Chương 20 Trận chiến sống còn
Quân phản loạn ào ào tiến vào hoàng cung. Theo lời hứa hẹn của Từ Trân trước đây, vô vàn vàng bạc, đồ quý báu trong quốc khố, vô số mỹ nữ ở hậu cung được chia cho các huynh đệ của hắn. Nhưng sau cuộc chiến mấy tháng trời, dám giặc ban đầu có địa vị ngang nhau nay ít nhiều cũng đã phân ra cao thấp, thêm vào chuyện các phe phái lặng lẽ được thiết lập trong thời chiến cạnh tranh gay gắt, tất nhiên khiến chuyện chia chiến lợi phẩm không còn công bằng.
Hoàng cung trở nên hỗn loạn, đến đêm càng giống như có ma quỷ lộng hành, nơi nơi vang vọng tiếng khóc nỉ non của cung nữ, nhưng nhanh chóng tắt ngúm như ngôi sao chết, như những cánh hoa rụng, bị chôn vùi ở một góc tăm tối trong thâm cung.
Ban đêm, Phù Trường Khanh đưa An Mi đến ở trong một cung điện xong xuôi thì đi bàn bạc với Từ Trân về cách chỉnh đốn kỷ luật quân đội. Đầu tiên cần ra lệnh cho đám quân phản loạn coi trời bằng vung kia không được lạm sát sĩ tộc và quấy rối hậu cung nữa. Trước khi đi, hắn triệu vài tên thái giám đến gặng hỏi kỹ, dặn dò gì đó cẩn thận rồi mới cho bọn họ lui.
Lúc hắn rời khỏi cung điện thì còn cố ý dặn An Mi phải nghỉ ngơi cho tốt. Có điều vào thời khắc này, làm sao nàng có thể ngủ yên được? Nàng thấp tha thấp thỏm nằm trên giường, mở mắt chịu đựng đến quá nửa đêm trong cung điện xa hoa thì chợt nghe thấy một loạt tiếng bước chân ở ngoài vọng vào, sau đó có giọng nữ thanh thanh mang theo chút run rẩy khiếp sợ, hỏi nhỏ người mà nàng ta không biết kia: “Vì sao các ngươi lại đưa ta tới đây?”
An Mi nghe xong thì giật mình, lập tức ngồi dậy, vểnh tai lên lắng nghe.
Có tiếng thái giám khe khẽ bẩm: “Nương nương, tiểu nhân đưa ngài ra khỏi lãnh cung là dựa theo lệnh của một vị quan giam ngài ở trong cung này. Lát nữa nương nương gặp ngài ấy rồi hỏi chẳng phải sẽ biết sao?”
“Đây là điện Hàm Hương, vốn là cung điện ta từng ở.” Nàng ta ngừng một lát, mặc dù vẫn mang theo chút sợ hãi nhưng vẫn to gan quát một tiếng: “Nơi này làm gì có quan gia nào ở? Đồ nô tài đê tiện, sông núi mới đổi chủ mà đã nhận giặc làm quan gia là cái lý gì?”
“Đúng, nương nương, lời người nói đều đúng hết. Lẽ nào chúng tiểu nhân không phải lũ đê tiện?” Một thái giám khác lên tiếng, giọng nói lanh lảnh ẩn chứa vẻ khinh thường.
“Ngươi…” Người con gái tức điên, còn đang định nói gì thì bất chợt có tiếng khóc của trẻ con, nàng ta cuống quýt dỗ dành: “Lân Nhi ngoan, con xem kìa, chúng ta lại về ở…”
Cửa điện được mở ra, mấy người đi vào trong tiếng chuyển động kẽo kẹt của cánh cửa, An Mi lập tức cuộn tròn người lại như kẻ trộm, vừa chột dạ vừa bối rối nhìn về phía tiếng động phát ra.
Mấy cây nến lần lượt được người ta thắp lên, người con gái kia nóng lòng muốn để Lân Nhi nằm xuống giường nghỉ ngơi nên bước thẳng vào trong phòng, lúc đi qua bình phong liền giật mình khi thấy An Mi đang ngồi đó.
“Ngươi là ai?” Nàng ta cảnh giác nhìn thẳng vào An Mi, sau đó lại bối rối nhìn đằng sau và xung quanh vài lần.
An Mi không giải thích được thân phận của nàng nên tái mặt nói quanh co một hồi. May mà có vài tên thái giám cũng đi theo vào phòng, thấy An Mi ngồi trên giường thì lập tức đi tới giải vây: “Nương nương, vị phu nhân đây là người nhà của quan gia.”
“Hừ, phu nhân cái gì!” Nàng ta lại phỉ nhổ một tiếng, trừng mắt nhìn An Mi, tức giận chửi. “Loại như ngươi mà cũng dám ngủ ở đây, bẩn giường của ta, còn không mau xuống.”
An Mi hết hồn, mặt mũi tái mét nhìn người con gái kiêu căng trước mặt, rồi bỗng dưng cảm thấy nàng ta trông rất quen, khá giống một người. Mà kiểu người này khiến nàng đến giờ cũng không dám phản kháng, vì vậy nàng luống cuống nói một tiếng xin lỗi, hai tay chống mép giường, cố gắng di chuyên đôi chân bị thương xuống đất.
Mấy thái giám lại không chịu nổi, mỉa mai nàng kia. “Ôi trời, nương nương, người cũng nhìn thấy đó, chân vị phu nhân này không tiện đi lại. Người đuổi phu nhân xuống giường chẳng phải là làm người ta khó xử?”
“Hừ, vết thương của ả không chừng là bị khi đi theo quân phản loạn! Sao lúc bị thương thì không cảm thấy khó xử đi, bây giờ lại bảo ta làm người ta khó xử…” Đứa bé nàng ta ôm trong ngực có đôi mắt lạnh lùng, đen láy chăm chú nhìn An Mi, khuôn mặt đẹp đẽ toát ra vẻ phú quý bức người, và cũng có cả sự kiêu ngạo.
