← Quay lại trang sách

Chương 1

Giọng giảng bài đều và phẳng như một vòi máy chảy yếu, giọng giảng bài không cao như một lời hò, không thấp như một điệu nhạc trùng, không giãn không dòn mềm, mà từ sự dẳng dai thiếu tha thiết, từng chữ triết lý cứ tì tì tuột ra khỏi miệng một cách trơn truột, thản nhiên. Cha Thịnh được một mái tóc trời uốn dợn sóng, chiếc mũi cao theo dáng nằm một con tắc kè. Mắt to bao nhiêu thì hai hàm răng nhỏ bấy nhiêu.

Chiếc áo chùng đen rộng như chiếc áo đi mưa. Suốt thời gian giảng bài, cha Thịnh ngồi một chỗ như thư ký giữ bàn. Những phút nghỉ xả hơi, cha dựng thẳng dáng người no béo chắp tay đằng đít đi lui đi tới trong lớp. Cha Thịnh thật no béo, no béo như vịt bầu và dáng đi của cha đẹp như dáng ngựa bước chậm.

Cha Thịnh xuống cuối lớp tịch thu một tấm hình playboy rồi bước lại bên Hằng nhìn vào bài học nàng đang viết.

Cha nói:

- Chữ xấu quá! Tại hồi mới đi học không tập đồ, tập sổ cho nhiều. Hồi mới đi học phải tập viết cho nhiều thì sau này mới viết chữ đẹp được.

Hằng ngó lên cười khỗng răng nheo mắt. Cha Thịnh trở về chỗ ngồi.

Giờ luận lý học chiều hôm sau cha Thịnh cũng ngồi mở sách tì tì đọc và năm phút xả hơi, cha cũng cà rà cà rà chắp tay đằng đít đi xuống cuối lớp rồi dừng lại bên Hằng.

Cha nói:

- Học thì không cười, cười thì không học được.

Hằng ngó lên tít mắt nhe răng và cha Thịnh đi thăm một vòng quanh lớp nữa rồi mới về chỗ.

Kiện, chàng học trò dáng nhỏ, giỏi sinh ngữ nhất lớp đứng dậy:

- Thưa cha, có khi nào cha nghĩ rằng ông Bảo Đại vẫn có thể được nhiều điểm vượt ông Ngô Đình Diệm?

Cha Thịnh cười:

- Bằng vào những lời nói của Cựu Hoàng Bảo Đại hết sức thông minh, nhưng bằng vào việc làm người thì con người đó hỏng. Con người đó có cái tài ở cách nói mà có tật ở cách làm.

Như một giọng hát ra khỏi điệp khúc buồng, những chữ đang chuốt từ từ bỗng reo rổn rảng. Hồi cha còn ở Pháp, một hôm có người đàn ông đến gọi cửa yết kiến cha và xưng danh tôi là Vĩnh San đây. Vĩnh San, Vĩnh San là cái tên quen hết sức, nhưng trí nhớ phải chạy từ từ. Cha đưa bàn tay nhấn vào trán mấy lần. À phải rồi, ngài là con Cựu Hoàng Đế Duy Tân, ngài đến tìm tôi có việc gì? Cha là một người uy tín nhất trong số các Việt kiều bôn ba ở hải ngoại, con muốn nhờ cha đứng ra… Tiếng trống ra chơi dẫm ngang câu nói, bầu không khí bùng lên… Học sinh ra chơi vào, cha Thịnh mở sách đọc giảng: “Đâu là con người? Con người là gì? Waisist des Mensch? Trong khung cảnh bàng hoàng của thời hậu chiến, nhà văn André Malraux đã có dịp cảnh tỉnh nhân loại trước viễn tượng cáo chung của con người.

Học trò xin nghỉ xả hơi. Cha Thịnh bước bộ từ đầu lớp tới cuối lớp và nhìn Kiên nói:

- Con người phải sau bảy tuổi mới có ký ức… Cha thì bảy tuổi cha mới bắt đầu nhớ đủ mọi chuyện. Cha nhớ là cha được uống sửa bò lần đầu tiên lúc bà má đi Huế về mua cho, lúc đó cha được bảy tuổi uống hộp sữa “con chim” đầu đời…

Kiên đứng dậy:

- Thưa cha, bài luận làm ở nhà bao giờ nộp?

Cha mở rộng mắt nhìn sau kính tuổi:

- Bài làm ở nhà hả? Thứ bảy nộp.

Kiên hỏi:

- Thứ bảy tuần này hay thứ bảy tuần sau, cha?

Cha Thịnh nghiêm mặt:

- Thứ bảy tuần này chứ thứ bảy tuần sau sao được?

Lớp học bùng lên: Cha cho thứ bảy tuần sau nộp bài đi cha, tuần này bài vở nhiều quá! Nét mặt cha Thịnh đang cười hồng chợt đổi sang nghiêm lạnh. Không được, thứ bảy tuần này là hạn chót nộp bài.

