Chương 2 Huyết thư
Mấy ngày nay dân Bắc Kinh bồn chồn không yên, lúc thì nghe nói quân phương Nam đã đánh đến Thương Châu, lúc lại nghe Đông Bắc đã điều mấy nghìn lính Phụng Thiên và mấy toa tàu toàn súng ống đạn dược chi viện, thậm chí còn có lời đồn Phổ Nghi ở Thiên Tân đã vời người Tây đến, lại tập hợp liên quân tám nước đổ bộ vào Thiên Tân, khí thế bừng bừng kéo về Bắc Kinh khôi phục đế chế. Giả thuyết hoang đường tới đâu cũng có, cộng thêm trận gió Hoàng sát quái lạ, khiến dân chúng nơm nớp lo sợ. Tháng Năm độc năm nay xem chừng độc hơi quá.
Lúc Phương Lão Sơn quay về thành, trời đã nhá nhem tối, lão không đi đường cái mà lẩn lút trong ngõ hẻm, hễ thấy bóng người là nép mình vào góc tường, chỉ sợ chạm mặt người quen và lính Phụng Thiên. Gặp người quen sợ nhờ vả, gặp lính Phụng Thiên sợ cướp bóc, thời nay chỉ có mạng mình là quan trọng nhất.
Phương Lão Sơn là dân Bắc Kinh gốc, mấy năm nay đã thấy không ít chiến loạn, kinh nghiệm phong phú, tự biết một khi can qua nổi lên, sợ nhất là nạn đói. Thế nên vừa nghe nói sắp đánh nhau, lão đã tất tả chạy ra ngoài thành, mua của nhà nông ở ngoại ô hai cây củ cải, một bó cải thìa, cả hai con cá sông chỉ nhỉnh hơn ngón tay, lấy dây thừng xâu lại xách lủng lẳng. Nếu thực sự đánh nhau, phong tỏa thành Bắc Kinh thì chút thức ăn này vẫn đủ để cả nhà cầm cự mấy ngày, nghĩ vậy Phương Lão Sơn cũng vững dạ hơn.
Sắp đến cửa nhà, Phương Lão Sơn chợt thấy phía trước thấp thoáng bóng người đang chân thấp chân cao tiến về phía mình, dáng đi cực kỳ quái dị. Phương Lão Sơn kinh hãi nghĩ thầm, lẽ nào là ma vất vưởng trong ngõ. Dân Bắc Kinh truyền tai nhau rằng linh hồn những kẻ chết đường chết chợ muốn về nhà, nhưng không nhớ nổi đường, đành lang thang vất vưởng khắp hang cùng ngõ hẻm. Nếu người đi đường đụng phải thì không được nói chuyện với nó mà phải mau mau cúi đầu đi qua, bằng không để nó đi theo thì rắc rối to.
Phương Lão Sơn lập tức cúi đầu nín thở đi thẳng. Lúc hai bên sắp đi lướt qua nhau, kẻ kia chợt hộc lên một tiếng, vươn tay ra toan ôm lấy Phương Lão Sơn, khiến lão kinh hãi ném luôn mớ đồ ăn trong tay, quay lưng chạy trối chết. Kẻ kia đuổi theo mấy bước rồi ngã bịch xuống đất.
Phương Lão Sơn ngoái đầu, thấy hắn nằm im không nhúc nhích thì đánh bạo vòng lại. Lão ngồi xuống, sờ gáy kẻ nọ, thấy âm ấm mới dám tin đó không phải ma mà là một người đang sống sờ sờ. Thấy kẻ nọ chẳng ừ hử gì, lão chợt nảy lòng tham, thầm nghĩ nếu lột bộ đồ này đem đến hàng quần áo, có khi cũng đổi được mấy đồng.
Phương Lão Sơn do dự giây lát, đang định thò tay lột thì kẻ kia thình lình ngóc đầu dậy, khiến lão rú lên ngồi bệt xuống đất, ê hết cả mông.
Té ra đó là một thanh niên mặt xám ngoét, thần sắc héo hon. Cậu ta hổn hển nói, “Phiền bác… đưa thứ này đến trường Thanh Hoa cho Hứa Nhất Thành.” Phương Lão Sơn thấy trong tay cậu ta là một tờ giấy trắng, phía trên còn dính máu nên không dám nhận lấy. Người kia lộ vẻ khẩn cầu, “Sẽ hậu tạ, hậu tạ…” Cậu ta hơi rướn người, như muốn nhấn mạnh. Phương Lão Sơn vội nói để tôi đi tìm thầy thuốc cho cậu, song người kia chỉ khẩn khoản, “Bác nhất định phải đưa đến đấy, bằng không sẽ không…” Chưa kịp nói hết câu, cậu ta đã không gượng nổi nữa, lăn ra đất tắt thở.
Đột nhiên đầu kia con ngõ vang lên tiếng chân rầm rập, phải đến cả toán người. Phương Lão Sơn bật dậy như lò xo, chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, giật lấy mảnh giấy từ tay cậu thanh niên rồi chạy thẳng tới cửa nhà. Lão lật đật mở khóa chui vào, đoạn khẽ khàng khép cửa lại, nhòm qua khe cửa ra ngoài.
Mấy bóng người từ xa chạy đến, trông cách ăn mặc thì đều là lính Phụng Thiên, song nhanh nhẹn hơn nhiều. Một tên trong bọn cầm đèn pin soi từ đầu xuống chân cái xác rồi lia cả sang xung quanh. Kẻ này cao gầy, đằng đằng sát khí, khiến Phương Lão Sơn trông mà phát khiếp, chẳng dám thở mạnh. Hắn ngồi thụp xuống lục soát khắp người cái xác, đứng dậy hạ giọng nói vài câu với mấy tên xung quanh bằng thứ tiếng lạ hoắc, đoạn khiêng thi thể, lẳng lặng bỏ đi.
Mồ hôi lạnh đầm đìa cả sống lưng, Phương Lão Sơn cúi xuống nhìn mới nhận ra vừa rồi mình giật vội nên chỉ cầm được nửa mảnh giấy, không khỏi giật bắn người. Lão vẫn hy vọng có thể cầm mảnh giấy tới Thanh Hoa lấy tiền thưởng, vội mở ra xem, thấy đó là loại giấy viết thư, bên trên nguệch ngoạc một chữ “lăng”, cạnh đó là một dấu tay máu đỏ lòm, thấy rõ cả năm ngón. Nửa còn lại chắc vẫn còn chữ, song đã bị đám người kia lấy đi rồi.
Phương Lão Sơn hết sức rầu rĩ, biết thế đã không giật mạnh tay, chẳng rõ nửa mảnh giấy này có đổi được tiền không nữa. Lão trằn trọc cả đêm, càng nghĩ càng tiếc của, đến trưa hôm sau thì quyết định đến trường Thanh Hoa thử vận may.
Trong ngoài thành Bắc Kinh đều rối ren, trường Thanh Hoa cũng trong tình trạng hỗn loạn. Dăm tên lính canh biếng nhác tựa vào mấy bao cát trước cổng trường, uể oải gieo súc sắc; vài nam sinh vận áo dài giương băng rôn trắng, hăng hái trình bày luận cương cách mạng trước đám đông vây quanh; một toán nữ sinh ôm sách hối hả đi qua, giấy vụn và cờ quạt vương vãi đầy đất, chẳng ai quét dọn.
Phương Lão Sơn hỏi thăm khắp lượt, cuối cùng cũng nghe ngóng được Hứa Nhất Thành ở Viện nghiên cứu Quốc học Thanh Hoa. Viện nghiên cứu Quốc học có trụ sở riêng, nằm về phía Đông hồ Vị Danh, là một tòa nhà hai tầng màu trắng theo phong cách phương Tây. Dưới hiên nhà được bao quanh bởi cây bụi và hoa cỏ đủ màu, bờ tường tả tơi dây thì là và thường xuân, đó là vết tích cơn bão cát mấy hôm trước để lại.
Được người ta chỉ đường, lão tìm đến văn phòng tầng một, vừa bước vào đã giật cả mình. Ngay mặt tường quay ra cửa dán một bức hình giải phẫu cơ thể người, trên bàn còn đặt một chiếc đầu lâu. Bốn bề ngổn ngang nào đá, nào đồ gốm, ảnh chụp và các sách vở tiếng Tây, ngoài ra còn lỏng chỏng không ít vật dụng lạ lùng. Một người đang cắm cúi ngồi trước bàn làm việc, nghe tiếng bước chân liền ngẩng lên, hòa nhã hỏi lão có việc gì.
“ À tôi tìm anh Hứa Nhất Thành.” Phương Lão Sơn khom người nói. Người kia đáp, tôi là Hứa Nhất Thành đây. Phương Lão Sơn liền nói có người nhờ tôi đưa thư cho anh. Hứa Nhất Thành đặt bút máy xuống, nhìn lão vẻ nghi hoặc. Phương Lão Sơn cũng chẳng khách sáo, tông tốc kể hết chuyện tối qua cho y.