Đám thái giám ở bên chột dạ thật, chỉ lo nương nương nhà mình ép người ta quá, lát nữa vị quan gia kia về thì không nói thế nào cho ổn thỏa được, còn làm liên lụy đến bọn họ. Do vậy, bọn họ vội vàng tiến tới đỡ An Mi đang loạng choạng, nói với người kia: “Nương nương, chúng tiểu nhân biết trong lòng ngài khó chịu nhưng bây giờ đã khác xưa rồi. Có câu kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, ngài không nghĩ cho mình thì cũng nên nghĩ cho điện hạ! Nghe nói đám phản loạn này thích nhất là quăng trẻ con xuống đất cho chết làm trò vui. Chậc chậc, ngươi nghĩ xem đáng sợ biết bao…”
Những lời này quả nhiên làm nàng ta sợ chết khiếp, mặt mày nhợt nhạt ôm chặt đứa trẻ trong lòng, định nói gì đó nhưng cuối cùng lại thôi. Đúng lúc ấy, Phù Trường Khanh che mặt nhân lúc không ai để ý lặng lẽ đi vào cung điện. An Mi đang đứng đầu sóng ngọn gió trông thấy hắn, tức thì gọi một tiếng như trút được gánh nặng: “Phù lang…”
Mọi người lập tức quay đầu lại, đám thái giám chạy tới lập tức quỳ xuống, nịnh nọt gọi “quan gia”. Còn người con gái đang ôm đứa bé thì đứng bất động tại chỗ, nhìn Phù Trường Khanh với vẻ khó tin.
“Mấy người các ngươi đều lui xuống cả đi!” Phù Trường Khanh cho đám thái giám lui, bế An Mi về lại giường, chờ tới khi những người hầu đi hết thì mới dịu dàng nói với người con cái kia: “Đạo Linh, ta làm muội chịu khổ rồi.”
An Mi ngẩn người, không hiểu chuyện gì đang xảy ra, chỉ thấy cô gái kia lúc trước còn ra vẻ nay đã ngã ngồi ra đất, hai chân mềm nhũn mà ôm đứa nhỏ.
“Đại ca, là huynh à? Đại ca…” Phù Đạo Linh che miệng, nước mắt trào ra như suối. “Nhưng giọng huynh… giọng huynh…”
“Chỉ có giọng nói thay đổi đã là may mắn lắm rồi.” Phù Trường Khanh vừa nói vừa cởi khăn che mặt, cười cười với muội muội của mình.
Khi Phù Đạo Linh nhìn thấy khuôn mặt của Phù Trường Khanh dưới ánh sáng lờ mờ thì lại nghẹn ngào một tiếng, hai mắt đẫm lệ, bật cười. “Đại ca, là huynh thật. Tốt quá, thật là tốt…”
“Ừ.” Phù Trường Khanh gật gật đầu, nhìn thấy cậu bé đang chực khóc trong lòng nàng ta thì không khỏi mỉm cười. “Đứa nhóc này chắc là Kỳ Lân?”
“Vâng.” Phù Đạo Linh lập tức giơ tay quệt nước mắt, đứng dậy đưa đứa bé cho hắn nhìn. “Đại ca, huynh chưa gặp Kỳ Lân đúng không? Nào, Kỳ Lân, mau nhìn bác của con, mau gọi bác…”
Kỳ Lân nằm trong lòng mẫu thân chỉ lo ngậm ngón tay, làm sao mà gọi được kiểu xưng hô xa lạ này, đành trợn tròn hai mắt, đôi mắt ngập nước nhìn Phù Trường Khanh nhưng không gọi được một tiếng bác. Phù Đạo Linh bật cười, sụt sịt mũi và lên tiếng phàn nàn với ca ca mình: “Haizz, đại ca, nó được muội chiều sinh hư, ngốc chết mất…”
“Con trai thì không được chiều.” Phù Trường Khanh nghiêm túc nói xong thì chợt nhớ lại chính mình hồi nhỏ, không khỏi cười khổ sở.
Phù Đạo Linh túm chặt lấy áo hắn, lúc này mới tin rằng đại ca mình còn sống. Bây giờ nước mất nhà tan, có thể gặp được người thân đã xa cách ba năm thì có thể coi như may mắn trong bất hạnh. Với những cảm xúc ngổn ngang, nàng ta không nhịn được hỏi: “Đại ca, chẳng phải huynh bị chém đầu sao? Sao lại sống được tới bây giờ? Còn nữa, sao huynh lại có thể cùng quân phản loạn vào cung?”
“Chuyện này kể ra thì dài lắm, nhưng những chuyện ta làm tới nay hơn nửa là vì muội.” Phù Trường Khanh vẫn y như quá khứ, vươn tay vuốt ve tóc muội muội, sau đó dắt tay nàng ta đi tới bên giường, chỉ vào An Mi, nói: “Nào, gặp đại tẩu An Mi của muội đi.”
Hai chữ “đại tẩu” quả thực như một mũi kim đâm cả An Mi và Phù Đạo Linh làm hai người tê dại, họ kinh ngạc nhìn nhau, hồi lâu sau vẫn không thốt nên lời. Đôi mắt đầy vẻ ngạo mạn của Phù Đạo Linh cuối cùng cũng chịu hạ thấp để nhìn An Mi. Nàng ta quan sát tỉ mỉ gương mặt của An Mi, dần dần tin tưởng rằng đây chính là nữ nhân người Hồ mà mẫu thân từng than phiền với mình lúc người tiến cung gặp mặt.
“Đại ca…” Lúc này nàng ta không biết nên khuyên nhủ đại ca có suy nghĩ hoang đường của mình như thế nào, đành làm nũng. “Đại ca, muội nhớ mẫu thân từng kể nàng chính là thị thiếp của huynh, sao muội gọi là đại tẩu được?”
“Ngày xưa là thiếp, bây giờ là vợ cả.” Phù Trường Khanh nhìn An Mi cười, làm như không phát hiện ra sự phản đối của muội muội.
Phù Đạo Linh trừng mắt vẻ không đồng ý, hỏi lại: “Từ khi nào lại có chuyện này? Hai người có cưới hỏi đàng hoàng, có bái đường ở Phù phủ không?”
“Đạo Linh!” Phù Trường Khanh ngắt lời muội muội bướng bỉnh, nhỏ giọng nói: “Ta đã là người chết một lần, chẳng lẽ muội còn không hiểu. Ta không thể về Phù phủ nữa.”
Giọng hắn vẻ thản nhiên nhưng lại tựa như nặng nghìn câu làm Phù Đạo Linh không kìm được bật khóc. “Đại ca… Sao huynh lại nói như vậy? Nếu huynh bỏ họ Phù thật thì vì sao bây giờ huynh tìm gặp muội?”
Phù Đạo Linh khóc to làm Kỳ Lân ở trong lòng nàng ta gọi “mẫu thân, mẫu thân” không ngừng, cuối cùng cũng bắt chước khóc òa lên. Phù Trường Khanh nhìn hai mẹ con họ như vậy thì dở khóc dở cười, đành tiến tới vỗ về cái đầu nhỏ của cháu trai, dỗ dành bằng giọng khàn khàn: “Vì sao ta phải gặp muội? Đạo Linh, đó là vì ta biết muội bị nhốt ở lãnh cung phải chịu khổ, còn vì muội có một đứa nhỏ rất quan trọng.”