Khuê tông cánh gà đùi đụi vào mạn sườn Hằng. Xin cha đi mi, xin cha cho tuần sau nộp bài đi mi, tao chưa rờ vào một chữ.

Đợi cha Thịnh đi ngang, Hằng kêu nhỏ:

- Cha, cha, cho thứ bảy tuần sau nộp bài đi cha.

Cha Thịnh trở về bàn giáo sư hiền lành xuống giọng:

- Cha cho các con thứ bảy tuần sau nộp bài.

Buổi chiều giữa tuần, nhân bình giảng một đoạn văn của Foulquié 1, cha Thịnh bỗng thẩn thờ nói ước được mãi sống bên học trò.

Con người cha đúng là một chính trị gia nhưng cha tha thiết với tuổi trẻ hơn nên cha vẫn còn ở với học đường, cha quá thương cái lứa tuổi xuân hồng nên cha mới gõ đầu họ. Đi dạy, thật ra lương tiền không đủ nuôi tài xế. Cha đã đi dạy quá lâu rồi và cha vẫn còn ham đi dạy nữa.

Học trò của cha Thịnh đứa nào cũng kính trọng cha như người nước Lỗ tôn thờ Đức Khổng Tử. Cha của họ tài đức hơn Ngô Đình Diệm nhưng không thiết làm tổng thống.

Cha thông minh tuyệt vời vì cha ăn óc khi sống. Cha là một người Việt Nam lớn hơn những người Việt Nam khác. Những Bộ trưởng, Thứ trưởng chỉ là những món đồ trong túi áo cha móc ra. Họ ra Huế phải yết kiến cha cũng như yết kiến Ngô Đình Cẩn… Nhưng cha của họ chỉ thiết tha có một nghề dạy học.

Giờ nộp bài luận triết, cha Thịnh cho nghỉ chơi sau đó và nói với cả lớp:

- Chủ nhật này cha sẽ cho các con đi thăm cầu Bến Hải. Lớp học vỗ tay rào rào, cha tiếp:

- Cha cho các con tám trăm đồng để mua bánh trái thêm ăn buổi trưa, cha sẽ cho xe cam nhông chở các con đi.

Cha Thịnh dạy Triết cho tất cả các lớp đệ nhất nhưng năm nào cha cũng yêu nhất lớp đệ nhất C. Cha cho mỗi học trò một tấm hình của cha. Mỗi tuần học trò đều được thưởng tiền đi xi nê, ăn kẹo. Noel, Tết, lễ lớn học trò nhao nhao xin tiền cha tổ chức liên hoan. Học trò xin tiền cha rồi quay qua xin tiền những giáo sư khác. Các giáo sư phàn nàn.

- Chính cha Thịnh đã tập cho học trò cái tính xin tiền giáo sư. Chúng hễ thấy mặt giáo sư là xin tiền rát quá.

- Chúng bắt giáo sư phải cúng dường chúng.

- Cha Thịnh tập hư học trò… Ngày xưa học trò phải tết thầy, ngày nay thầy phải tết học trò. Cái tật xin tiền thật xấu.

Một hôm cha Thịnh nhìn xuống đám nữ sinh bảo:

- Đàn bà không được đọc truyện Kiều cũng như đàn bà không được bắt chước bà Ngô Đình Nhu.

Bầy con gái ngốc đầu rụt cổ hi hi cười:

- Răng rứa cha?

Cha Thịnh quay mặt ra cửa sổ:

- Đẹp thì đàn bà không đẹp, giỏi thì đàn bà cũng không giỏi. Bà ta chỉ được cái lợi là em dâu tổng thống.

Bọn con gái sụt sụt làm như chim bồ câu tranh chỗ ngủ… Cha không thích bà Nhu hở cha? Cha không thích chính trị của bà hay cha không thích bà? Cụ Ngô Đình Diệm lưu lạc phong trần mấy năm thì bà cũng truân chUyển giang hồ mấy năm.

Cha Thịnh lắc đầu:

- Bà Nhu hơn các con một nổi sung sướng là bà đã được yết kiến Đức Giáo Hoàng.

Phía cuối lớp, bọn con trai xầm xì. Đó đó, cha Thịnh sắp hát bài đạo ca rồi. Cha Thịnh chỉ cưng những đứa học trò có đi đạo. Những đứa Phật tử Phật tôn bị cha trù cả đời. Cả đời không được học bỗng, cả đời không được đi học ngoại quốc. Thằng Phú là thằng mất dạy, không có đạo mà cũng khai mình là Công giáo để kiếm chác.

Khuê lại tông cánh gà vào ba sườn Hằng. Mi có công nhận lòng nhân từ của cha Thịnh đôi khi cũng có hại.