Nghe xong, Hứa Nhất Thành nhíu mày, hỏi han cặn kẽ mặt mũi kẻ nọ. Phương Lão Sơn đáp, “Mặt trái xoan, mũi cao, hai mắt cách xa nhau, à, phải rồi, trán rất rộng.” Hứa Nhất Thành đảo mắt, lấy trong ngăn kéo ra một tấm ảnh, hỏi Phương Lão Sơn có nhận ra được không. Phương Lão Sơn thấy đó là một tấm ảnh tập thể khoảng mươi người. Lão nhìn khắp lượt rồi trỏ một trong số họ, “Đây, chính là người này.” Hứa Nhất Thành nhắm mắt, hít vào một hơi, bàn tay bưng chén trà run run, hồi lâu mới khó nhọc lên tiếng hỏi, “Thư đâu?”
Phương Lão Sơn móc nửa mảnh giấy trắng gập kỹ nhét trong ngực áo ra, song không vội đưa ngay. Hứa Nhất Thành hiểu ý, bèn quăng cho lão một nắm tiền xu. Phương Lão Sơn hớn hở nhận lấy đếm thật kỹ, nhìn sắc mặt Hứa Nhất Thành rồi vội làm bộ xót xa, cung kính đặt mảnh giấy lên bàn.
Hứa Nhất Thành mở mảnh giấy ra xem, chậm rãi hỏi, “Trước lúc lâm chung cậu ta còn nói gì không?” “Không.” Phương Lão Sơn đáp. Hứa Nhất Thành lại ném thêm mấy đồng, Phương Lão Sơn được tiền mới chịu nhả ra vài chữ, “Cậu ta dặn nhất định phải đưa cho anh, bằng không sẽ không kịp.” Hứa Nhất Thành lại hỏi, “Không kịp cái gì?” Phương Lão Sơn rầu rĩ đáp, “Chuyện này tôi không biết…”
Thấy Hứa Nhất Thành nhìn mình chằm chằm, Phương Lão Sơn sợ hãi xua tay, “Tôi không biết thật mà, cậu ta nói đến đó thì tắt thở…” Thấy Hứa Nhất Thành sầm mặt, lão lại ân cần sán đến hỏi han, “Cậu ấy là bạn anh à?” Hứa Nhất Thành khẽ gật đầu.
Phương Lão Sơn lẳng lặng cất nắm tiền đi, chuẩn bị cáo từ. Bỗng đâu Hứa Nhất Thành lại lên tiếng, “Nhờ ông chuẩn bị hương đèn, giúp tôi đốt cho cậu ấy ít tiền giấy ở chỗ cậu ấy chết được không?” Phương Lão Sơn lập tức nhận lời, hiện giờ lão chỉ muốn nhanh chóng rời khỏi đây, không dám nhìn thẳng vào mắt Hứa Nhất Thành. Mãi tới khi ra khỏi cổng viện nghiên cứu, lão mới thở phào nhẹ nhõm, xòe tay ra đếm lại mấy đồng tiền rồi tươi tỉnh về nhà.
Phương Lão Sơn nào biết Hứa Nhất Thành vẫn luôn nhìn theo mình, mãi tới khi bóng lão khuất cuối con đường mòn bên hồ Vị Danh, y mới quay về phòng làm việc. Hứa Nhất Thành chậm rãi kéo ghế ngồi xuống, siết chặt nửa mảnh thư trong tay, lòng ngổn ngang trăm mối.
Người chết nọ tên Trần Duy Lễ, là bạn thân của y. Hai người đều ham mê khảo cổ nên rất hợp nhau, chẳng chuyện gì không thổ lộ. Về sau Trần Duy Lễ sang Nhật du học, hai người đã nhiều năm không gặp. Hứa Nhất Thành thực không ngờ cuộc chia tay bên bến tàu năm ấy lại thành vĩnh biệt.
Hứa Nhất Thành nhắm nghiền mắt, thấy gương mặt tiếng cười của người bạn thân như rành rành trước mặt… Trần Duy Lễ là một thanh niên nhiệt tình và giàu lý tưởng, một lòng muốn xây dựng ngành khảo cổ của Trung Quốc. Cậu ta từng tâm sự rằng mơ ước lớn nhất là có thể mở một bảo tàng của riêng Trung Quốc, giống như bảo tàng Anh quốc vậy, thu thập tất cả báu vật từ tay đám con buôn cổ ngoạn đem trưng bày trong đó, để con cháu đời sau chiêm ngưỡng, tốt nhất là đặt ở Cố Cung! Mỗi khi nhắc tới mơ ước ấy, Trần Duy Lễ hai mắt ngời sáng, như một người cha kể về đứa con mình tự hào nhất.
Tiếc rằng Trần Duy Lễ chẳng được nhìn thấy ngày giấc mơ trở thành hiện thực nữa. Cuộc đời cậu đã mãi mãi dừng lại ở tuổi hai mươi chín, sâu trong một con ngõ nhỏ của thành Bắc Kinh.
Sau khi cơn xúc động ban đầu qua đi, Hứa Nhất Thành dần nảy ra vô vàn thắc mắc.
Trần Duy Lễ về Bắc Kinh khi nào? Sao không chủ động liên lạc với y? Quan trọng hơn là, theo lời Phương Lão Sơn kể, có lẽ Trần Duy Lễ bị người ta truy sát để bịt miệng. Vì sao cậu ta lại bị truy sát? Kẻ nào đã giết cậu ta? Lý do là gì?
Hứa Nhất Thành mở mắt ra, ngẩng đầu nhìn trần nhà, hòng tưởng tượng ra tình cảnh nguy hiểm mà Trần Duy Lễ phải đối mặt. Phút cuối cuộc đời, cậu không hề cầu cứu mà chỉ nghĩ cách đưa được tờ giấy này tới tay người bạn thân đã nhiều năm không gặp, rồi thốt ra mấy tiếng sau cùng: không kịp nữa… Bởi cậu biết, với tính tình Hứa Nhất Thành, y chắc chắn không ngoảnh mặt làm ngơ, mà sẽ dốc hết sức mình giúp cậu hoàn thành công việc “không kịp” ấy.
Niềm tin ấy sâu sắc làm sao, lời ủy thác ấy nặng nề nhường nào. Tờ giấy kia rốt cuộc viết gì mà khiến Trần Duy Lễ phải liều cả mạng sống để đưa tới tận tay mình? Hứa Nhất Thành linh cảm chuyện này không chỉ là ân oán riêng tư. Với tính tình Trần Duy Lễ, đây nhất định là một việc quan trọng, hơn nữa còn cực kỳ nguy hiểm.
Hứa Nhất Thành siết chặt mảnh giấy, cảm thấy nó nặng ngàn cân, không khỏi lẩm bẩm, “Duy Lễ, rốt cuộc chú đã gặp phải chuyện gì cơ chứ?”
Ngón tay Hứa Nhất Thành miết nhẹ trên mặt giấy. Nếu Phương Lão Sơn lấy được cả mảnh giấy hoàn chỉnh, biết đâu còn có thêm manh mối. Giờ chỉ có một chữ “lăng” không đầu không cuối và một dấu tay máu thế này, đừng nói là hoàn thành di nguyện của Trần Duy Lễ, mà đến làm rõ đầu đuôi sự việc cũng rất khó khăn.
Đột nhiên đầu ngón tay y khựng lại, đôi mày khẽ nhíu.
Loại giấy viết thư này rất dày, sợi giấy nặng, mật độ sợi cao, bề mặt sáng bóng, hợp với bút máy, sờ là biết ngay hàng của người Tây. Đầu ngón tay Hứa Nhất Thành rất nhạy cảm, chẳng mấy chốc đã sờ thấy mặt giấy có chỗ lồi lõm, như vết hằn từ trang trước để lại.
Hứa Nhất Thành vội mở cửa sổ ra, giơ mảnh giấy lên trước ánh sáng, nheo mắt quan sát một hồi. Y lại rút lấy cây bút chì trong ống bút, dùng dao chuốt nhọn rồi mài cạnh bên lên mặt giấy. Chẳng mấy chốc, một ký hiệu lạ lùng hiện ra trước mắt Hứa Nhất Thành, hai chữ phong và tục xếp chồng lên nhau trong một viền bao.
Phong tục ư?
Hứa Nhất Thành chăm chú nhìn ký hiệu nọ rồi cầm bút chì lên tiếp tục mài. Chẳng mấy chốc bên cạnh ký hiệu đã hiện ra một hình vẽ xám tro, đường nét rõ ràng, phác họa một thanh bảo kiếm Trung Quốc, nhưng chỉ có một nửa từ thân kiếm đến đốc kiếm, phần còn lại có lẽ nằm ở nửa mảnh giấy thất lạc kia.
Nửa thanh kiếm này trông cũng hơi lạ, dường như đã được vẽ làm hai lần, có thể nhận ra một đoạn thân kiếm thẳng tắp và một đoạn thân kiếm hơi cong chồng lên nhau. Tựa hồ người vẽ chần chừ không quyết, trước tiên vẽ kiếm thẳng, sau lại sửa thành kiếm cong.