Phù Đạo Linh hiểu ý của hắn, không dám khóc to nữa. Nàng ta hoảng hồn nhìn chằm chằm ca ca mình, đè giọng xuống hỏi nhỏ: “Đại ca, huynh nói gì vậy?”
Phù Trường Khanh không lập tức trả lời, chỉ cười gật đầu khen: “Không hổ là muội muội của ta, rất thông minh.”
Dù sao cũng cùng huyết thống nên chỉ cần nói một chút cũng hiểu, Phù Trường Khanh không khỏi đắc ý quay lại nhìn An Mi, quả nhiên thấy vẻ mặt ngây thơ của nàng. Hắn không kìm được tiến tới ngồi bên cạnh, cầm lấy tay nàng. Còn Phù Đạo Linh thì nén giận lườm đại ca, thúc giục: “Đại ca, huynh nói mau đi, cần gì phải úp úp mở mở như thế!”
Phù Trường Khanh nhìn muội muội của hắn, thấy nàng ăn mặc trang điểm giản dị vì ở trong lãnh cung, cơ thể gầy yếu vẫn ôm đứa nhỏ không chịu đặt xuống, đâu còn giống thiên kim tiểu thư khi còn ở Phù phủ nhận được vô vàn yêu thương. Hắn cười chua xót: “Đạo Linh, muội có biết trong số tội danh mà ngự sử đài thêu dệt cho ta, có một tội là mượn cớ mừng thọ phụ thân để lén lút gửi thư qua lại cùng tướng lĩnh các nơi, che giấu tội ác, lòng có âm mưu bất chính?”
Thấy ca ca nói vậy, hai mắt Phù Đạo Linh buồn buồn, ôm con tới ngồi đối diện hắn, nói nhỏ: “Muội biết, nhưng đại ca bị oan.”
“Dù ta có bị oan hay không thì cũng không thể bác bỏ được tội danh. Thế lực của nhà họ Phù ở trong triều đúng là rất mạnh, đấy chính là nguyên nhân ngày trước thiên tử muốn diệt nhà họ Phù, cũng là cái nền móng để sau này ta tiêu diệt lũ phản loạn.” Khi nói đến đây, khóe miệng hắn nhếch lên, cười lạnh lùng. “Nực cười là kẻ đứng đầu đám quân phản loạn lại chỉ coi ta là một tên thứ sử bình thường mà chẳng hề hay biết ta đã lấy danh nghĩa của Phù phủ để chiêu hàng nhiều tướng lĩnh đến vậy. Lực lượng của sĩ tộc chúng ta chẳng lẽ lại để hắn coi khinh?”
Phù Đạo Linh đăm chiêu gật đầu. “Theo lời đại ca, hóa ra huynh ẩn mình trong đám phản loạn, âm thầm liên hợp các thế lực trong triều chờ thời cơ tới?”
“Đúng.” Phù Trường Khanh gật đầu, nhìn Phù Đạo Linh, đáp. “Hiện giờ, đám phản loạn vàng thau lẫn lộn, nhiều đám ô hợp. Lúc tấn công chiếm thiên hạ, chúng đồng lòng được, nhưng bây giờ là lúc chia lợi ích, lại chính là thời điểm chúng tranh chấp với nhau. Theo như ta quan sát, lúc này, tên cầm đầu đã mất khả năng điều khiển toàn cục, chỉ cần ta liên kết với các thế lực khác rồi chờ đến lúc đám phản loạn nhốn nháo, chúng ta tấn công bất ngờ thì khả năng thắng lợi là chín phần mười. Có điều, ta vốn dĩ là một người đã chết, không thể để lộ thân phận ra bên ngoài, vì vậy Đạo Linh, khi chiêu nạp các thuộc hạ cũ và cả các thế lực khác, thật ra ta đều mượn danh nghĩa của của muội để đại diện cho Phù phủ.”
“Danh nghĩa của muội?” Phù Đạo Linh ngẩn người, nhìn thoáng qua đứa bé đang ngủ trong lòng, lờ mờ đoán ra ý đồ của đại ca.
“Đạo Linh, bây giờ thiên hạ đã mất, nhưng ngai vàng Đại Ngụy chưa chắc sẽ không thể lấy lại.” Phù Trường Khanh nhìn thẳng vào mắt muội muội thông minh của hắn, nói bằng giọng ôn hòa. “Đạo Linh, muội còn nhớ vị hoàng hậu hiền đức ở tiền triều lập ấu chúa rồi buông rèm chấp chính không? Ta nghĩ ta có thể đưa muội vào vị trí đó.”
Phù Đạo Linh ngơ ngẩn vì lời nói của ca ca, nhưng nàng ta nhanh chóng tỉnh táo lại, nhẹ nhàng gật đầu với hắn. “Đại ca, muội hiểu. Thân ở vào thời loạn lạc, lại là Quý tần sinh ra Lân Nhi, trong lúc sóng gió này nếu không quyết tâm xông xáo một lần thì làm sao có thể tìm được một lối thoát chứ?”
Nhìn người muội muội sáng suốt của mình, Phù Trường Khanh khó tránh khỏi cảm thấy kiêu ngạo. Hắn gật đầu rồi quay sang nhìn An Mi vẫn đang yên lặng ngồi bên cạnh, chậm rãi nói: “Sau khi việc thành, ta sẽ mai danh ẩn tích phò tá ấu chúa, vĩnh viễn không trở về Phù phủ nữa. Và ta sẽ ở bên An Mi suốt quãng đời còn lại. Đạo Linh, trách nhiệm gây dựng lại họ Phù đành giao cho muội.”
Một câu này của hắn khiến cả An Mi và Phù Đạo Linh đều rơi nước mắt. Lúc này một bàn tay An Mi được hắn nắm chặt, nàng cảm nhận được từ bàn tay hắn truyền tới từng đợt ấm nóng, làm nàng vô cùng yên tâm. Phù Đạo Linh thì cúi đầu nghẹn ngào, giơ tay che đi hốc mắt đo đỏ của nàng ta. “Đại ca, huynh nói gì vậy… Bảo là giao cho muội trách nhiệm lớn lao nhưng chẳng phải huynh đã giúp muội và Kỳ Lân? Nhà họ Phù chỉ có thể dựa vào huynh mới vực dậy được…”
Phù Trường Khanh nghe muội muội nói vậy thì chỉ cười không đáp. Cùng lúc ấy, cậu bé vẫn đang say ngủ trong lòng Phù Đạo Linh chợt tỉnh giấc, mở to đôi mắt trong veo nhìn mẫu thân cười, còn vươn bàn tay múp míp ra rồi gọi liên tục: “Mẫu thân, mẫu thân…”
Mọi người đều ngẩn ngơ vì tiếng nói ngây thơ của đứa bé, khi hoàn hồn thì mới biết bầu trời bên ngoài cửa sổ đã sáng tự bao giờ, lụa mỏng trên cánh cửa đã biến thành màu lam nhạt.