Cha thương học trò lắm, nhưng học trò thì quá đông làm sao thương đủ được. Những đứa học trò không được thương đó sẽ nghĩ là mình bị cha ghét rồi thù cha.

Hằng nhún vai:

- Mi nói bậy, cả nước đều thương cha Thịnh và đang ca tụng công đức ngài.

Khuê bĩu môi, cái con Hằng động mở miệng là gọi cha Thịnh bằng ngài. Nịnh ghê! Nịnh tài thì ăn mắm mút vòi.

Ngồi trong lớp thỉnh thoảng Hằng nói: “Sang năm có lẽ cha Thịnh sẽ ăn lễ Ngân khánh của mình. Lễ Kim khánh của ngài chắc sẽ vô cùng trọng đại”.

Một buổi chiều, giữa bài học luân lý khô như bánh mì, cha Thịnh dừng lại:

- Đời cha là để phục vụ các con. Còn các con, không bao giờ cha có thể bỏ học đường được. Cha đã âm thành tranh đấu từ nhiều năm. Niên khóa mới thế nào chúng con sẽ có một trường đại học, thế nào Huế cũng sẽ có một trường đại học. Bằng mọi giá, cha đang tranh đấu.

Cha mơ màng lặp lại:

- Sang năm, thế nào Huế cũng có một đại học. Hè này cha sẽ đi tìm giáo sư cho các con. Làm cho Huế có một đại học, đó là công trình của chiến sĩ văn hóa Ngô Hồng Thịnh…

Sau lưng Khuê, một thằng con trai vỗ bàn. Chết ông nội tao rồi, ta đang mơ đi Saigon. Làm thế này thì ông bà vía tao bắt tao ở lại Huế rồi còn gì nữa? Đại học Huế nghèo lắm, mới mở ra chắc chỉ lèo tèo vài phân khoa, moa không có học rồi đa.

Cha Thịnh đã trao tiền cho hai chị em Loan và Hiển đi lo cái ăn để chủ nhật ra thăm sông Bến Hải.

Bảy giờ sáng chủ nhật, học trò tập trung trước sân nhà cha Thịnh. Mười lăm phút sau lên đường trên một chiếc xe G.M.C. Cái lạnh liếm sát da và cay cay mắt. Mưa lăn tăn, tất cả nữ sinh đều mặc áo dài trắng và khoác áo ấm bằng lên đan máy hai lớp đen đỏ. Khăn quàng mỏng đủ màu phất phới. Cha Thịnh ngồi xe bốn ngựa đen với hai giáo sư trường Đồng Khánh.

Cả bọn đi bộ lại cầu Hiền Lương. Hai miền của nước Việt Nam nhỏ xây lưng lại một dòng sông hẹp. Khí hậu lạnh u uất. Nơi đây không nhà ở và nhiều đồn bót.

Bên kia sông xa tít một vài người dân đang cúi xuống moi đất trồng rau. Những đôi mắt đang nhìn sâu, những bộ ngực đang thở nặng. Bọn con trai lẽo đẽo theo sau đám nữ sinh yêu kiều lặng lẽ tiến tới cầu. Một người lính trong đồn chạy ra đưa tay ngăn xin cha đừng cho học trò bước lên cầu.

Thầy trò dừng lại ở mũi cầu ngậm ngùi dài. Cha Thịnh nói:

- Còn cây cầu này, chúng ta còn được làm người tự do. Còn cây cầu này cuộc đời chúng ta còn, chúng ta còn được biết chúng ta là người Việt Nam. Các con hãy trút hết tình thương lên đầu lính…

Bọn học trò con trai chuyền nhau cái nhìn đập mạnh nghi ngờ. Cha Thịnh tiếp:

- Thanh niên chúng con đừng ủ rũ như gà dịch. Trong lúc thanh niên các con hát nhạc phản chiến than dài thở ngắn sướt, thì lính, những người lính đang ra công bảo vệ chiếc cầu này.

Cha Thịnh hắt hơi móc túi lấy mùi xoa hỉ mũi, tất cả học trò nặng nề im lặng.

Trời mưa lăn tăn hột cải. Cha Thịnh mặc chiếc áo bành tô to xù xù như người Mỹ, quàng phu la đen trắng. Bọn học trò con trai có người mặc veste như giáo sư.

Cha Thịnh nhìn quanh đám nữ sinh một lượt rồi tiếp:

- Lính đang chết thảm ở chiến trường, chết quá nhiều nếu những người dân các con mà cứ chán nản tuyệt vọng phản đối cái chết của họ, ta thán việc làm của họ, bôi đen con đường họ đi. Người lính sẽ thấy rằng sau lưng họ người ta âu sầu rủ rĩ, không ai ca ngợi họ, thì ở chiến trường họ sẽ âu sầu chán nản, họ sẽ lười biếng ngần ngại. Và một khi đã không hăng hái siêng năng, lính sẽ chết nhiều hơn nữa. Tuổi trẻ các con phải tỏ ra một thái độ nào đó để ở chiến trường lính bớt chết. Phải khen lính cho lính không ra, phải bốc lính cho lính bớt lười biếng.