Xem kỹ lại lần nữa, hình như phía trên còn có hoa văn hình rồng. Tiếc rằng dấu vết quá mờ, không nhận rõ được.
Dấu tay máu, chữ “lăng”, ký hiệu Phong tục và phác họa bảo kiếm, mấy thứ này có liên quan gì với nhau? Hứa Nhất Thành trầm tư suy nghĩ.
Trong đó thứ dễ tra nhất hẳn là ký hiệu Phong tục kia. Ký hiệu này thoạt nhìn đã biết được thiết kế riêng, kết hợp cả tính mỹ thuật và hình học. Hẳn là con dấu chuyên dùng của một tổ chức nào đó, từng đóng lên trang trước của mảnh giấy này, vì ấn hơi mạnh, giấy lại mềm nên hằn dấu sang cả trang sau. Nếu truy tra được nguồn gốc ký hiệu kia, chắc sẽ dễ dàng tìm được nơi Trần Duy Lễ viết thư.
Hứa Nhất Thành trải tấm bản đồ Bắc Kinh ra, lấy con ngõ Trần Duy Lễ chết làm tâm, dùng compa vạch một đường tròn. Phương Lão Sơn kể sắc mặt Trần Duy Lễ xám ngoét, chứng tỏ với thể trạng đó cậu không tài nào chạy được xa, phạm vi hoạt động có lẽ chỉ nằm trong vòng tròn này mà thôi. Huống hồ loại giấy viết thư này khá cao cấp, không nhiều người dùng, thông thường chỉ những nơi như sứ quán hoặc hiệu buôn Tây mới sử dụng, nhờ đó có thể thu hẹp phạm vi tìm kiếm thêm một chút.
Xong xuôi, Hứa Nhất Thành mở ngăn kéo, lấy bộ Kim Đáy Bể ra. Thẩm Mặc tặng bộ dụng cụ này cho y nhằm cảm ơn vụ Ngô Úc Văn, cũng xem như một phần thưởng khá hậu hĩnh. Thú vị ở chỗ, Thẩm Mặc thà lẳng lặng tặng y món gia bảo này, chứ không chịu khen ngợi công khai trước cả Minh Nhãn Mai Hoa, ẩn ý bên trong thực khó mà nói rõ.
Hứa Nhất Thành rút chiếc xẻng nhỏ trong bộ đồ nghề, khắc mấy chữ “Linh vị Trần Duy Lễ” lên một thanh gỗ rồi cung kính đặt trước bàn. Y thắp hai nén hương, đứng thẳng người, hai ngón cái chụm lại, tám ngón kia đan vào nhau, vái ba vái rồi lại lật mu bàn tay, vái tiếp ba vái.
Đây là quy củ trên giang hồ, gọi là vái sinh tử, cũng gọi là vái cậy nhờ, tương truyền được Gia Cát Lượng truyền lại lúc ở thành Bạch Đế*. Vái như vậy trước mộ phần có nghĩa là người sống thề sẽ hoàn thành di nguyện của người chết bằng mọi giá, một lời nhờ cậy, đến chết không hối, lật tay là tỏ ý không phụ lời ủy thác. Kể cũng lạ, Hứa Nhất Thành vừa vái xong, bên ngoài chợt nổi trận gió to, thốc qua cửa sổ lùa vào phòng, làm đồ đạc xung quanh kêu lên lạch cạch. Thanh gỗ nọ lắc lư rồi đổ ập về phía Hứa Nhất Thành.
❖ Thời Tam Quốc, Lưu Bị trước lúc lâm chung ở thành Bạch Đế đã gửi gắm con trai mình là A Đẩu cho Gia cát Lượng, nhờ Gia cát Lượng phò tá con mình làm vua.
Môi Hứa Nhất Thành run run, y vội giơ tay dựng thanh gỗ lên, ánh mắt đầy đau xót, song vẫn ráo hoảnh, “Duy Lễ, anh không biết vì sao chú chết, cũng không biết kẻ nào giết chú. Nhưng lúc lâm chung chú đã tìm anh, ắt phải có lý của chú. Người đãi ta như quốc sĩ, ta phải trả ơn như quốc sĩ. Hai hàng nước mắt này, xin để khi nào báo được thù cho chú, anh hẵng khóc cũng chẳng muộn nào!”
Gió nói ngừng là ngừng ngay, trong phòng im phăng phắc.
Trần Duy Lễ chết ở gần ngõ Đại Ma Tuyến phía Tây thành, trước sau đều là đường lớn, xung quanh cũng là khu vực phồn hoa tấp nập. Khách thương qua lại như mây, cửa hàng cửa hiệu hai bên đường nối liền thành một dải, ngay hiệu buôn Tây cũng có đến mười mấy tiệm, nhan nhản tụ điểm giải trí mua vui. Có điều gần đây vì loạn lạc nên rất nhiều cửa hiệu đóng cửa cài then, chỉ sợ bị đám tàn quân càn quét, quang cảnh tiêu điều hẳn.
Hứa Nhất Thành rời trường Thanh Hoa, lấy ngõ Đại Ma Tuyến làm tâm, đi mấy vòng quanh phạm vi đã vạch ra, song chẳng thu được manh mối gì, đừng nói là ký hiệu nọ, mà ngay cả bảng hiệu đề hai chữ “phong tục” cũng chẳng thấy cái nào. Y đã đi khắp các hiệu buôn Tây trong khu vực này, cũng chẳng thấy gì đáng nghi. Hứa Nhất Thành lấy hình vẽ kia ra hỏi người đi đường, họ đều trả lời rằng chưa thấy bao giờ.
Trời tháng Năm nói nóng là nóng được ngay, Hứa Nhất Thành đi mãi cũng mệt, định tìm quán trà nghỉ chân uống mấy hớp trà. Vừa ngẩng lên, y bỗng nhíu mày. Thì ra loanh quanh một hồi, y đã tới khách sạn Đại Hoa lúc nào chẳng hay. Khách sạn Đại Hoa lừng danh khắp thành Bắc Kinh, là khách sạn cao cấp chỉ dành cho người phương Tây, nghe nói phải mời cả nhà thiết kế từ New York về thiết kế nội thất, ngay bốn chữ “khách sạn Đại Hoa” cũng được ghép bằng đèn neon, mỗi khi tối đến lại lấp lánh đủ màu, cực kỳ bắt mắt, xa gần đều thấy.
Thấy mấy người châu Á mặc Âu phục bước ra khỏi cổng khách sạn, liên tục gập mình cúi chào kẻ tiễn chân, Hứa Nhất Thành biết ngay là người Nhật Bản. Trông thấy họ, y không khỏi nảy dạ nghi ngờ. Bởi y vẫn nghi cái chết của Trần Duy Lễ có liên quan tới người Nhật. Ký hiệu nọ là hai chữ “phong tục”, mà ngoài Trung Quốc hiện nay chỉ còn Nhật Bản vẫn sử dụng chữ Hán. Huống hồ năm xưa Trần Duy Lễ xuất ngoại, chính là sang Nhật học ngành khảo cổ tại đại học Waseda.
Quanh đây không có cơ quan hay hiệu buôn nào khác của người Nhật, nếu cho rằng có dính dáng tới người Nhật thì chỉ có thể là đám khách lưu trú tại khách sạn Đại Hoa này thôi.
Hứa Nhất Thành lững thững bước vào khách sạn, đi thẳng tới quầy lễ tân. Lễ tân thấy y vận Âu phục đi giày da, đường hoàng đĩnh đạc, vội bước lên chào hỏi. Hứa Nhất Thành chẳng buồn dài dòng, đập luôn một đồng xu lên mặt quầy rồi úp tay lên, “Gần đây các vị có khách trọ nào người Nhật không?”
Tay lễ tân hẳn đã quen với tình huống này, tươi cười đặt ngay cuốn sổ lên trên, tay kia nhanh nhẹn luồn xuống dưới nhón lấy đồng tiền, “Gần đây cục diện chính trị không ổn định, chỗ chúng tôi vắng khách lắm. Giờ chỉ có một đoàn khảo sát của đại học Tokyo thôi, ai ai cũng đeo kính dày như đít chai ấy.”
“Ồ?” Hứa Nhất Thành nhíu mày, “Họ đến làm gì vậy?”
Tay lễ tân không đáp, chỉ gõ cuốn sổ lên mặt quầy. Hứa Nhất Thành lại đưa thêm đồng nữa, hắn mới chịu tiết lộ, “Nghe nói đến Trung Quốc khảo sát di tích gì đó, tôi từng giúp họ vác vali, giữa đường làm rơi một chiếc, thấy bên trong toàn bản đồ.” Đoạn hắn trỏ, “Ông thầy trong đoàn khảo sát kia kìa.”
