← Quay lại trang sách

Chương 2

Đêm đen láng. Đêm là một khoảng vô vi bao la dễ chịu. Giờ này nếu có một đoàn mèo mun dẫn nhau đi cũng không ai thấy. Đêm gắn muôn vàn khóe nhìn đăm đăm thật sát và phóng lớn đến vô tận. Đêm trời huyền, đêm có mái tóc dài, có màu lông ngựa ô, có mắt hạt nhãn và đêm là của riêng cho từng tâm hồn. Chùm lá tối tăm lay động trong thung lũng mực bao la căm lặng. Đêm đi vào trong sở hữu của từng tâm hồn khi ngày dứt ánh sáng không còn gì đáng thấy.

Trong không gian thoang thoảng hương của một loài hoa, cây hoa bại hoại mọc ở gần chiếc am nhỏ góc vườn. Đêm ở trong nhà cũng đẹp như đêm ngoài trời. Gió mát chan hòa, ngọn đèn dài trông cô đơn và lạc lõng. Bản dạ khúc nào cất lên nghe ngút ngàn nỗi nhớ. Nỗi cô đơn được nhân lên bao nhiêu lần là nỗi cô đơn chịu đựng được.

Đêm thơm như trầm mịn như tơ tằm và êm đềm như sóng lúa. Đêm hồng rực rỡ, đêm khỏa thân cho nỗi vui giòn tan và dí dỏm vỡ vụn ra thành từng mảnh ân tình. Đêm khơi mào tâm sự. Một đêm vui bằng vàng nghìn lượng. Trăng mon men đi theo một giãi mây, Bến Ngự đêm tàn nhưng tình không tàn. “Ai về Bến Ngự cho ta nhắn cùng. Nhớ chăng non nước hương Bình có những ngày xanh lưu luyến bao tình”.

Đêm đang tàn trên Bến Ngự. Cây thấp, sóng cạn, nhưng dòng nước nhỏ chảy qua cầu bạc là nơi neo thuyền lý tưởng khi màn đêm buông rộng. Đêm Bến Ngự hiền hòa với giọng hò mái nhì cất lên từ một thuyền cát dưới sóng tỏa rộng trong không gian âm vắng, lan trên những bụi hàng rào chè tàu xén đều như thành tường dày. Tiếng rao hàng rong buồn ảo não như tiếng a ơ chinh phụ dỗ con. Cầu một nhịp, sông Bến Ngự thuyền lớn không vào được, nên trên bến sông rảnh chỗ cho những người yêu nhau đứng tuần tự. Đêm run rủi những bước chân tìm đến nhau thật sát gót và làm tròn hy vọng. Đêm che chở vỗ về những gì ngày đã làm chói lói. Đêm an ủi những lo âu, giấu kín những tủi nhục. Đêm ngọt ngào như mật, tươi mát như da, thơm nồng như hơi thở.

Giữa im lặng và tối tăm, đêm chợt vỡ ra tiếng hát buồn dày: “Ai đời còn nhớ chăng? Xóm Nam Hương có một nàng. Lòng trinh muôn đời muôn kiếp, đem xuống tuyền đài oan ức ôm hờn ôi đến bao tan. Từ chồng ra đi, chiến tranh phân kỳ, dàu dàu chiếc thân, tàn canh soi bóng”.

Hằng đờ mặt lắng nghe và hướng mặt ra ngoài tìm kiếm. Đêm bồng bềnh rất nhẹ rất mát. Gió loãng hương cau dìu dặt lên từ bờ nước xoáy đập nhẹ vào bức mành tương nối bằng những cọng trúc ngắn.

Có rất nhiều gió, gió quen thuộc và gió quen biết. Hằng đến bên cửa sổ tì tay nhìn thẳng vào đêm dày. Cây ngọc lan có những búp bông nhỏ bằng ngón tay út ngâm mình trong đêm trăng láng như ướt nước. Tiếng hát lại trổi giọng kể lể: “Thằng bé kêu rằng, không không bố tôi đêm tối mới về, không không bố tôi đêm tối mới về… Ôi! Đau thương! Ôi! Ly tan!”.