Chỉ vẻn vẹn trong thời gian một năm, đám quân phản loạn chiếm cứ Lạc Dương đã không ngừng xảy ra nội chiến do chuyện phân chia của cải. Khi lòng người bất ổn, chúng bị các cánh quân quan binh trong ngoài thành liên hợp đánh bại. Kẻ đứng đầu là Từ Trân đã bỏ mạng trong trận chiến hỗn loạn, bộ hạ các vùng cũng lần lượt bị tiêu diệt, do đó thế cục thiên hạ dần ổn định, con trai tiên đế là Thiệu Kỳ Lân lên ngôi, Thái hậu Phù thị buông rèm chấp chính, lấy tên hiệu cho đất nước là Trọng Hưng.
Sau khi trải qua đại loạn, triều Đại Ngụy bị ảnh hưởng nghiêm trọng, bởi vậy việc xây dựng kênh Đại Hưng bị ngừng lại và các lao dịch được cho về quê cũ, khuyến khích việc canh tác, dệt vải, đến hai năm sau thiên hạ được phục hưng.
Bách tính an cư lạc nghiệp, ai ai cũng ca tụng công đức của Ấu chúa và Thái hậu. Phù Thái hậu buông rèm chấp chính có xuất thân danh môn, chính là con gái nhà họ Phù ở Thanh Tề, do đó sau khi nàng nắm quyền thì Phù phủ ngày xưa bị chèn ép, tước chức vụ đã vùng dậy. Có kẻ còn khua môi múa mép rằng hai chữ “Trọng Hưng” – tên hiệu của đất nước ngoài nghĩa phát triển Đại Ngụy còn ám chỉ việc vực dậy họ Phù.
Có điều, cho dù nhà họ Phù đã thịnh vượng thì trong gia tộc của Phù Thái hậu cũng chẳng có mấy nhân vật hiển hách, có lẽ cũng ứng với câu “nhà phú quý nhiều kẻ ăn hại”. Đến giờ, bách tính thành Lạc Dương nhắc tới chuyện này sẽ nhớ lại trưởng công tử chết trẻ của nhà họ Phù, nhắc tới kẻ “tuấn tú ở Lạc Dương” năm đó, ai ai cũng thổn thức.
Nghe nói Phù Thái hậu có hiểu biết sâu rộng và biết trọng dụng nhân tài. Ngoài những người được đề bạt trong gia tộc của mình thì nàng ta cũng nể trọng những cựu thần trong triều, trong số đó có vị Thái phó được nàng ta đặc biệt tin cậy. Vị Thái phó này cũng là một đề tài thú vị để tán chuyện. Nghe nói hắn có xuất thân thần bí, đột nhiên xuất hiện giữa lúc loạn lạc, liên hợp các nhánh quân lại để tiêu diệt đám phản loạn, có công lao hiển hách.
Có điều hắn không tên không họ, ngoài Thái hậu ra thì trong thiên hạ chắc không có ai biết lai lịch của hắn. Ngày thường hắn chỉ ru rú trong phủ với phu nhân, chính là phủ Thái phó ở gần hoàng cung, còn chẳng bao giờ lộ diện ở các buổi triều sớm. Phàm là đại sự triều chính cần Thái phó quyết định thì Phù Thái hậu sẽ phái người trực tiếp đưa xe ngựa đón hắn vào thâm cung để bàn chuyện. Thậm chí có khi nàng ta còn đích thân ngồi kiệu phượng, ôm hoàng đế còn nhỏ tuổi đi tới phủ Thái phó, ở lại tới tận lúc gà gáy ngày hôm sau mới hồi cung.
Vị Phù Thái hậu này tuy có danh “thái hậu” nhưng lại đang ở độ tuổi trẻ trung, lâu dần khó tránh khỏi những tin đồn truyền ra ngoài. Đây cũng là điều duy nhất mà Phù Thái hậu hiền đức bị người ta lên án. Liên quan đến việc này còn có một tin giật gân, hóa ra ngày đó, khi tin tức lan truyền trên phố, nhị công tử của Phù phủ là Phù Trọng Khanh tuổi trẻ nông nổi, có một ngày đã dẫn theo một đoàn tôi tới phi ngựa xông vào phủ Thái phó, to tiếng nói sẽ gây chuyện với vị Thái phó kia. Ai ngờ không tới một canh giờ sau, hắn đã khóc lóc chạy ra làm đám tôi tớ đợi chủ nhân ở bên ngoài phủ cũng trợn mắt há mồm.
Từ đó, trên dưới Phù phủ liền rất thận trọng không đề cập tới sự qua lại mật thiết của Thái phó và Thái hậu, mặc vị Thái phó kia bày mưu nghĩ kế giúp Thái hậu thống trị thiên hạ. Lại có người nhiều chuyện nói vị Thái phó không lộ mặt này có giọng khàn khàn, còn chân phu nhân hắn lúc đi lại thì khập khiễng, bởi vậy sau này có bài đồng dao thường được đám trẻ chơi đùa ở đầu đường hát vang: “Thái phó khàn giọng không lên triều, phu nhân cà nhắc ngồi trên kiệu. Lắc lư lắc lư đi mua bánh, Thái hậu đến không nhường đường, nào mọi người cùng ăn bánh…”
Gần đây, tại thôn Tiểu Trạch ở phía tây nam huyện Phù Phong, quận Thủy Bình ở Tần Châu xảy ra một chuyện lớn. Một ngày nọ, nha môn huyện Phù Phong bỗng phái mấy vị quan sai tới để hỏi về cây hòe to trong thôn Tiểu Trạch.
Trưởng lão của thôn xung phong nhận trách nhiệm dẫn quan sai ra đầu thôn, đi vòng quanh cây hòe kia hai vòng, vừa đi vừa không ngừng kể về những điểm tốt của nó: “Quan gia, có lẽ các ngài không biết, cây hòe này đã hơn nghìn năm tuổi. Nó là bảo bối của thôn Tiểu Trạch chúng tôi: Cây hòe già này là một cây thần. Còn vì sao lại là thần thì phải kể tới chuyện mấy năm trước, nó bị sét đánh ác liệt đến mức cả cây chết cháy, nhưng giờ thì sao, các ngài nhìn nó xem, cành lá sum suê, đâu còn có vẻ gì là từng bị sét đánh cháy? Hằng năm, người dân trong thôn đều sẽ tổ chức lễ tế dưới tàng cây, mấy năm nay mưa thuận gió hòa đều nhờ nó, ha ha…”
Đám quan sai từ huyện Phù Phong ưỡn bụng lắng nghe, sau khi nghe trưởng lão ba hoa một hồi thì chỉ đáp hai chữ: “Phải chặt.”