Hứa Nhất Thành nhìn theo ánh mắt hắn. Tầng một khách sạn Đại Hoa là quán cà phê, trên chiếc xô pha sát cửa sổ, có một người Nhật mặc kimono, ngồi đối diện với một người Trung Quốc đội mũ quả dưa, đang thao thao bất tuyệt.
Hứa Nhất Thành lẳng lặng lại gần, thấy cả hai đang ngắm nghía một cây gậy trúc dài chừng bảy mươi phân, cầm vừa một tay, đốt trúc khá thưa, bên trên còn lốm đốm ngấn tía như vệt nước mắt. Lạ nhất là mỗi mấu đốt lại hơi gồ lên như mặt Phật. Một cây gậy trúc năm đốt là năm mặt Phật, quả thật đẹp đẽ.
Người Nhật kia đầu rất to nhưng cần cổ lại gầy, vầng trán hói bóng loáng gồ lên, xô về phía trước trong khi mấy sợi tóc lơ thơ lại nằm ẹp ra phía sau, khiến anh ta lúc nào trông cũng như đang rướn cổ dòm đầy tò mò. Hai tay người nọ cầm cây gậy trúc, đôi mắt sau lớp kính dày hơi đờ đẫn, chẳng biết là kinh ngạc hay nghi hoặc.
Người Trung Quốc nọ nói, “Ông cứ yên tâm, tôi lừa ai chứ đâu dám lừa giáo sư của đế quốc Đại Nhật Bản. Cây gậy trúc tương phi mặt Phật này là hàng hiếm đấy. Ông thấy ngấn loang của nó chưa? Đó là trúc tương phi cực phẩm, mấy trăm năm chẳng có một cây đâu…” Đang liến thoắng nói, chợt nghe có tiếng cười khẩy, kẻ nọ quay ra, thấy Hứa Nhất Thành đứng cười nửa miệng bên cạnh thì lấy làm khó chịu, xua tay đuổi, “Biến đi.”
Hứa Nhất Thành chẳng buồn đáp lời hắn, mà bảo người Nhật Bản kia, “Hắn lừa đấy.” Gã Trung Quốc nổi điên, “Mày nói cái gì?” Hứa Nhất Thành cũng chẳng khách sáo, cầm ngay cây gậy lên, chỉ tay vào ngấn tía trên thân trúc, “Ngấn lệ này không phải tự nhiên, mà là nhân tạo. Lúc trúc non mới mọc đắp ít rêu địa tiền lên bọc kín, về sau cây trúc lớn lên lấy thân cỏ rửa rêu địa tiền đi, ngấn lệ sẽ lộ ra, đúng chưa?”
Kẻ kia cứng họng, song vẫn già mồm cãi cố. Hứa Nhất Thành giải thích, “Ngấn lệ thực sự sẽ ngấm vào thân trúc, còn ngấn giả chỉ ở ngoài mặt mà thôi. Chúng ta đánh cuộc thử xem, tôi sẽ chặt cây gậy trúc này ra, xem chỗ vết chặt có ngấn loang màu tía không. Nếu có tôi sẽ bồi thường đúng giá, còn nếu giả chúng ta đến đại sứ quán Nhật giải quyết, thế nào?”
Kẻ nọ lập tức quay sang bảo người Nhật kia, “Ông đừng nghe tên này nói xằng, hắn thì biết cái gì, tôi là người của Minh Nhãn Mai Hoa hẳn hoi đấy. Ông có biết Minh Nhãn Mai Hoa không nhỉ?”
Thầy giáo nọ đưa hai tay trả lại cây gậy trúc, nói bằng thứ tiếng Trung lơ lớ, “Gậy mặt Phật, tục gọi là gậy Định Quang Phật, có nguồn gốc ở đất Long Nham, Vĩnh Định, Vũ Bình v.v… Thời Tống, Tô Thức từng tặng La Phù trưởng lão một cây, còn đề hai câu thơ, ‘Mặt Thế Tôn mười phương ba giới, Đông Pha đều nắm cả trong tay’.”
Long Nham, Vĩnh Định, Vũ Bình đều ở Phúc Kiến, dĩ nhiên chẳng liên quan gì đến trúc tương phi ở Hồ Nam, người này không muốn thẳng thừng từ chối, chỉ thuật lại điển cố về gậy mặt Phật để khéo léo trả lại hàng. Hứa Nhất Thành và kẻ kia đều không ngờ người Nhật này lại am hiểu văn hóa Hán đến vậy. Tuy anh ta không có kiến thức về cổ vật để giám định được ngấn lệ, nhưng nhờ tinh thông sách vở, vẫn chỉ ra được chỗ sơ hở dưới một góc độ khác.
Kẻ kia đỏ bừng mặt, chẳng nói chẳng rằng cầm cây gậy quay người bỏ đi. Trước lúc đi, hắn còn trừng mắt với Hứa Nhất Thành rồi nhổ toẹt một bãi, “Đồ Hán gian, không giúp người Trung Quốc lại đi bợ đít bọn Nhật!” Hứa Nhất Thành dở khóc dở cười, song cũng chẳng thèm chấp. Những kẻ lừa gạt thế này đâu đâu chẳng có, chuyên lảng vảng quanh mấy khách sạn cao cấp, lừa bán hàng giả cho khách nước ngoài.
Thầy giáo Nhật Bản đứng dậy khom lưng cảm ơn y, “Tôi đang không biết làm sao để xua được hắn đi, may mà có anh giúp đỡ.”
Hứa Nhất Thành thầm nhủ người này quả là thật thà, gặp hạng lừa đảo mà vẫn lịch thiệp lễ độ. Y xua tay cười đáp, “Không có gì, tính tôi thấy hàng giả là không chịu được, nên mới bốc đồng can thiệp, chẳng biết có làm phiền anh không.” Thầy giáo Nhật Bản đưa y một tấm danh thiếp bằng cả hai tay, danh thiếp khá giản dị, bên trên chỉ có hai chữ “Kido Yuzo”. Hứa Nhất Thành nhận lấy rồi ôm quyền tự giới thiệu, “Thứ lỗi, tôi không có danh thiếp. Tôi tên Hứa Nhất Thành, học ngành Khảo cổ tại trường Thanh Hoa.”
Nghe hai chữ khảo cổ, Kido Yuzo sáng mắt lên. Gã vồn vã mời Hứa Nhất Thành ngồi xuống đối diện, bắt đầu thao thao bàn luận về khảo cổ. Thì ra Kido Yuzo là giảng viên chuyên ngành Khảo cổ của đại học Tokyo, lần này cùng mấy học giả khác được mời tham gia đoàn khảo sát phong tục China, chuẩn bị khảo sát các di tích cổ khắp dải Tây Bắc Trung Quốc, hạ tuần tháng Ba vừa tới Bắc Kinh. Vì cục diện chính trị xáo trộn nên tạm thời vẫn chưa xuất phát.
Nghe thấy hai chữ “phong tục”, Hứa Nhất Thành giật mình, vội lấy ký hiệu Phong tục đồ lại được ra hỏi, Kido thoạt trông đã gật đầu ngay, “Đúng rồi, đây là biểu tượng của Hội nghiên cứu phong tục China.”
“Đó là gì vậy?”
“Một quỹ văn hóa, cũng tương tự như Sở nghiên cứu văn hóa đông phương Kyoto, Hội khảo cổ Đông Á hay Hiệp hội văn hóa Đông Á vậy, là một tổ chức học thuật tập trung vào khai quật, bảo tồn và nghiên cứu lịch sử khu vực Đông Á. Hoạt động khảo sát lần này của chúng tôi thực hiện được hoàn toàn là nhờ họ tài trợ.”
Thế thì đúng rồi, Hứa Nhất Thành thầm nghĩ. Loại giấy viết thư Trần Duy Lễ dùng do đoàn khảo sát này đem từ Nhật sang, còn dấu hằn trên đó thì là của nhà tài trợ, Hội nghiên cứu phong tục China.
Xem ra cái chết của Trần Duy Lễ cùng tin tức mà cậu liều cả mạng sống để thông báo cho y, có liên quan mật thiết đến đoàn khảo sát này.
Hứa Nhất Thành không thể hiện thái độ gì, nhưng lại thầm cười nhạt. Từ năm Giáp Ngọ, người Nhật đã bắt đầu dòm ngó văn hóa Trung Quốc. Mấy năm nay, người Nhật lấy danh nghĩa khảo cổ lũ lượt kéo sang đây, không quật mộ phần di chỉ lên trộm cắp thì mua gom văn vật thư tịch cổ, gần như đã thành bí mật công khai. Tay Kido Yuzo này chỉ là tên mọt sách, nhưng đoàn khảo sát của gã chưa chắc đã có động cơ tử tế gì.
“Đối tượng khảo sát lần này của các vị là lăng mộ cổ đại phải không?” Hứa Nhất Thành hỏi. Trên mảnh giấy Trần Duy Lễ để lại chỉ có thể đọc được duy nhất một chữ “lăng”. Với lòng tham của người Nhật, đây có lẽ là miếng mồi béo bở nhất.