Hằng biết đó là bài Thiếu phụ Nam Xương kể lể sự tích người lính trở về trong tiếng khóc, tiếng cười, tiếng bập bẹ của thằng bé con, tiếng chửi rủa của ông chồng ghen tương, vũ phu, nóng nảy, sôi nổi trong mối oan khiên dành cho người vợ trưởng chỉ biết có cái chết để tự chứng minh lòng trong trẻo trong sự hối hận lập đàn giải oan bên bờ sông vàng. Hằng như thấy trước mặt một hoạt cảnh âu sầu, người chồng xông lại bế con sau bao ngày xa cách, đứa bé hất tay đó không phải là cha của nó. Cha của nó chỉ xuất hiện ban đêm âm thầm và hiền lành: đi khi mẹ nó đi, đứng khi mẹ nó đứng, nằm khi mẹ nó nằm và chẳng bao giờ bế nó cả.

Hằng lẩm bẩm: Tiếng đàn của anh Minh, giọng hát của anh Minh. Đêm nào cũng hát bỏ cả học, ngày nào cũng đi hòa nhạc không đến trường chi hết. Anh ấy bây giờ chẳng còn ham cái chi cả ngoại trừ đàn hát. Cứ cầm cây đàn lên vai là mê đi, lú đi.

Hằng che miệng ngáp, nghĩ tiếp: Ba nhất định bắt anh phải trở thành một thứ sĩ gì to lớn, mà anh thì lại muốn trở thành nhạc sĩ.

Hằng định đóng cửa quay vào thì bỗng một tiếng thét rú lên đục thủng nỗi yên lặng. Tiếng thét nhọn, lao vút, kéo dài rồi tắt hẳn. Tiếng thét thứ hai kéo dài đều đều như tiếng còi, rồi tiếng thứ hai ngắn cụt đứt ngay.

Hằng lẩm bẩm:

- Chị Đức… đêm nào cũng ru nghe xốn tai quá. Thét rú liên hồi nghe như còi báo động. Cứ chạy ra góc vườn mà hét đứng lên.

Hằng hé cửa bước ra đứng ở chái sau. Tiếng thét giãn nở, loãng dần rồi im bặt. Một lúc lâu lại có tiếng hú dài bò ngòng nghèo. Rồi một giọng cười ré lên như tiếng đồng hồ báo thức xoay vào lá nhỉ rồi tan rã thành từng mảnh âm thanh chói tai ê óc. Tiếng cười chợt đổi thành tiếng khóc gào lên thê thiết thảm kể lể.

Hằng bươn bã chạy đến phòng cha đập cửa hồi lâu không thấy động tĩnh liền chạy ra. Chị Đức tối nay lên kinh quá, ghe hồn quá. Ba đi mô rồi không biết, thuốc men cho chị uống răng đây mình biết mô mà mò.

Dưới ánh trăng vàng loãng một bóng trắng xõa tóc đen mượt đang đứng ôm gốc cây tre mà khóc lóc thê thảm. Khóc lóc giậm chân, giật tay rồi bóng trắng dợm trèo lên cây.

Hằng kêu to:

- Chị Đức!

Hằng chạy tới ôm chầm lấy chị. Đời thuở nhà ai lại ôm cây tre mà trèo lên bao giờ. Vô lý như điên. Trèo lên cây tre không được trèo xuống cây tre lại càng không được.

Người con gái vẫn khóc lóc thảm thiết trèo lên không được lại tụt xuống ôm cứng thân tre mà nói lảm nhảm:

- Anh ấy đến đây rồi hả? Anh đến đây phải không? Em mong anh đến sao anh không đến? Anh nhất định không đến phải không anh? Thế mà em đã tin rằng anh sẽ đến. Em tự phĩnh phờ em rồi. Ngóng trông gặp gỡ là một ám ảnh và ngóng trông gặp gỡ cũng là một lừa gạt. Em xót ruột và em xót xa. Ánh trăng chảy thấm vào em, gió thổi bụi độc vấy em. Anh vĩnh viễn không đến. Từ hình người, anh đã tan thành bóng ma. Từ thịt xác anh đã chảy ra nước. Anh đã mất mà em vẫn còn.