“Hả?” Trưởng lão thôn Tiểu Trạch nghe quan sai nói vậy thì suýt lăn ra hôn mê, quả thực ông ta còn nghi ngờ mình nghe không rõ. “Quan gia, các ngài… các ngài nói gì?”
Đám quan sai nhìn nhau rồi chắp tay nói qua loa với trưởng lão: “Xin lỗi trưởng lão, đây là mệnh lệnh của quan trên.”
“Làm… làm sao có thể!”
Trưởng lão thôn Tiểu Trạch tím mặt, không kìm được bắt đầu thở hổn hển: “Cây hòe này là cây thần của thôn, các ngài nói chặt thì cũng phải cho một lý do chứ…”
“Trưởng lão, chúng tôi là hậu bối, chẳng lẽ khi không lại tới làm khó ngài? Mong ngài lượng thứ! Về việc vì sao phải chặt cây hòe chẳng lẽ ngài còn không biết? Ai bảo thôn các ngài có một nhân vật lớn như Từ Trân chứ! Hiện nay, quan trên đã lên tiếng, nghe nói là Thái phó đại nhân ở trong triều nói rằng phong thủy thôn các ngài không tốt, chuyên sinh ra loạn thần tặc tử. Chỉ cần chặt câu hòe nghìn năm ở đầu thôn thì từ nay về sau, thôn Tiểu Trạch mới chặt đứt được cái nguồn giặc, mới có thể thái bình. Trưởng lão, ngài chấp nhận đi.”
Trưởng lão thôn Tiểu Trạch cứng họng, trừng mắt nói với quan sai: “Thái… Thái phó đại nhân? Sao ngài ấy biết được thôn chúng tôi có cây hòe già?”
“Nếu ngài ấy không thần thông như vậy thì làm sao làm được thái phó?” Đám quan sai cười ha hả, vỗ vỗ lên đôi vai gầy của trưởng lão. “Trưởng lão, chẳng qua là chặt cái cây thôi, có gì mà không được? Tên phản tặc Từ Trân kia năm đo đánh tới tận kinh thành, ép chết hoàng đế, nếu không phải vì Thái hậu khoan dung thì mạng người của cả thôn Tiểu Trạch đều đã không giữ nổi nữa! Bây giờ chỉ chặt có một cái cây đã là may lắm rồi!”
Đám quan sai nói hợp tình hợp lý làm trưởng lão không đáp nổi. Dù sao thì cũng có một vài chuyện mà trưởng lão không biết, lòng ông ta nghẹn lại. Tối đó, ông ta nằm trên giường trằn trọc mát ngủ, cuối cùng thở dài một hơi rồi khoác áo xuống giường, mở cửa đi về phía đầu thôn.
Cuối xuân đầu hạ, ban đêm trời không lạnh lắm, cây hòe già với cành lá tươi tốt đứng sừng sững ở đầu thôn Tiểu Trạch tắm ánh trăng như bao nhiên năm nay vẫn thế, nó rung rinh cành lá, phát ra tiếng xào xạc.
Trưởng lão đi vòng quanh cây hòe hai vòng, thở dài bất đắc dĩ một tiếng, sau đó cầm cây gậy gõ cộc cộc. “Lão hòe, lão hòe, tuổi ngài còn lớn hơn tuổi ta!”
Trả lời ông ta chỉ có tiếng lá hòe xào xạc trong gió.
“Vì vậy ta làm sao có thể trơ mắt nhìn ngài bị chặt trong tay ta chứ!” Trưởng lão vô cùng đau lòng, tay cầm gậy lại gõ mạnh một hồi, một khắc sau, dường như ông ta đã quyết định một việc lớn gì đó xong, run rẩy xoay người rồi ngẩng cao đầu đi khỏi.
“Haizz, đương nhiên ta lớn tuổi hơn ngươi nhiều, mặc dù trông ngươi già như vậy.” Quỷ Hòe ngồi ở ngọn cây, nhìn theo bóng dáng của trưởng lão mà thổn thức. “Ôi chao, ta chứng kiến đứa nhỏ này lớn lên, bây giờ cứ rời đi như thế này, quả thật có chút tiếc nuối.”
“Ngươi không đi cũng được, cứ chờ nhìn nguyên hình bị chặt đi.” Giờ phút này, lão Liễu đang ngồi bên Quỷ Hòe, cùng đung đưa trong gió, giọng nói y như xưa, lúc nào cũng mang theo sự châm chọc.
“Hừ, ngươi nhìn ta bị chặt thì vui lắm chứ gì?” Quỷ Hòe lườm lão Liễu, nhe răng ra cười. “Ta không để người vừa lòng đâu, mai ta sẽ chuyển nguyên hình đến khe núi!”
“Tùy ngươi!” Lão Liễu cười, ngẩng đầu dưới ánh trắng mềm mại như làn nước. Hắn lấy tay làm gối rồi ngả người nằm trên ngọn cây hòe đang lay động. “Nhìn trăng kìa, thật tròn.”
Quỷ Hòe bị sự mơ mộng hiếm có của lão Liễu làm cho nổi da gà, hai mắt đảo lên, nhìn thấy ánh trăng trên đầu mình thì càng không vừa mắt. “Ừm, tròn.”
Hai quỷ cứ bằng mặt nhưng không bằng lòng, hoặc nói đúng hơn là bằng lòng nhưng không bằng mặt, nằm bên nhau, nhắm mắt hấp thụ tinh hoa của ánh trăng, dần dần chìm vào giấc ngủ… Đến tận khi mặt trời mọc vào sáng hôm sau thì bọn họ bị tiếng chiêng trống ồn ã đánh thức.
“Ồn thế, quỷ quái thật!” Quỷ Hòe ảo não lẩm bẩm, ngồi dậy trợn mắt nhìn, lập tức phẫn nộ hét to một câu: “Kẻ nào làm?”
Lão Liễu cũng nhìn xuống dưới, tức khắc cảm thấy vui sướng khi người khác gặp họa, cười ha hả. Hóa ra thân cây to khỏe của Quỷ Hòe đang bị lụa đỏ bao quanh. Hành động này là một loại lời nguyền trói buộc đối với quỷ cây. Nếu quỷ cây bị lụa đỏ bao quanh nguyên hình thì nó sẽ không thể di chuyển được nguyên hình của mình.
Nói cách khác thì Quỷ Hòe bây giờ… chỉ biết chờ bị chặt.