Một người cháu của cha Thịnh cầm máy hình ra chụp. Hằng reo lên: anh Sinh chụp cho cả mấy chị em một tấm. Khuê kéo hai chị em Điệp và Dần lại múi cầu xin chụp hình. Ông lính gật đầu biểu mấy cô đừng kéo nhau ra tới giữa cầu rồi về không được đa. Hằng hỏi:

- Tôi chạy qua bên tê được không?

Người lính cười:

- Bên tê sẽ đón cô bằng một viên đạn.

Hằng cười:

- Bên tê chạy qua bên ni được không?

- Bên tê sẽ cản cô lại bằng một viên đạn.

- Bên tê có người lính gác cầu không?

- Bên tê có mấy người dân đang cuốc đất kìa.

Theo tầm chỉ của người lính, Khuê nhìn thấy một tốp dân quê đang cuốc đất trồng tỉa xa xa. Người lính cười nói đó không phải là dân quê cuốc đất trồng khoai đâu, đó là cán bộ trá hình bắn súng giỏi cả hai tay.

Cô nào lớ xớ chạy qua một cái là họ bắn liền. Họ trá hình cày cấy ruộng đất là cốt cho chúng ta thấy họ đang hưởng cảnh yên ổn làm ăn, họ sống an lạc ngay tại vùng địa đầu heo hút, họ đã hết ám ảnh chiến tranh rồi, không còn phòng bị gì nữa.

Khuê hỏi:

- Bác có khi mô qua bên nớ chơi không?

Người lính cười:

- Bữa tê tôi có bắc loa mời họ qua đây ăn cháo vịt với đánh cờ tướng.

Hằng bước lên một bước:

- Họ có qua không?

Người lính cười:

- Buồn quá giỡn chơi chút chớ ai làm thật.

Hằng lấy kẹo sô-cô-la mời mọi người. Bác lính nói tiếp:

- Hồi tám giờ một anh Việt Cộng vượt tuyến bằng cách bơi qua sông Bến Hải, ướt ngủm, áo quần cũng không mặc. Anh ta bơi lên bờ trần truồng trùi trụi, lát lâu mới có áo quần mặc.

Khuê hỏi:

- Anh ta bơi qua mà bên tê không bắn bõ chi hết hay răng?

- Có bắn chứ, bắn ùn ùn mà không trúng vô mô hết.

- Bác cho anh ta coi tí đi bác.

Bác lính giơ tay:

- Đó tê, đi vòng vòng ra dãy nhà sau mà coi.

Cả bọn nắm tay nhau lắc xắc chạy đi. Cha Thịnh với tụi học trò con trai đang đứng xung quanh một người ngồi bệt dưới đất mặc áo lính, quần xà lỏn hỏi lăng nhăng. Anh có vợ con chi không mà bỏ qua đây vậy anh? Anh bơi tài quá hé. Ở bên kia anh làm nghề chi? Ở bên kia phụ nữ đẹp như mấy cô này không? Ở bên kia có vị cha nào hiền lành như thế này không?

Cha Thịnh rỉ tai Hằng:

- Thằng cha đầu hàng giả đó để dọ thám đó. Họ sẽ bắt giam bây giờ đó.

Có chiếc xe Jeep chạy vào. Người tài xế nhảy xuống tìm trao cha Thịnh bức thư. Cha Thịnh coi xong bảo học trò:

- Ông Quận trưởng mời cha ra ăn cơm trưa.

Học trò nhao nhao:

- Có mời bọn con không cha?

Cha Thịnh lắc đầu, Hằng hỏi:

- Cha có đi không cha?

- Cha bỏ các con sao được. Cha bảo lãnh với phụ huynh các con ngày nay dắt các con đi du ngoạn mà.

Hằng bước lại:

- Ông Quận trưởng mời cha thứ gì cha?

- Ăn thịt nai, ông Quận trưởng bắn được con nai.

Cô giáo sư trường Đồng Khánh rủ mấy chị em đi chơi, gió thổi khô da và cay mắt. Bầy con gái kéo ra đứng nhìn xuống cánh đồng mạ non. Lá lúa bị gió thổi reo. Mẫu ruộng ọc ạch nước màu nâu sậm. Vài con ốc con rạm bò lên bờ ruộng. Cô giáo sư xuýt xoa giá có một lò than bên cạnh mà bắt ốc rạm nướng ăn thì phải biết.

Cô Tịnh nhìn sang chồng cười tươi như hoa. Hai vợ chồng đều là giáo sư danh tiếng, đều là huynh trưởng của hai gia đình Phật tử vững chắc. Họ không có con, lấy nhau bốn năm không có con thì lấy nhau mười bảy năm cũng không có con. Người chồng đổ tại người vợ, người vợ đổ tại người chồng. Người chồng phải đi thử tinh trùng ở Sài-gòn và người vợ lên Đà Lạt để nắn lại tử cung.