Kido thực thà đáp ngay, “Đúng thế, chúng tôi mong rằng ít nhất cũng khai quật khảo sát được một ngôi, tốt nhất là mộ thời Hán hoặc thời Đường.”
Hứa Nhất Thành không kìm được vặn lại, “Các vị không thấy đó là một dạng trộm cắp sao?”
Kido ngạc nhiên nhìn y, “Anh Hứa hỏi lạ thật. Chúng tôi khai quật hoàn toàn tuân theo quy phạm học thuật, những thứ đó đều là tài sản quý giá của lịch sử Đông Á, nếu chúng tôi không nhanh tay, e rằng đám quân phiệt Trung Quốc sẽ phá hủy hết mất.”
“Nhưng suy cho cùng đó vẫn là hành vi trộm cắp.”
“Lịch sử không thuộc về bất cứ cá nhân, tổ chức hay quốc gia nào cả, nó thuộc về toàn thể nhân loại. Tôi cho rằng thà để những học giả biết trân trọng lịch sử dốc lòng nghiên cứu chúng, đúc rút ra thành quả còn hơn để chúng bị hủy hoại trong tay hạng tham lam trục lợi.”
Hứa Nhất Thành nhìn chằm chằm Kido Yuzo, thấy trong ánh mắt anh ta không bợn mảy may hổ thẹn hay thèm muốn. Y hiểu Kido Yuzo là kẻ si mê học thuật thực sự, trong mắt người này e rằng chẳng có khái niệm dân tộc hay chính trị gì cả, chỉ có đề tài nghiên cứu của mình mới là quan trọng nhất.
Nhận ra điều này, Hứa Nhất Thành bèn chuyển chủ đề. Y vốn xuất thân Minh Nhãn Mai Hoa, lại được đào tạo trong môi trường học thuật chính quy, kiến thức và học vấn đều hết sức phong phú, hai người càng nói càng hợp chuyện. Nghĩ tới hình phác họa nửa thanh kiếm hằn trên mảnh giấy viết thư, Hứa Nhất Thành cố tình dẫn dắt chủ đề sang kiếm, vừa hay luận văn tốt nghiệp của Kido Yuzo cũng về đề tài này, gã càng thêm hào hứng, kể ra rất nhiều khác biệt trong công nghệ đúc kiếm của Nhật Bản và Trung Quốc cổ đại. Hứa Nhất Thành liền bóng gió dò hỏi, mục đích của đoàn khảo sát phong tục China lần này có phải liên quan tới thanh bảo kiếm nào của Trung Quốc không?
Kido Yuzo nghiêng đầu nghĩ ngợi hồi lâu rồi lắc đầu, “Đoàn không có kế hoạch khảo sát chuyên đề này. Có điều tôi từng nghiên cứu ít nhiều, nếu lần khảo sát này gặp được văn vật nào như kiếm, tôi nghĩ chắc họ sẽ để tôi xem trước.” Lúc nói câu đó, anh ta hơi ngửa đầu ra sau, tuy lời lẽ khiêm tốn, song không giấu được thái độ kiêu ngạo, về lĩnh vực này, hẳn anh ta là người nghiên cứu sâu nhất trong đoàn.
Hứa Nhất Thành nảy ra một ý, tiện tay vẽ lại hình thanh kiếm với hai lưỡi chồng lên nhau nọ, tìm cớ thỉnh giáo Kido Yuzo. Kido Yuzo chẳng nghi ngờ gì, cho rằng Hứa Nhất Thành là người cùng ngành nên dốc lòng chia sẻ hết mọi điều mình biết. Anh ta giải thích với Hứa Nhất Thành, loại kiếm thân cong thế này có thể gặp ở rất nhiều nền văn minh, ví như gươm Nhật, dao Mông cổ và loan đao Ba Tư. Có điều anh ta cũng chưa từng gặp loại kiếm nào có đốc kiểu Trung Quốc mà thân lại cong thế này bao giờ.
Hứa Nhất Thành chăm chú quan sát Kido Yuzo, cảm thấy người này rất thành thật, hay nói cách khác là rất hồn nhiên, không biết nói dối. Hình phác họa thanh kiếm đó có lẽ không phải do gã vẽ. Vậy thì thật lạ, Kido Yuzo rõ ràng là người am hiểu về kiếm nhất trong đoàn khảo sát, thế mà lại chẳng biết gì.
Nghĩ tới đây, Hứa Nhất Thành lơ đãng hỏi, “Thầy Kido có biết ai tên Trần Duy Lễ không?” Kido Yuzo sững người, tỏ vẻ thương tiếc, “Anh Trần à, tôi biết, anh ấy là phiên dịch của đoàn chúng tôi. Tiếc rằng hôm qua vừa đột tử. Tôi nghe trưởng đoàn Sakai Daisuke nói là hút thuốc phiện quá liều, ôi, thật đáng tiếc, anh ấy giỏi lắm.”
Hút thuốc phiện quá liều ư? Hứa Nhất Thành nhướng mày. Lý do hay thật! Người nước ngoài tưởng rằng dân Trung Quốc ai ai cũng hút thuốc phiện nên toàn vin vào đó để ngụy tạo nguyên nhân tử vong. Y lại hỏi, “Thi thể cậu ấy giờ ở đâu?” Kido Yuzo ngẫm nghĩ rồi đáp, “Sáng nay chắc đã đưa đến sứ quán Nhật rồi, trưởng đoàn Sakai đích thân đưa đi đấy.”
Theo pháp luật, Trần Duy Lễ là người Trung Quốc, nếu chết ngoài ý muốn phải giao cho Sở Cảnh sát xử lý. Vậy mà người Nhật lại cố tình đưa thi thể Trần Duy Lễ đến sứ quán, ắt có duyên cớ chi đây.
Hứa Nhất Thành vốn đang định hỏi thêm thì Kido Yuzo đột ngột đứng dậy, “Trưởng đoàn về rồi kìa, anh hỏi trực tiếp ông ấy đi.”
Bốn năm người Nhật đang bước vào khách sạn, dẫn đầu là một kẻ mặt to vai rộng, quai hàm đầy đặn, đôi mày rậm lúc nào cũng nhíu lại như đắp cục mực lên mặt. Kido Yuzo cất tiếng chào, “Trưởng đoàn Sakai.” Sakai Daisuke đưa mắt nhìn Hứa Nhất Thành, hỏi y là ai, Kido Yuzo liền nhanh nhảu giới thiệu, “Đây là anh Hứa Nhất Thành, đang hỏi thăm tôi về anh Trần, chuyện này ông biết rõ hơn tôi, ông nói với anh ấy đi.”
Hứa Nhất Thành than thầm, tay Kido Yuzo này đúng là thành nhờ thành thực, bại cũng vì thành thực.
Đêm qua Phương Lão Sơn tận mắt thấy một toán người bí ẩn khiêng thi thể Trần Duy Lễ đi, nửa mảnh giấy trong tay cậu ta nhất định cũng đã rơi vào tay chúng. Từ đó chúng ắt suy ra đã có người lấy mất nửa tờ giấy kia. Kido Yuzo giới thiệu như thế chẳng phải là nói với chúng, mảnh giấy đang nằm trong tay Hứa Nhất Thành, y đến điều tra về cái chết của Trần Duy Lễ ư?
Vốn dĩ y định đi đường vòng, dò hỏi những người khác trong đoàn khảo sát, giờ thì hay rồi, bỗng dưng lại bị tay Kido Yuzo bán đứng.
Quả nhiên, vừa nghe tên Trần Duy Lễ, ánh mắt Sakai Daisuke đã lóe lên sắc lạnh. Gã nhìn Hứa Nhất Thành từ đầu đến chân rồi dùng tiếng Trung hỏi y và Trần Duy Lễ quan hệ thế nào. Hứa Nhất Thành đành đáp, “Tôi là bạn của cậu ấy ở Bắc Kinh, hôm nay cậu ấy hẹn tôi đến Đại Hoa ôn chuyện cũ, nhưng mãi chẳng thấy đâu nên tôi mới tìm người hỏi thăm.” Sakai Daisuke nửa tin nửa ngờ, “Thật bất hạnh, hôm qua anh Trần hút thuốc phiện quá liều nên đã qua đời rồi. Chúng tôi vừa đưa thi thể anh ấy đến sứ quán Nhật, đợi khám nghiệm tử thi xong sẽ báo với người nhà.”
“Khám nghiệm tử thi phải để Sở Cảnh sát Kinh thành làm chứ?” Hứa Nhất Thành hỏi.
Sakai Daisuke khinh khỉnh đáp, “Trình độ khám nghiệm tử thi của Trung Quốc các anh quá thấp, không đáng tin. Huống hồ hiện giờ chúng tôi có muốn tìm cảnh sát cũng chẳng tìm nổi.”
Chuyện này là thực, giờ trong Sở Cảnh sát từ Ngô Úc Văn trở xuống đều hoang mang lo sợ, gần như không còn phát huy được chức năng nữa.