Người mang lòng tốt làm chuyện xấu, quấn lụa đỏ cho Quỷ Hòe lại còn gõ chiêng trống dưới tàng cây để triệu tập thôn dân, chính là trưởng lão thôn Tiểu Trạch. Ông ta gõ chiêng đồng xong thì giơ cao cánh tay, chòm râu dê màu hoa râm không ngừng run rẩy. “Các bà con, trên huyện phái người tới định chặt cây thần trong thôn chúng ta, điều này không thể xảy ra được! Ta sống đến ngần này tuổi cũng đủ rồi, hôm nay dù ta có chết ở đây cũng không quan trọng, còn cây thì tuyệt đối không thể để người ta chặt!”
Người dân thôn Tiểu Trạch bị trưởng lão của họ triệu tập dưới tàng cây, ai nấy dường như còn ngái ngủ, có người rũ tay áo làu bàu phản đối: “Trưởng lão, quan gia trên huyện cũng tới rồi, cái cây này không chặt không được. Ngài đối nghịch với quan gia thì có ích gì? Nếu làm to chuyện thì quan lớn trên huyện lại định tội chúng ta thì biết làm sao?”
Trưởng lão không ngờ hậu bối lại phản bác mình, tức đến mức trợn ngược mắt. “Trị tội thì sao? Dù có mất cái mạng già này…”
“Đó là ngài đồng ý bỏ cái mạng già của ngài, còn chúng tôi không nói sẽ đồng ý giao cái mạng nhỏ của chúng tôi…”
Trưởng lão thôn Tiểu Trạch bị những lời nói của người dân trong thôn làm cứng họng, ông ta trừng mắt, run giọng nói: “Các ngươi… Sao các ngươi không có lương tâm như vậy? Nếu không nhờ cây hòe già phù hộ thì năm trước thôn ta được mùa chắc?”
“Trưởng lão, tuy nói vụ mùa bội thu năm ngoái là do cây hòe già phù hộ nhưng lúc gặp nạn đói, nó cũng đâu có phù hộ chúng ta. Hơn nữa, năm đó nó bị sét đánh cháy, chính ngài từng nói nó không may mắn, còn bảo chúng tôi chặt đi để hiến tế. Đúng không?” Có người bứt đầu tính sổ chuyện xưa với trưởng lão.
Mặt ông ta thoáng cái trắng bệch, lát sau lại biến đỏ, cuối cùng trở thành tím tái, ông ta nghiến răng, ngập ngừng đáp lại: “Tuy nói như vậy nhưng từ sau khi nó sống lại thì thôn chúng ta chưa từng chịu nạn đói…”
Lúc này Quỷ Hòe nằm sấp trên tán cây hòe, tiếp lời một cách khách quan: “Tuy nói là vậy nhưng chuyện mất mùa không liên quan gì tới ta!”
Lão Liễu ở bên cười. “Thế mới nói, nên chặt!”
Quỷ Hòe nguýt hắn, còn chưa kịp nói tiếp gì thì đã có hai tên quan sai dẫn theo hai người đốn cây thuê đang đi từ phía xa xa tới đầu thôn bên này. Quỷ Hòe sốt sắng hẳn lên, tiếng khóc nức nở bật ra từ cổ họng. “Bọn họ chặt ta làm gì? Ta không phải loại lấy gỗ, không thể xây cầu, cũng không làm được xà nhà, chỉ có thể chặt là củi đốt. Gã nam nhân kia quả là nhẫn tâm, ta cứu hắn, hắn lại lấy oán trả ơn…”
Trong lúc nói chuyện thì người đốn cây đi theo quan sai càng ngày càng đến gần. Đám thôn dân đứng dưới tàng cây thấy quan sai tới thì lập tức chừa ra một con đường. Hai người đốn cây đi thẳng tới trước cây hòe, không kìm được mà cảm thán: “Ồ, to thật, muốn chặt nó cũng tốn thời gian đấy!”
Trưởng lão thôn Tiểu Trạch vừa nghe thấy vậy liền nóng nảy, nhìn quan sai, hùng hổ quát: “Không thể chặt cái cây này!”
“Trưởng lão, có chặt hay không không phải do ngài quyết định.” Quan gia nói xong liền kẹp ở hai bên ông ta, một người trái một người phải kéo ông ta tránh sang một bên, sau đó hô to với người đốn cây: “Chặt!”
Người đốn cây liền giơ rìu lên. Quỷ Hòe ngồi trên tán cây lập tức gào khóc, tình hình cấp bách khiến hắn cũng chẳng cố kỵ gì nữa, túm lấy lão Liễu, nước mắt lưng tròng, kêu: “Lão Liễu, cứu ta!”
Lão Liễu giật mình, cơ hội chờ đợi đã lâu cuối cùng cũng tới, trong lòng phơi phới, đang định bấm tay làm phép thì thấy ở đường chân trời phía xa xa xuất hiện một con ngựa phi nhanh, thoáng cái đã chạy đến dưới tàng cây. “Ngừng tay! Ngừng tay!”
Tất cả mọi người đều sửng sốt, ngây người nhìn con ngựa kia hí vang trước mặt họ. Một thiếu niên mặc trang phục gấm hoa nhạt nhảy xuống. Cậu ta khoảng người ba, mười bốn tuổi, mặt mày sáng sủa, môi hồng răng trắng, ăn mặc theo kiểu thịnh hành nhất hiện nay ở kinh thành, khí khái phi phàm. Cậu ta khom lưng, cúi đầu trước mọi người, cười nói: “Tôi phụng mệnh Thái phó phu nhân tới, xin quan gia huyện Phù Phong đừng chặt cây vội, xe ngựa của phu nhân nhà chúng tôi sẽ tới sau, xin các ngài chờ một lát được không?”
Dân làng nghe cậu thiếu niên nói vậy thì lặng im một hồi, sau đó bùng lên những tiếng thét kinh ngạc, rồi họ nhao nhao chụm đầu lại bàn bạc. Ngay cả Quỷ Hòe ở trên ngọn cây cũng vui sướng khoa chân múa tay, vui mừng khôn xiết. “Ta đã nói mạng ta sẽ không mất được mà! Ta đã từng tính số mạng ta, không thể chết được! Ha ha, hóa ra chuyện này không phải nhờ vào bảo thân mình mà là nhờ nàng!”
Lão Liễu ở bên cạnh thì chỉ biết bóp cổ tay, không tiếp lời vì để lỡ mất cơ hội.
Hai người quan sai bán tín bán nghi nhìn người thiếu niên, thấy ngựa cậu ta cưỡi là ngựa Đại Uyên nổi tiếng có hàm thiếc vàng và bộ yên bạc. Cậu ta mặc bộ áo bào gấm dài được thêu thủ công tinh xảo, ở hông đeo một miếng ngọc bội Hòa Điền trắng, ít nhiều cũng có vẻ nghiêm trang đáng kính, thế là bọn họ khách sáo nói với cậu ta: “Chúng tôi nhận lệnh từ quan trên tới chặt cây hòe này, ngươi nói là phụng mệnh Thái phó phu nhân tới cản thì có bằng chứng gì?”
