhìn đến nửa con mắt. Quá cực đoan, không hợp với đạo trung dung…” Thẩm Mặc cảm thán, giọng điệu chẳng biết là buồn bã hay cảm khái.

Trong phòng lặng phắc hồi lâu. Thẩm Mặc cầm kính lúp lên, chần chừ giây lát rồi lại bỏ vào hộp, thở dài, “Món đồ Tây này tuy tiện dụng nhưng rốt cuộc vẫn là phụ thuộc vào dụng cụ mà bỏ bê trau dồi bản thân, không dùng thì hơn.” Ông ta lẩy bẩy đứng dậy rồi cầm miếng ngọc chạm rồng cuộn lên, giao cho Dược Thận Hành, “Thận Hành, anh nghĩ thế nào về vụ Đông lăng? Nói thực ta nghe.”

Dược Thận Hành buông hai chữ, “Nguy hiểm.”

Thẩm Mặc nhắm nghiền mắt lại nói, “Đến anh còn nhận ra được, chẳng lẽ Nhất Thành… nhìn không ra?” Dược Thận Hành chợt sinh lòng đố kỵ, chưởng môn lấy Minh Nhãn Mai Hoa làm trọng, muốn nâng đỡ mình lên, nhưng xem chừng trong lòng ông ta lại thích Hứa Nhất Thành hơn cả.

Đúng lúc này bỗng nghe một tiếng tách rất khẽ. Hai người giật mình phát hiện âm thanh đó phát ra từ con tỳ hưu đặt trong góc phòng. Dược Thận Hành cầm lên xem, vừa nhìn đã tái mặt.

Thần thú tránh tà bằng ngọc nọ bỗng đâu lại nứt một vết ở đầu, như là điềm gở.