Hứa Nhất Thành biết lần này đã đánh rắn động cỏ khiến đối phương nghi ngờ, không thể nghe ngóng tiếp được nữa. Y đãi bôi qua loa mấy câu như ngày khác sẽ đến phúng điếu rồi tìm cớ ra về. Kido Yuzo vẫn muốn thảo luận tiếp, bèn kéo tay áo Hứa Nhất Thành nói người Trung Quốc chẳng mấy ai có kiến thức về khảo cổ như anh Hứa, nếu có thời gian, tôi muốn đến Thanh Hoa thăm anh. Hứa Nhất Thành thoáng lưỡng lự, nhưng trước ánh mắt săm soi của Sakai Daisuke, y vẫn cho Kido Yuzo địa chỉ.
Lúc rời khách sạn, Hứa Nhất Thành để ý thấy một kẻ đứng sau Sakai Daisuke nãy giờ vẫn lạnh lùng nhìn mình không chớp mắt. Tên này mặc áo dài kiểu Trung Quốc, có thể thấy cơ bắp vồng lên dưới lần vải, cổ to chắc khỏe. Đi ngang qua hắn, Hứa Nhất Thành chợt cúi xuống, ngay lập tức kẻ kia né người nhường đường, rồi nhanh chóng đứng nghiêm lại như thường.
Hứa Nhất Thành cười với hắn, trỏ đôi giày da, ý nói mình chỉ buộc lại dây giày mà thôi. Dưới cái nhìn lạnh lùng của hắn, Hứa Nhất Thành chậm rãi bước ra khỏi khách sạn Đại Hoa, không hề ngoảnh lại, mãi tới khi ra đến phố lớn, y mới thở hắt ra, sống lưng lạnh toát.
Hứa Nhất Thành dám chắc đó nhất định là một quân nhân, chỉ quân nhân mới nhanh nhẹn và có sát khí tiềm ẩn như vậy.
Thế là rõ, lần này Trần Duy Lễ đến Bắc Kinh với tư cách phiên dịch cho đoàn khảo sát phong tục China. Cậu ta phát hiện ra chuyện gì đó, trong lúc cấp bách vội xé một tờ giấy viết thư dưới tờ từng đóng dấu Hội nghiên cứu phong tục China rồi lẻn ra khỏi khách sạn Đại Hoa, ngờ đâu giữa đường lại bị giết.
Đại học Tokyo, Hội nghiên cứu phong tục China, chưa chừng cả quân đội Nhật Bản cũng có can dự, Hứa Nhất Thành cảm thấy chuyện này càng lúc càng bất thường, càng lúc càng nguy hiểm. Nếu tiếp tục đi sâu điều tra, e rằng y sẽ phải đối đầu với một tổ chức khổng lồ trang bị đầy đủ, trong khi bản thân có báo cảnh sát cũng chẳng ai đoái hoài. Thoạt nhìn đã thấy thực lực chênh lệch rất xa.
Nhưng vậy thì sao chứ?
Hứa Nhất Thành ngẩng lên, thấy một đàn quạ đen bay qua đỉnh đầu, tưởng chừng như bầu trời nứt ra một khe đen cực mảnh. Y nhếch môi cười, tự tin mà kiên nghị, giơ hai tay lên, chụm hai ngón cái lại, tám ngón còn lại đan vào nhau, vái lên trời ba vái rồi lật tay vái thêm ba vái nữa.
Đã vái cậy nhờ, chết cũng không hối.
Người nhà họ Hứa đã thề thì không bao giờ nuốt lời.
Hôm nay quả là một ngày nhiều biến động. Vừa về đến trường Thanh Hoa, Hứa Nhất Thành ngạc nhiên thấy hai vị khách trẻ đã đợi sẵn từ lâu.
Một người là Lưu Nhất Minh, người kia là Hoàng Khắc Vũ. Cả hai đang cười nói rôm rả, thấy Hứa Nhất Thành mặt mày nghiêm nghị bước vào thì đâm ra ngượng nghịu. Hứa Nhất Thành hỏi sao họ lại tới Thanh Hoa, Hoàng Khắc Vũ bèn đẩy Lưu Nhất Minh, bảo cậu trả lời. Lưu Nhất Minh đẩy gọng kính, trình bày nguyên nhân.
Thì ra hai người đến đây vì vụ Ngô Úc Văn vẫn còn dây dưa chưa dứt.
Hôm ấy ở nhà Ngô Úc Văn, ông chủ Vương của Chính Đức Tường đã quyên một nghìn năm trăm đồng đại dương, đổi lấy một chiếc khánh đồng mạ vàng, bên trong còn chạm một hàng tiếng Phạn thành hình hoa sen. Bấy giờ Dược Thận Hành đích thân giám định, tuy chưa xác định cụ thể niên đại, nhưng chắc chắn là từ thời Càn Gia* đổ lại. Càn Gia cách Dân Quốc chẳng bao lâu, khánh đồng cũng không phải vật quý hiếm gì nên không đáng tiền. Ông chủ Vương đành tự an ủi rằng đây là bỏ tiền giải hạn, không cần so đo thật giả.
❖ Ý chỉ thời Càn Long - Gia Khánh triều Thanh, từ năm 1736 đến 1820.
Sau khi ôm nó về nhà, ông ta tiện tay đặt ngay trước bệ Phật. Vợ ông ta thờ Phật, vừa hay dùng đến. Nhưng ngay đêm đó đã xảy ra chuyện lạ. Một u già nửa đêm tỉnh dậy, nghe trong gian thờ có tiếng leng keng, bèn thò đầu vào nhìn, chỉ thấy tối om, chẳng có ai cả, lắng tai nghe kỹ mới nhận ra là chiếc khánh đồng treo trước bệ Phật tự rung lên, một lát mới ngừng. Xem giờ thì vừa đúng mười rưỡi.
Sáng hôm sau bà Vương nghe nói thì hết sức mừng rỡ, cho rằng khánh đồng này có Phật tính, hẳn là Bồ Tát giục ta buổi tối phải tụng kinh đây. Tới đêm, bà ta đợi trước cửa gian thờ, đến đúng giờ ấy quả nhiên lại nghe tiếng khánh đồng. Bà cầm nến đi vào, quỳ xuống trước bệ Phật, bỗng thấy bốn bề nổi gió, hai chân không sao cử động được.
Bà Vương ngồi đờ ra đó, chỉ đảo được tròng mắt. Dưới ánh nến, bà thấy cái bóng chiếc khánh đồng kia từ từ đổ dài, rồi thành hình một phụ nữ bới tóc theo kiểu người Mãn. Bà Vương sợ đến xiêu hồn lạc phách mà không sao chạy được, chỉ biết gào lên kêu cứu. Cả nhà nghe tiếng nháo nhào đổ đến gian thờ Phật, bật đèn điện lên, thấy bà Vương ngồi bệt dưới đất, đã ngất lịm, còn chiếc khánh vẫn rung lên leng keng.
Dân buôn bán kỵ nhất mấy món đồ kiểu này, ông chủ Vương nghe vợ kể lại cũng rợn cả người, đòi đem vứt ngay cái khánh. Nhưng người già trong nhà nhắc nhở rằng đây là tà vật, đưa về thì dễ mà đẩy đi thì khó, nếu tùy tiện quăng đi, chưa chừng lại chuốc lấy vạ lớn.
Giữ lại không được, vứt đi cũng chẳng xong, ông Vương tiến thoái lưỡng nan, đành mời thầy đến đuổi tà. Đã mời mấy đạo sĩ hòa thượng, thậm chí còn tìm một đại sư huynh của Nghĩa Hòa Đoàn năm xưa song vẫn vô ích, khánh đồng mỗi tối cứ đến đúng giờ nọ lại rung lên. Người trong nhà nơm nớp lo sợ, trời vừa tối đã đóng cửa trốn trong phòng chẳng ai dám ra ngoài, cả nhà đang yên lành tự nhiên thành ra như nhà ma, ngay hàng xóm xung quanh cũng bồn chồn không yên, lũ lượt kéo đến nghe ngóng dò hỏi.
Ông Vương tức tối mắng rằng Ngô Diêm Vương giết người như ngóe, vật đã qua tay ắt cũng chẳng sạch sẽ gì. Chửi Ngô Diêm Vương chán, ông ta lại chửi sang Minh Nhãn Mai Hoa, nói rằng đám chuyên gia giám định mù hết cả nên không nhìn ra tà khí. Mạnh miệng là thế song ông ta nào dám ăn vạ Ngô Diêm Vương, đành quay ra bắt đền Minh Nhãn Mai Hoa, chuyển lời đến Thẩm Mặc, yêu cầu Minh Nhãn Mai Hoa phái người tới giám định lại, xem rốt cuộc là xảy ra chuyện gì.