Người thiếu niên đứng thẳng lưng nhìn quan sai, cười nói: “Không cần bằng chứng, lát nữa đợi phu nhân nhà tôi tới là biết.”
“Ồ!” Đám quan sai cảm thấy cái giọng như đã lường trước được của cậu ta thật nực cười, liền cười đáp: “Huynh đệ, cho dù phu nhân nhà ngươi là Thái phó phu nhân có thể xí xóa lệnh của Thái phó đại nhân, nhưng tục ngữ có câu, quan huyện không bằng người trực tiếp quản, hôm nay người ra lệnh chặt cây là huyện lệnh Phù Phong. Bọn ta quay về còn phải bẩm báo kết quả với ngài ấy nữa, ngươi hiểu không?”
“Tôi hiểu.” Cậu thiếu niên cười hì hì, lập tức lấy bạc từ trong túi ra, thành thạo hối lộ cho đám quan sai. “Các vị quan sai cứ yên tâm, phu nhân nhà tôi có chuẩn bị trước mới tới, chắc chắn sẽ không khiến các ngài không bẩm báo được!”
Đám quan sai nhận được bạc thì mừng rỡ, đang định cảm ơn thì một chiếc xe ngựa to, xa hoa bỗng nhiên xuất hiện ở rìa thôn, đang chậm rãi đi về phía cây hòe. Ai nấy đều thầm nghĩ, người ngồi trong xe chắc chắn là Thái phó phu nhân, liền kiễng nhân lên nhìn.
Quả nhiên sau khi xe tứ mãi xa hoa đó tới, người trong xe liền vén rèm lên, xuất hiện một khuôn mặt đã được che lại. Không ai đoán được rằng Thái phó phu nhân ngồi trong xe ngựa còn đội mũ có mạng che, vì không nhìn được khuôn mặt nàng nên ai nấy đều thất vọng thở dài một tiếng.
Vị phu nhân ở trong xe lên tiếng: “Cây hòe này không được chặt.”
Trưởng lão thôn Tiểu Trạch như nhận được thánh chỉ, quỳ sụp xuống đất tạ ơn, chỉ thiếu điều khóc òa lên. “Đa tạ phu nhân.”
Cả người vị phu nhân run run, giọng nói mang đầy vẻ khó xử: “Trưởng … lão, ngài mau đứng dậy, ta không nhận nổi đại lễ này của ngài. Ta nhất định sẽ bảo vệ cây hòe, mong ngài đưa dân làng về trước đi.”
Trưởng lão có được lời khẳng định của Thái phó phu nhân thì cực kỳ vui sướng, nhặt cái chiêng đồng lên ra sức gõ: “Mau đi cùng ta, mau đi! Còn ngây người ở đây làm gì! Không thấy Thái phó phu nhân đã đến à! Còn không mau tránh đi? Tránh đi!”
Người dân thôn Tiểu Trạch bị trưởng lão xua đuổi, đành miễn cưỡng tản đi, đi một bước lại ngoái nhìn một cái. Sau khi người dân rời đi hết, dưới tàng cây chỉ còn người ngựa của Thái phó phu nhân cùng đám quan sai và hai người đốn cây thuê. Thái phó phu nhân liền nhờ thiếu niên kia dìu đỡ, cẩn thận bước xuống xe ngựa.
Đám quan sai thấy vị phu nhân đội mũ có mạng che, mặc quần áo bằng tơ lụa cầu kỳ, lúc xuống xe ngựa thì thấy nàng bước đi tập tễnh, bụng to, hóa ra vị phu nhân này chẳng những đang mang thai mà còn không tiện đi đứng. Nhìn phụ nữ có thai chằm chằm là điều không hợp lễ giáo, bọn họ liền xấu hổ dời ánh mắt đi, không dám nhìn nàng nữa.
Lúc này Thái phó phu nhân mới lấy ra một chiếc hộp gấm từ trong tay áo, chậm rãi đi tới trước mặt một gã quan sai, đưa hộp gấm cho hắn. “Trong hộp này có một bức thư cho huyện lệnh Phù Phong, chỗ đóng dấu có dấu riêng của đương kim Phù Thái hậu. Các ngươi đưa bức thư này cho huyện lệnh đại nhân thì đại nhân sẽ không phạt tội các ngươi.”
Đám quan sai nghe thấy danh Phù Thái hậu thì sợ tới mức quỳ rạp xuống, nào dám cãi lại Thái phó phu nhân nữa, lập tức nhận lấy hộp gấm, miệng hô bừa thiên tuế rồi vạn phúc, không ngừng dập đầu.
Thái phó phu nhân cuống quýt bảo bọn họ đứng dậy, dịu dàng nói: “Các vị đừng sợ, hôm nay ta tùy tiện đến cản các vị, có thể bảo vệ được cái cây này ít nhiều gì cũng nhờ lòng nhân hậu của các vị. Ta đã đặc biệt chuẩn bị một ít để biểu đạt lòng biết ơn của ta, mong các vị nhận cho.”
Nghe thấy được nhận quà thì ai nấy cười híp cả mắt, lẽ nào lại không đồng ý? Bọn họ hớn hở đi theo cậu thiếu niên như một đàn vịt ngây ngô, dần đi xa.
Cùng lúc ấy, Thái phó phu nhân lại lệnh cho đám tùy tùng theo xe ngựa tránh đi, một mình nàng cầm ba que hương đi tập tễnh tới trước cây hòe. Hai năm nay, cây hòe được dân làng thôn Tiểu Trạch thờ phụng như thần thánh, nên dưới tàng cây có sẵn lư hương. Thái phó phu nhân vất vả ngồi xổm xuống, cắm hương vào lư, lấy đá lửa và giấy dẫn lửa từ trong áo ra để châm hương. Nàng chắp tay hành lễ trong làn hương khói lượn lờ, thành kính nói nhỏ: “Thần Hòe…”
“Ôi trời, đã bảo ta không phải thần, còn nhận hương khói của ngươi thật là ngại.” Từ phía sau cây hòe chợt có tiếng cười êm tai, tiếp đó là tiếng bước chân lạo xạo tựa như có cười đang giẫm lên cỏ đi về phía nàng. “An Mi, vẫn khỏe chứ?”
Thái phó phu nhân đội mũ có mạng che mặt từ từ đứng dậy, cởi mũ ra, một khuôn mặt có ngũ quan rõ ràng và đẫm nước mắt hiện ra.