Kết quả vẫn không có con. Hai vợ chồng cũng là con của Phật. Đám cưới họ cử hành ngay ở chùa và tiệc vui cũng đãi ở chùa. Quên nói họ là hai kẻ mồ côi. Các thượng tọa cao thâm nhất đã đứng chủ hôn. Trong đám cưới họ, các ngài nói: Mai sau các con đông con, các con phải kỉnh chùa một đứa.

Cô Tịnh lại xuýt xoa:

- Không có chi ăn ngon bằng trứng rạm.

Hằng nói nhỏ:

- Cha Thịnh bảo là trong các học trò của cha, cha thương nhất là chị Tịnh.

Khuê hỏi ngay đến một lời đồn. Cha Thịnh thương chị Tịnh đến nỗi mười một giờ đêm còn sai tài xế nã một son thịt kho đến cho chồng chị ăn. Cha thương chị Tịnh đến thương lây cả chồng chị. Hằng méc với mọi người rằng mỗi niên khóa cha Thịnh đều có thương một nữ sinh. Những người cha thương không bắt buộc theo đạo Thiên Chúa. Chị Tịnh là một Phật tử dày công nhất.

Chị Tịnh có đôi mắt cứ hay trường tròng đen lóng lánh, chiếc mũi nhọn vừa phải, trên khuôn mặt thanh mỏng, đôi môi làm đầy chiếc miệng, đôi môi luôn luôn ở thế động. Chị Tịnh là một người đàn bà luôn khua môi. Một người đàn bà nói nhiều bên cạnh một ông chồng không lắm mồm nhưng khôi hài. Hai vợ chồng cùng gầy nhóm một cặp như cò hương.

Hằng nói vào tai Khuê:

- Cha Thịnh định sang năm sẽ cho chị Tịnh thay thế chức hiệu trưởng.

Có một vẽ khác biệt lồ lộ giữa Hằng và chị Tịnh, hai học trò cưng của cha Thịnh. Hằng cao lênh khênh, dài lưng và dài chân, thân hình gầy lỏng khỏng. Khuôn mặt dày tóp làm chiếc răng càng nhọn. Cái miệng có một chiếc răng chó đưa ra dễ thương chi lạ. Hai con mắt đen như hột nhung. Da mịn xanh. Hằng là một người con gái không có bụng mà có ngực. Cái mô hình đẹp đó là một lợi tức đương nhiên, Hằng mặc áo dài vào thật quyến rũ. Đó là một thân hình bom nổ của trường Quốc Học. Một Jayne Manstield 2 trong phim “Người đẹp của ông Quận trưởng”. Khi Hằng lên đọc bài, giáo sư địa nhìn thân hình Hằng như tính toán điều gì – ông Phong mê tao – Hằng nói với Khuê câu đó. Hôm qua tao đi tem ở nhà dây thép, ông Phong chận tao lại nói chuyện đứng mỏi rục cả hai giò, về nhà phải bóp dầu.

Khuê kêu:

- Mi thể thao lắm mà. Tại sao đứng còn biết mỏi?

Hằng đáp:

- Càng thể thao, càng tránh những cái gì quá độ.

Nhìn quanh nhìn quất số nữ sinh trong trường, cô gái nào ngực cũng xẹp hết. Bởi đó, Hằng rực rỡ như một chiếc lồng đèn.

Bọn học trò trai phê bình:

- Con Hằng không có bụng, mấy con khác trời ơi, bụng ơi là bụng. Con gái con gung chi mà bụng căng như cái ức gà mái dầu.

- Con Hằng là Jayne Mansfield.

- Ông Phương khoái nhìn ngực con Hằng. Nhà trường không bắt buộc những người con gái nào đi học cũng mặc màu trắng. Xá xị trắng nhưng áo trắng của Hằng đặc biệt lắm, phải thứ hàng Cachsmire Ấn Độ và phải như lụa ngoại quốc nửa tơ nửa ni lông. Trong lúc đó, trường Quốc Học cũng như trường Đồng Khánh, học trò chưa ai dám mặc áo nilông cả.

Áo quần Hằng ủi khéo đến nỗi khi bỏ ra giặt tà và tay vẫn phẳng phiu như mặt bàn lót mi ca. Áo quần Hằng may ở những tiệm đặc biệt từ Đà Nẵng. Áo dài rất eo, và thật xuất sắc, áo dài của Hằng không kết nút bóp mà lại cột bằng những hàng dây lòng thòng ủi láng. Quần gài nút, chứ không phải quần thun như mọi người. Mỗi lần Hằng lên đọc bài ở bảng đen trông như một cô nào khác lạ. Tóc Hằng uốn hơi cháy, không bao giờ Hằng chải, Hằng nói:

- Mặc quần dây thun thật mọi rợ.