Trong giới buôn bán cổ vật có quy định, vật qua tay có thể giả, nhưng không thể xui xẻo. Bán hàng giả gọi là lừa gạt, còn bán cho người ta thứ không sạch sẽ thì là hại người. Bởi vậy người chơi cổ vật thường phải biết cả phong thủy mệnh lý, lúc bán đồ còn kiêm luôn cả trách nhiệm giải thích cát hung. Ví như có người mua tấm gương cổ, chủ tiệm trước hết phải nhắc khách không được treo trước giường; có người bán lược gỗ hòe, tiệm đàng hoàng sẽ không dám nhận, thậm chí còn không cho ký gửi, bởi gỗ hòe chủ âm, chỉ ma mới chải tóc bằng lược gỗ hòe, bán cho ai sẽ làm người đó mất mạng.
Khánh đồng này tuy không qua tay Minh Nhãn Mai Hoa, nhưng dù sao cũng đã giám định cho người ta, khó tránh khỏi trách nhiệm, nên Thẩm Mặc bèn bảo Dược Thận Hành tới xem lại.
Dược Thận Hành dở khóc dở cười, đành vâng lời đi một chuyến. Tới nhà họ Vương, Dược Thận Hành cầm khánh đồng lật đi lật lại, chẳng thấy có gì khác lạ. Chiếc khánh này tạo hình đơn giản, điểm đáng nghi duy nhất là hàng chữ Phạn chạm bên trong, nhưng cũng chỉ là kinh Phật bình thường, không phải bùa chú tà ma gì.
Có điều ông chủ Vương cứ tóm chặt lấy Dược Thận Hành, khăng khăng đòi Minh Nhãn Mai Hoa phải chịu trách nhiệm. Lưu Nhất Minh đi theo phụ giúp mới đảo mắt đề nghị, nhà họ Hứa chuyên về đồ kim thạch, chi bằng vời người nhà họ tới xem. Dược Thận Hành không vui chút nào, bởi cụ Hứa đã qua đời mấy năm nay, giờ cả nhà họ Hứa chỉ còn mình Hứa Nhất Thành. Nhờ nhà họ Hứa ra tay, cũng có nghĩa là mời Hứa Nhất Thành đến. Hôm ấy ở nhà Ngô Úc Văn, Hứa Nhất Thành đã chiếm hết vinh quang, khiến kẻ xưa nay vẫn tự cho rằng mình sẽ là chưởng môn đời kế tiếp như Dược Thận Hành không khỏi lo lắng.
Song ông chủ Vương nào có để tâm đến những chuyện ấy, vừa nghe nói Minh Nhãn Mai Hoa còn cao nhân lợi hại hơn nữa, bèn giục giã đi mời. Lưu Nhất Minh liền gọi Hoàng Khắc Vũ, hí hửng chạy đến trường Thanh Hoa vời cứu viện.
Sau khi kể rõ đầu đuôi, Hoàng Khắc Vũ oang oang nói, “Nếu không giải quyết được chuyện này, Minh Nhãn Mai Hoa sẽ rắc rối to. Chú đã giúp vụ Ngô Úc Văn thì thôi giúp cho trót, được không chú?” Hứa Nhất Thành cười xòa, nhìn Lưu Nhất Minh đầy thâm ý. Lưu Nhất Minh vội nhìn lảng đi, vẻ chột dạ.
“Nhà ông Vương ở đâu?” Hứa Nhất Thành hỏi.
Hoàng Khắc Vũ mừng rỡ, “Nói vậy là chú đồng ý đi ạ?” Bị Lưu Nhất Minh huých một cái, cậu mới nhận ra mình không trả lời đúng câu hỏi, vội đáp, “Cổng Sùng Văn, ở cổng Sùng Văn.”
“Gần đó có chùa miếu gì không?”
Hoàng Khắc Vũ rành rẽ Bắc Kinh như lòng bàn tay, nghĩ ngợi giây lát rồi đáp không có. Hứa Nhất Thành giở bản đồ Bắc Kinh ra, tiện tay cầm đinh mũ ghim lên vị trí nhà ông chủ Vương đánh dấu rồi cúi xuống xem xét một hồi, lại rút một cuốn sách trên giá xuống lật lật, chợt vỗ tay đánh đét, “Đây rồi, chú biết là tại sao rồi, hai đứa đợi một lát.” Nói đoạn mở ngăn kéo, lấy bộ Kim Đáy Bể ra.
Vừa thấy bộ đồ nghề, Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ liền rúng động. Kim Đáy Bể được gọi là “không quý không dùng”, một khi lấy nó ra, ắt phải giám định kỳ trân dị bảo. Hứa Nhất Thành đem nó đi chuyến này, chứng tỏ chiếc khánh đồng kia không đơn giản, lại có trò hay để xem rồi.
“Đi thôi.” Hứa Nhất Thành giục. Từ sáng tới giờ y cứ canh cánh mãi về chuyện Trần Duy Lễ, chi bằng mượn việc này giải tỏa bớt tâm trạng.
Ba người rời trường Thanh Hoa, may mà tàu điện vẫn chạy. Hứa Nhất Thành ngồi một mình ở hàng ghế trước, ngả đầu ra lưng ghế, trầm tư suy nghĩ, mặc cho nắng chiều ngoài song hắt lên mặt. Hai cậu trai trẻ không dám ngang hàng với y, ngồi lùi xuống ghế sau. Xe điện từ từ chuyển bánh. Được nửa đường, Hoàng Khắc Vũ thì thào hỏi Lưu Nhất Minh, “Này, ông đề nghị mời chú ấy đến, khác nào vỗ mặt bác Hành, không sợ bác ấy trị cho à?”
Hoàng Khắc Vũ nóng nảy, nhưng không phải kẻ ngu ngốc. Dược Thận Hành đã được ngầm định là chưởng môn kế nhiệm, Hứa Nhất Thành đi chuyến này khác nào hạ bệ ông ta, người nọ tính khí nhỏ nhen, ắt sẽ không chịu bỏ qua. Lưu Nhất Minh đề ra chuyện này quả là chọc vào tổ ong vò vẽ.
Lưu Nhất Minh cười nhạt, “Kim thạch vốn là chuyên môn của nhà họ Hứa, tôi nói sai chỗ nào hả? Huống hồ nếu ông ta dám động tới tôi, tôi sẽ lôi hết mấy chuyện thối nát của Dược Lai ra, xem ai mất mặt.” Hoàng Khắc Vũ cười, “Ông làm gì chắc cũng tính toán cả rồi. Nói xem, vời chú Thành tới để làm gì?”
Lưu Nhất Minh nheo mắt lại, song không chịu nói, chỉ giơ ngón cái và ngón trỏ thành hình chữ “bát”.
Hoàng Khắc Vũ ồ lên, bấy giờ mới hiểu, chưởng môn của Minh Nhãn Mai Hoa hễ đến tám mươi tuổi là phải thoái vị, tránh để già nua lú lẫn làm ảnh hưởng đến đại cục. Tháng Tám năm nay chính là đại thọ tám mươi của Thẩm Mặc, nếu không có gì thay đổi thì trong lễ đại thọ ông ta sẽ trao lại chức chưởng môn cho Dược Thận Hành, ừm, đó là nếu không có gì thay đổi… Nghĩ đến đó, Hoàng Khắc Vũ hiểu ra ngay, “Ông định khoác long bào cho chú ấy đấy à.”
Lưu Nhất Minh đẩy gọng kính, “Minh Nhãn Mai Hoa suy tàn thối nát, phải có một nhân vật như Napoleon đứng ra lãnh đạo mới vực dậy được. Ông biết Napoleon là ai không?” Thấy Hoàng Khắc Vũ lắc đầu, Lưu Nhất Minh cười hì hì, “Đó là vua nước Pháp.” Hoàng Khắc Vũ ngạc nhiên, “Ông gan quá nhỉ…” Lưu Nhất Minh liếc xéo cậu ta, “Đừng giả vờ, nếu ông thích để bác Hành lên ngồi ghế chưởng môn thì đã chẳng đi với tôi rồi.”
Hoàng Khắc Vũ gãi đầu nghiêm trang đáp, “Tôi không ghét bác Hành, bác ấy buôn bán thì giỏi, có điều vật gì qua tay cũng chỉ nhìn giá trị chứ không thật lòng trân trọng, tôi không thích thế.”
Lưu Nhất Minh cười, “Rồi rồi, ai chẳng biết Hoàng Khắc Vũ ông coi đồ cổ như tính mạng. Thế mà còn chê tôi cụ non, tôi thấy ông mới cụ non ấy.”
“Không trân trọng cổ vật thì còn sưu tầm làm gì?” Hoàng Khắc Vũ lầu bầu.
Hai người đang rì rầm nói chuyện thì nghe giọng Hứa Nhất Thành ở hàng ghế trước vọng lại, “Lần này gọi chú đến là ý của Nhất Minh đúng không? Anh Hành chắc chắn không làm vậy đâu.”
Lưu Nhất Minh bị nói trúng tim đen cũng chẳng hề đỏ mặt, thẳng thắn đáp ngay, “Dĩ nhiên bác ấy không muốn chú tới, sợ chú giành ghế của bác ấy.”