Đó chính là An Mi.
“Ngài đương nhiên là Thần Hòe.” An Mi nhìn nam nhân mặc áo xanh xuất hiện từ phía sau cây hòe, không nén được nước mắt, cười hạnh phúc. “Là ngài cho ta ngày hôm nay, đương nhiên ngài là Thần Hòe của ta.”
Nàng run run nói xong thì cúi đầu, dùng tay áo che mắt để giấu sự mất bình tĩnh của mình. Quỷ Hòe nhìn thấy vẻ ngây thơ, vui quá mà bật khóc của nàng thì cũng buồn cười, giơ tay vỗ vỗ lên đầu nàng. “Giỏi lắm thăng chức vùn vụt nhưng vẫn nhớ về thăm nhà mẹ đẻ.”
Ba chữ “nhà mẹ đẻ” của hắn chọc An Mi mỉm cười, lúc này lão Liễu cũng đi ra từ sau cây hòe, thản nhiên gật đầu với nàng. “Vừa rồi cảm ơn ngươi đã giúp đỡ, tuy rằng sóng gió ngày hôm nay là do trượng phu ngươi gây ra.”
“Haizz, lão Liễu, đang vui vẻ như vậy còn nói câu đấy làm gì?” Quỷ Hòe huých lão Liễu bằng khuỷu tay, bảo hắn ta đừng có lên tiếng, sau đó lại tiếp tục cười nói với nàng. “Nha đầu, đa tạ ngươi đã giữ lại nguyên hình cho ta! Ngươi xem, sắp sinh con rồi mà còn chạy từ nơi xa tới.”
“Đây là việc nên làm mà.” An Mi nói xong thì trong lòng cảm thấy rất có lỗi, hơi cúi xuống vẻ ngượng ngùng. “Phù lang rất cố chấp, ta không nói lại được chàng nên tự đến đây luôn.”
“Ơ, ngươi lén chạy đi thì chàng rể quý kia không biết à?” Quỷ Hòe không nhịn được cười to, tiện tay bấm đốt tính hộ An Mi. “Ồ, ngươi mau về đi thôi, chàng rể quý sắp đuổi tới nơi rồi.”
“A?” Nàng ngẩn người, mặt thoắt cái đỏ bừng. “Ta… Ôi chao, Thần Hòe ngài tính hộ ta xem chàng có tức giận không?”
“Ừm, đúng là đang tức giận.” Quỷ Hòe cười xấu xa nhìn nàng, thấy nàng lo lắng tới mức toát mồ hôi thì mới không chọc ghẹo nữa. “Tuy nhiên ngoài giận còn có cả đau lòng và sốt ruột.”
Nghe thấy vậy, An Mi thở dài nhẹ nhõm một hơi, ngay sau đó liền biết Quỷ Hòe vừa chọc nàng thì đỏ mặt nén giận. “Thần Hòe, làm gì có ai trêu chọc người ta như ngài.”
“Ha ha, không trêu ngươi thì về sau ngươi nhớ rõ ta được!” Quỷ Hòe nói xong lại cười, giơ tay vuốt ve tóc nàng rồi đột nhiên lùi lại, cùng Quỷ Liễu biến mất trong không khí. “Đi mau, hắn đến cửa thôn rồi…”
An Mi chia tay hai quỷ như vậy. Nàng ngẩn ngơ nhìn cây hòe trước mặt như đang nằm mơ, đáy mắt chua xót, rồi buồn buồn bật khóc. Cuống quýt giơ tay lên lau hai gò má đẫm lệ xong, nàng xoay người chậm rãi bước đi. Nàng gọi người hầu tới đỡ mình lên xe ngựa, lòng nhẹ nhõm quay trở về. Khi xe ngựa vừa ra khỏi thôn Tiểu Trạch thì quả nhiên như lời Quỷ Hòe nói, nàng nhìn thấy một chiếc xe tứ mã có rèm che tối màu đang lặng lẽ dừng ở rìa thôn. Cậu thiếu niên ngồi ngoài xe giống hệt như cậu ngồi trước xe nàng, vì bọn họ là một cặp song sinh, vì vậy giờ phút này, người đang ngồi trong xe ngựa đương nhiên là Phù lang của nàng.
Nàng đành phải lệnh cho người ta đỡ xuống xe, chậm rãi đi đến bên ngoài xe hắn.
“Phù lang, chàng đã tới?” An Mi cắn môi, ngập ngừng như một đứa nhỏ làm sai chuyện. “Chàng… không phải chàng bận rộn lắm sao?”
Người ngồi trong xe không trả lời, chỉ bật ra hai chữ: “Lên xe.”
An Mi hấp tấp làm theo, nhờ cậu thiếu niên nâng đỡ để vào trong xe, lúc hai con mắt còn chưa quen với bóng tối thì cả người đã rơi vào một vòng ôm ấm áp.
“Nàng to gan thật đấy…” Một giọng nói có vẻ vô cùng tức giận vang lên bên tai nàng, vô cùng nguy hiểm.
An Mi tức khắc cảm thấy căng thẳng, ngoan ngoãn nép người vào ngực hắn, lắp bắp giải thích: “Phù lang, thiếp không thể… không thể trơ mắt nhìn Thần Hòe bị chặt…”
“Nàng tự lo cho chính mình đi.” Người ẩn trong bóng tối “hừ” một tiếng, lồng ngực kề sát nàng hơi rung rung. “Nói, nàng đã dùng cách gì để hủy lệnh của ta?”
“Thiếp… thiếp mượn con dấu riêng của Thái hậu, là do Kỳ Lân lấy trộm cho. Sau khi cậu nhóc nghe xong câu chuyện cũ của thiếp thì cũng hiểu chàng không nên… không nên chặt… ưm…” Đôi môi An Mi hơi bóng, chớp động không ngừng trong không gian mờ tối, tiếc là những lời giải thích ngày càng thều thào của nàng đã bị chặn lại bởi một “lực cản” vừa vội vã vừa nóng như lửa.
Lúc này, cặp huynh đệ song sinh ở ngoài xe liếc nhìn nhau, cùng lúc nghiêm mặt lại, bắt đầu chăm chú đánh xe. Hai xe ngựa một trước một sau chầm chậm đi khỏi thôn Tiểu Trạch. Quỷ Hòe và lão Liễu sóng vai đứng trên đỉnh cây hòe trong làn gió nam đầu hạ, nhìn chiếc xe ngựa đi xa, cười nhẹ nhõm. “Haizz, đi, chúng ta cũng về thôi?”
Lão Liễu liếc nhìn Quỷ Hòe, cố tình khẽ “hừ” một tiếng nhưng lần này, trong âm cuối còn ẩn giấu một chút vui mừng.
HẾT