Hằng mang ba sắc áo đến trường: màu hồng mặt trời non, màu xanh da trời trẻ và màu nắng trắng. Áo nào cũng may kiểu cách như áo nào, cũng một đường sóng tang chế ở giữa và dây dợ thòng lòng thay cho hàng cúc chạy từ cổ xuống eo.

Suốt năm đệ nhất ngồi chung bàn, Khuê nghe Hằng hát lui hát tới một bài “Rừng thu ấp hơi sương, say ru lòng nhớ tới quê hương. Đàn vương bao nhớ thương. Sầu dâng mắt ai bóng hình thôn vắng, đời say gió muôn phương.

Và Hằng hát ư ử trong miệng ngay cả những lúc ngậm kẹo cao su.

- Làn môi hương phai rồi. Buồn nhớ tới dáng người yêu áo xanh.

Hằng ca đi lý lại những lời đó hoài như loài bồ câu ngâm không chán điệp khúc ù ù ù…

Khuê hỏi:

- Mi cả đời chỉ véo von có một bài “Nhớ” của Lê Trạch Lựu.

Răng khểnh cười:

- Cả đời Lê Trạch Lựu chỉ sáng tác có mỗi bài hát đó. Bài hát cô đọng bao nhiêu điều hay nên tao thích.

Khuê trề môi:

- Lê Trạch Lựu bỏ ra ba năm để sáng tác bài “Em tôi”. Bài hát đó nhất.

Hằng là con một gia đình giàu có ở Quảng Trị. Cha của Hằng có một thời làm tỉnh trưởng. Hằng là một người ăn sang, mặc sang, nói sang. Đó là một kẻ có khiếu quốc văn ngay từ thuở lớp ba. Bây giờ, những bài luận triết Hằng làm bao giờ cũng đầu điểm. Hằng không nuôi mộng trở thành nữ sĩ.

Vì kiếp họ nghèo. Hằng thường nói về mình trong những giờ giáo sư giảng bài. Tuổi tao là tuổi Đinh Sửu, kỵ nhất là kết hôn với người tuổi Mùi. Hai cái tuổi xung khắc nhau, làm không ra tiền. Sau này tao chỉ mơ có tiền để xài. Số tao phải ở chỗ cao chứ ở thấp không được, nghĩa là ở nhà lầu chớ không được ở nhà trệt. Khuê ơi, hôm qua dì tao gởi cho tao một con sâm có huyết. Anh tao tặng tao một hộp thuốc bổ Aspiserum. Một họp Aspiserum giá tiền ngàn hai. Thuốc bổ làm bằng chất dưỡng tinh của loài ong chúa mà. Đàn bà 60 tuổi uống vào còn hồi xuân được.

Uống một hộp lên 5 kilô. Kinh khủng chưa? Mi mà uống vô một hộp là lập tức mi béo ngậy như Thủ tướng U-Nu bên hồi chuông tự do. Dưỡng tinh của loài ong chúa mà! Một con ong chúa phải lấy bao nhiêu ong thợ ong đực, sức lực của hắn phải biết. Mỗi một năm tao chỉ uống có hai hộp thôi, sáu tháng một hộp. Thuốc bổ quá uống nhiều có hại. Mấy người đau gan không được uống thuốc này. Uống vào là nát gan liền.

Con gái mà uống Aspiserum cả năm không mọc một mụt mụn. Mi rờ cái mặt của tao mà coi, mịn như sắn hấp, mát như bột lọc. Khuê ơi, mi biết tao tắm rửa bằng xà bông chi không? Savon Sandale. Mi ngửi tay tao một cái là mi phục ngay mùi hương thơm. Mỗi cục một ngàn. Mỗi cục một ngàn bạc trong khi lương thư ký tháng nghìn hai. Savon này mỗi lần tắm là thơm phức cả nhà. Phải com-măng bên Tây mới có.

Hôm qua tao đi phố, vào tiệm An Vân hỏi có Savon Sadale không, họ đưa ra một đôi giày Sandale.

Khuê ngắt lời:

- Con người mi không bịnh hoạn sao mi cứ hay thắc mắc thuốc men?

Hằng mở to mắt:

- Ba tao bắt uống. Không uống thuốc bổ ba tao không nhận làm con.

Khuê kêu:

- Trời ơi!

Hằng vênh váo:

- Ba tao còn bắt tao tập thể thao nữa mi ơi. Tao mà làm biếng không tập là ba tao không cho tiền tiêu nữa.

Ngày nào tao cũng phải bơi qua bơi về sông An Cựu, cũng phải trèo dây thừng mấy chục thước, phải hít thở như lực sĩ. Bởi đó, mi ngắm cái thân hình bổn mạng tao ni, bắp đùi bắp vế tao ni, cổ tay cánh tay tao ni.