Hứa Nhất Thành cười khì, chẳng buồn quay lại, “Hai đứa đọc Thu thủy* của Trang Tử chưa?” Cả hai lắc đầu. Hứa Nhất Thành giảng giải, “Trong Thu thủy, Trang Tử kể một câu chuyện. Đồn rằng ở phía Nam có loài chim, gọi là uyên sồ. Loài này ưa sạch sẽ, không phải cây ngô đồng thì không đậu, không phải nước suối trong núi chảy ra thời không uống. Có con diều hâu nọ tìm được cái xác chuột chết, đang rỉa ăn thì thấy uyên sồ bay qua, sợ nó cướp mồi, bèn ngẩng đầu kêu ‘quác’ một tiếng, toan dọa cho nó sợ.”
❖ Một thiên trong Nam Hoa kinh của Trang Tử.
Cả hai phá lên cười. Dứt tiếng cười, Lưu Nhất Minh lại than thầm trong dạ. Quả nhiên Hứa Nhất Thành đã nhìn thấu cậu, mượn câu chuyện vừa rồi để từ chối khéo. Cậu nhìn Hứa Nhất Thành đang nhắm mắt dưỡng thần ở hàng ghế trước, chợt nghĩ, chú Thành coi Minh Nhãn Mai Hoa như chuột chết, vậy cái gì mới là ngô đồng và suối trong mà chú hướng đến? Lẽ nào là môn khảo cổ mà chú nói ư? Lưu Nhất Minh muốn hỏi, song chần chừ một lát rồi lại thôi.
Nhá nhem tối, họ đến nhà họ Vương. Vừa vào cửa đã thấy Dược Thận Hành má hóp mũi khoằm đang ngồi uống trà, đúng là hơi giống diều hâu, Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ không nhịn được bưng miệng cười thầm, khiến Dược Thận Hành ngơ ngác chẳng hiểu tại sao.
Hứa Nhất Thành bỏ mũ ra, lên tiếng chào trước, “Chào anh Hành.” Bấy giờ Dược Thận Hành mới tươi cười đứng dậy đón, nắm tay y nói, “Anh chỉ biết xem đồ cổ, thực không giỏi trừ tà, đành nhờ chú vất vả một chuyến vậy.” Rõ ràng Dược Thận Hành đang chế giễu Hứa Nhất Thành không lo nghề chính, song y chỉ tủm tỉm cười, không chấp.
Sau vài câu khách sáo với ông chủ Vương, Hứa Nhất Thành đề nghị được dẫn tới gian thờ Phật xem thử. Mọi người đi đến gian thờ, ông chủ Vương liền trỏ chiếc khánh, “Nó đấy, cứ đến mười giờ rưỡi đêm là rung, còn chuẩn hơn đồng hồ Tây.” Hứa Nhất Thành lại gần, không vội chạm vào mà giở Kim Đáy Bể ra. Bộ Kim Đáy Bể này cực kỳ tinh xảo, hình dạng lại lạ lùng, người ngoài nghề nhìn chẳng khác gì pháp khí trừ tà. Thấy bộ đồ nghề chuyên nghiệp làm vậy, ông chủ Vương cũng yên tâm hẳn.
Hứa Nhất Thành lướt tay trên chiếc khánh, khép mắt lim dim, một lúc lâu sau mới mở ra, vẻ mặt nghiêm trang, tựa như cực kỳ hao tổn tâm trí. Thấy mặt y nghiêm hẳn lại, ông chủ Vương thấp thỏm hỏi rốt cuộc là thế nào.
Hứa Nhất Thành bưng khánh lên, hướng miệng về phía ông ta: “Ông có biết những chữ Phạn này có nghĩa gì không?” Ông chủ Vương ngượng ngập đáp rằng không biết. Hứa Nhất Thành nói, “Hàng chữ Phạn này gọi là phân đà lợi hoa, có nghĩa là hoa sen trắng. Trong kinh Phật, khi ca ngợi ai đó, thường nói là phân đà lợi hoa trong đám người, đại khái giống như chúng ta hay nói Lữ Bố trong hàng người, Xích Thố trong bầy ngựa vậy.”
“Đó chẳng phải ý chỉ điềm lành ư? Sao lại có ma nữ?” Ông chủ Vương bực bội hỏi.
“Phân đà lợi hoa có tác dụng trấn tà. Cô gái búi tóc kiểu Mãn Châu mà phu nhân thấy e rằng gặp phải mối oan nào đó, linh hồn bị giam trong khánh, bị phân đà lợi hoa trấn áp, đến đêm khuya mới ra sức vùng vẫy khiến khánh đồng không gõ mà tự rung.” Hứa Nhất Thành phân tích đâu ra đấy. Ông chủ Vương cũng từng nghe các đạo sĩ hòa thượng nói tương tự nên nửa tin nửa ngờ. Hỏi Hứa Nhất Thành cách giải quyết, y liền giơ một ngón tay lên, “Hôm nay tôi có thể dặn nó không được gây rối nữa. Có điều nếu muốn hóa giải hoàn toàn oán khí của nó, phải tưới tắm công đức mới được.”
“À cái đó thì có, vợ tôi vẫn chép kinh Phật luôn.”
Hứa Nhất Thành lắc đầu, “Chép kinh chỉ là thành kính, làm việc thiện mới có công đức.” Nghe Hứa Nhất Thành nói vậy, Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ hiểu ngay y muốn làm gì, lại nhìn thái độ như cao nhân đắc đạo của y, không khỏi cười thầm.
Ông chủ Vương cũng là người sáng ý, nhanh nhảu nói ngay, “Sáng sớm mai tôi sẽ quyên thêm năm trăm đồng đại dương cho trại tế bần. Nhờ anh mau làm phép giúp cho.”
Hứa Nhất Thành gật đầu, rút một cái giũa từ bộ Kim Đáy Bể, đoạn cầm khánh lên giũa mạnh mấy cái rồi đặt xuống. Ông chủ Vương hỏi, xong rồi à? Hứa Nhất Thành đáp, xong rồi. Ông chủ Vương kinh ngạc hỏi, không cần tụng kinh vẽ bùa gì sao? Hứa Nhất Thành cười vang, “Buông dao giũa xuống là thành Phật ngay. Cách hiệu quả đâu phải ở chỗ làm lâu hay chóng. Mười rưỡi tối nay các vị cứ đợi mà xem.”
Thấy y nói chắc như đinh đóng cột, mọi người đều nửa tin nửa ngờ, ngay Lưu Nhất Minh cũng chẳng hiểu ra sao, lẽ nào chỉ giũa mấy cái mà được ư? Chẳng phải là đơn giản quá à?
Ông chủ Vương mời họ ở lại ăn cơm, nhưng mọi người vừa ăn vừa thấp thỏm, chỉ có Hứa Nhất Thành nói cười vui vẻ, tràn đầy tự tin. Đến gần mười rưỡi, tất cả lại tập trung trước cửa gian thờ Phật, dỏng tai nghe ngóng. Tới đúng giờ ấy, quả nhiên khánh đồng im phăng phắc, chẳng có động tĩnh gì.
Ông chủ Vương mừng khôn xiết, luôn miệng gọi Hứa Nhất Thành là thần tiên tái thế. Dược Thận Hành đứng bên cạnh, tay mân mê quả ấn đồng đeo bên hông, mặt sầm sì tưởng chừng sắp nhỏ ra được nước, hắn loay hoay hai hôm chẳng được tác dụng gì, vậy mà Hứa Nhất Thành chỉ giũa mấy cái đã giải quyết xong. Đáng hận nhất là vẫn chưa biết y làm cách nào xử lý được. Nếu người trong Minh Nhãn Mai Hoa biết chuyện này, chẳng phải lại càng coi trọng họ Hứa hơn sao?
Song Dược Thận Hành đảo mắt một cái đã tươi cười được ngay, hùa theo ông chủ Vương ca ngợi không ngớt lời, nói rằng cậu em này của tôi có thiên bẩm, tu đạo từ nhỏ, giỏi nhất là hàng yêu trừ ma, càng khen nghe càng hoang đường tợn. Dược Thận Hành đã nghĩ ra rằng, đánh cho chết không bằng khen cho chết. Nếu để Hứa Nhất Thành chết danh thầy trừ tà thì sẽ chẳng còn uy hiếp được đến vị trí của hắn nữa. Dầu Minh Nhãn Mai Hoa sa sút đến đâu, cũng sẽ không để một tên thầy cúng làm chưởng môn.
Trước những lời tán tụng ấy, Hứa Nhất Thành chỉ giải thích vắn tắt: “Tôi đang học ngành Khảo cổ ở trường Thanh Hoa, không phải là đạo sĩ.” Song mọi người lại cho rằng y khiêm tốn, huống hồ từ “khảo cổ” nghe rất lạ tai, chưa chừng cũng là pháp môn tu đạo gì đó.
Ông chủ Vương mời mấy người trong Minh Nhãn Mai Hoa quay về phòng khách dùng trà rồi gọi tất cả mọi người trong nhà vào gian thờ lạy Phật, cảm ơn Bồ Tát phù hộ. Hứa Nhất