Khuê gật gù:

- Thân thể mi như bức tượng nắn, như hình nhân khắc bằng cây. Kiên từ dãy nhà đằng sau chạy ra, dáng lùn như một cậu nhỏ. Ê, mọi người, cha truyền ăn trưa rồi về ngay.

Cha Thịnh với hai vợ chồng Tịnh dùng trưa ở căn nhà lợp ngói mốc bên trong. Người tài xế của cha đã phóng xe ra tỉnh mua gà và chim mía về quay bơ. Nồi cơm và son canh do bác cai lãnh nấu. Học trò đứng vây quanh hai chiếc bàn lớn ăn bánh. Ăn xong, tên nào cũng còn kêu đói. Người tài xế được lịnh cha đem cho mỗi tên một điếu thuốc lá Cotab. Cha Thịnh với hai vợ chồng Tịnh dùng trưa xong đã ra ngồi nhập bọn. Kiên hết cầm tay cô này đến cô kia đòi coi chỉ tay. Cha Thịnh chìa bàn tay ra, học trò kêu ôi tay cha đỏ như phẩm. Bàn tay này phải làm đến tướng vương là ít. Cha thừa sức làm tổng thống, cha thừa sức làm thủ tướng.

Cha Thịnh cười:

- Các con có biết ông Tiến ở cửa Sáp không? Cái ông hai mắt mù mù mờ mờ đó, cha nghe tiếng ông ta bói hay như nói chuyện Tam Quốc. Một hôm cha đến ông ấy. Trời mưa cha mặc thường phục, cha chìa bàn tay ra hỏi về đường tình duyên. Ông ta mới mò vào một cái đã bảo số ông có hai vợ.

Học trò cười, Phương ghé tai Khuê:

- Trường hợp tao là ông thầy bói, tao cũng chỉ biết nói vậy thôi.

Cha Thịnh truyền bảo ra về. Cha trao cho chị em Diên mấy trăm đồng bảo về đến Huế các con hãy vô ngay trường ngồi trong lớp đông đủ đợi cha đến dặn ít việc cần vì chiều thứ hai cha nghỉ. Học trò kêu lên sướng quá, vỗ tay, cha Thịnh dặn tiếp bọn con gái đi mua bánh mì sát phăng rông đem vô lớp cho cả tụi ăn.

Cả lớp đệ nhất leo lên xe G.M.C. trở lại Huế.

Về tới trường Quốc Học, anh chị em một đoàn tiến vô. Chiều chủ nhật tất cả các lớp học đều đóng cửa, bọn con trai đi kêu ông cai hô sếp ơi sếp mở cửa. Ông cai về làng, mụ cai chạy ra hỏi chi rứa. Bác, bác, mở cửa cho vô lớp. Ai với ai họp? Họp cái chi trong lớp? Mở cửa vô ngồi đợi cha Thịnh đến họp khẩn. Mấy anh mấy chị đã xin ông Hiệu ông Tổng chưa? Cha Thịnh đến bây giờ mà. Mụ cai cầm xâu chìa khóa đi lên lầu vừa mới tra chìa khóa vào ổ thì ông Tổng Giám thị xăm xăm chạy tới quát:

- Mở cửa làm chi? Ai cho phép mở cửa?

Mụ cai xoay lui:

- Mấy anh ni biểu mở cửa cho mấy anh vô ngồi để cha Thịnh dạy việc.

Ông Tổng Giám thị la:

- Không mở cửa.

Kiên nói:

- Cha Thịnh bảo đến mở cửa lớp ngồi đợi cha.

Tổng Giám thị kêu lên:

- Ngày chủ nhật không ai được vào lớp học phá.

Học trò đồng thanh:

- Cha Thịnh sai… cha biểu.

- Không có cha, không có thầy nào biểu cả… Ngày nghỉ học sinh không có quyền đến lớp phá.

Cả tụi:

- Cha… cha biểu chớ bộ.

- Không ai biểu được cả, tất cả hãy ra khỏi trường.

- Đợi cha tới, cha sắp tới.

- Đi về! Ra khỏi trường.

- Không, cha Thịnh biểu.

- Cha biểu cũng không được, thầy biểu cũng không được. Nhà thờ hay chùa chiền gì biểu cũng không được. Thiên Đàng, Niết Bàn hay địa ngục A tì biểu cũng không được. Tất cả hãy ra khỏi đây ngay lập tức. Ngày chủ nhật còn đến trường quấy phá! Về!

Hải xông ra trước đồng bọn rướn giọng:

- Thưa ông Tổng Giám thị, chúng tôi biết đến trường giờ phút này là không phải, nhưng chúng tôi vì vâng lời cha Thịnh. Chúng tôi chỉ rời khỏi nơi đây khi có lệnh của cha Thịnh.

- Tổng Giám thị ra lệnh, chúng mày rời khỏi nơi đây lập tức.

Học trò ồ lên, mấy tiếng cười ha ha, xì xì. Tổng Giám thị hét về ngay, chúng mày lì phải không? Bọn học trò cười hô hố đứng chụm vào nhau tay đút túi quần. Chúng mày gan, chúng mày nghinh hả? Ông Tổng lấy giấy bút ghi chú rồi bỏ đi. Kiên nói với Hằng:

- Biết vậy, xin cha viết mấy chữ gửi cho ông Tổng mượn phòng họp.

Cả bọn càng lấy làm ngạc nhiên tại sao hồi nãy ông Tổng Giám thị không bợp tai học trò. Hải nói thằng cha không đánh tụi mình, nhưng thằng cha ghi tên còn chết hơn nữa, ngày mai thằng cha sẽ gọi lên từng đứa tới văn phòng… Tổng Giám thị! Sấm sét học đường! Sấm sét học đường!

Bắt học trò quỳ ngoài cột cờ, quất học trò bằng roi mây. Đồng phục lỗi thời, huy hiệu lệch lạc: đuổi về. Đi xe đạp trong trường, tịch thu xe. Hút thuốc lá, đuổi ba ngày. Mặc quần ống túm, lấy kéo cắt ngang ống quần. Trễ năm phút, không cho vào lớp. Nghĩ một ngày không đưa đơn, viết giấy mời phụ huynh đến nói chuyện. Làm ồn trong lúc vắng giáo sư, quỳ cả lớp. Để lớp học dơ bẩn, cả lớp phải quét.

Buổi sáng, Tổng Giám thị đi tuần một lần, buổi chiều đi tuần quanh trường một lần, tay cầm cuốn sổ, tay giữ cây bút, mắt kiếng thì kéo cao lên tóc. Học trò đã viết trong cầu tiêu nhà trường: Tổng Giám thị lé, Tổng Giám thị mắt ba tròng, mặc quần không có ba ghết. Tổng giám thị ăn cháo lươn không bỏ ruột. Tổng giám thị khi chết vẫn còn mở trừng trừng hai mắt lé. Đàn ông mắt lé là thứ người dâm đãng nhất, xin ơn trên bóp cổ Tổng Giám thị, xin Bộ Giáo dục thuyên chuyển hắn ra Gio Linh dạy học.

Một bọn học trò nào đó trong trường đã đi ngang hông nhà Tổng Giám thị nói lớn:

- Người không ra gì mới giữ chức Tổng Giám thị trong trường.

Một giọng khác lớn hơn:

- Tổng Giám thị là cái gì nhỉ? Không là cái gì hết. Vô nghĩa, vô dụng.

- Ừ… ừ, thằng cha tưởng làm Tổng Giám thị là oai lắm. Mấy đứa con thằng Tổng Giám thị chúng ông sẽ nhổ lông chặt cánh hết. Tổng Giám thị là không hơn không kém một cục đất sét, một cục hột bắt. Tổng Giám thị, cái chức nhỏ xíu à. Không có cái chức chi nhỏ hơn chức Tổng Giám thị. Người ta thì là Tổng thống, Tổng trưởng, Tổng trấn, Tổng Giám đốc, hắn thì là Tổng Giám thị, không ra một cái gì hết.

Cả bọn không có chỗ họp định giải tán ra về thì cha Thịnh tới. Bầy con gái chạy đến bên cha.

Hằng nói trước:

- Thưa cha, ông Tổng Giám thị đuổi về không mở cửa lớp cho vô. Ông nạt nộ như trời gầm.

Tất cả vây cha vào giữa, tất cả lộn xộn như công nhân sở Mỹ đưa yêu sách đòi đừng sa thải.

Kiên tiếp lời:

- Ông Tổng Giám thị mắng mỏ chúng con như đạn súng máy ria.

Cha hỏi:

- Các con có làm gì mất kỷ luật không?

- Bọn con vào nhà ông cai xin chìa khóa mở cửa lớp để ngồi đợi cha. Ông Tổng Giám thị hùng hổ như một biệt động quân xông tới la mắng như gió táp mưa sa.

Cha Thịnh nghiêm nghị:

- Theo cha đi vào.

Cha Thịnh tiến vào lớp. Một tên học trò được lịnh đi kêu mụ cai. Ông Tổng Giám thị hấp tấp chạy đến. Học trò con trai một loạt vỗ tay. Cha Thịnh suỵt suỵt bảo im rồi cười với ông Tổng Giám thị:

- Xin lỗi ông Tổng, cho mượn phòng có chuyện cần.

Tổng Giám thị vồn vã:

- Thưa cha, nếu khi hồi cha viết mấy chữ vào miếng giấy thì đâu có gì rắc rối. Vì có lịnh ông đại diện bảo phải canh gác trường ốc cho kỹ.