Hằng kéo chị. Sau lưng Hằng có tiếng kêu tới tấp:

- Đức… Đức…

Ông Phủ tay cầm cây đèn bão sầm sầm đi tới, bên sau là mấy cậu con nhỏ.

Ông Phủ dồn dập kêu:

- Đức… Đức… Tỉnh đi con!

Hằng đưa tay gở tóc và lau mồ hôi cho Đức. Ông Phủ nói như rên:

- Khổ quá! Cứ chạy ra ôm cây tre mà khóc, dập đầu, vướng tóc… không biết làm răng đây? Khổ quá! Cứ vài ba đêm lại chạy ra ôm cây tre mà khóc một lần.

Hằng thở mạnh:

- Mọi khi chị Đức lên cơn nhẹ nhẹ, lần này ghê quá!

Ông Phủ lắc đầu:

- Hồi chiều đem đi bác sĩ có gì đâu… Tao đang ngủ nghe kêu la rát quá!

Đức cười khóc hỗn loạn, ôm cứng lấy cây tre, đu người lên mấy lượt đều rớt xuống.

Ông Phủ quay lui hai thằng con:

- Lại ôm lấy chị. Hằng gỡ tóc chị ra đi, gỡ tay ra nhẹ nhẹ rồi bồng vô trong nhà.

Đức giậm chân kêu la, hét rú thất thanh gào trời kêu đất. Anh, anh hẹn đến mà không thấy đến. Em gọi anh như gọi đò mà không thấy đến. Cứ hẹn lần hẹn rồi. Sự chờ đợi làm ươn tanh người ta. Lần nào hẹn cũng không thấy cái mặt. Mười lần hẹn chín lần thất, anh đi hoài đi mãi. Anh đi là cứ đi. Trăng trên đầu sáng rỡ là cứ sáng. Em đã chờ đợi, trăng đã đi qua bao nhiêu mùa, em vẫn chờ đợi trăng chấm dứt nhiệm kỳ, em vẫn chờ đợi. Trăng hết sáng anh vẫn chưa thấy lại. Trăng thật cô đơn và trăng thật lạnh lùng cho người nào chỉ có một bóng một mình. Em đêm nào cũng cô đơn, ngày nào cũng cô đơn.

Nhớ anh không làm sao chịu được. Anh, anh, anh muôn đời muôn kiếp.

Đức khóc hu hu:

- Anh, anh…

Tôi muốn đập bể đầu tôi. Tôi không có ý nghĩ nào muốn sống nữa. Tôi muốn chết cho tôi coi. Tôi không muốn cứu sống tôi nữa. Đừng ép tôi uống thuốc… Uống thuốc để làm gì, dang ra hết cho tôi yên, cho tôi tỉnh táo.

Hằng bước ngắn theo mọi người vào nhà nhìn chị dâu soạn thuốc chích cho Đức rồi bỏ về phòng. Dòng họ mình đời nào cũng có một người dại khùng rước lấy những rủi ro đen đủi của cuộc đời. Chị em mình thì được hưởng hết những diễm hồng đức đỏ. Chị Đức điên, một nỗi tuyệt tình thật cay độc. Chị Đức điên một cuộc thảm bại đau thương. Chị Đức thoát chết, chị Đức điên. Tình yêu khủng khiếp như một vũng máu. Người yêu của chị Đức là anh tuyền. Người bỏ chị Đức là anh Tuyền.

Hằng đột ngột lặng câm ngồi dựng thẳng, mắt đứng tròng và miệng ngậm kín. Một hai chiếc lá đã bay vào cửa sổ. Ha hạ mắt. Gió ớn lạnh. Lá rụng theo thói quen. Lá giữ màu xanh và màu vàng cũng do thói quen. Và Hằng đã thấy một ý nghĩa nào đó. Lá rụng do nỗi lòng của lá. Lá rụng do một ý muốn mạnh. Lá không rụng, mùa thu không linh hồn, và heo may hầu như bất động. Xác lá rụng tươi quay quắt nằm đó. Nỗi cô đơn nặng không cân nổi. Muôn vạn cõi lòng buồn nhớ và chán nản. Có một số chiếc lá nhất định rơi từ Tiên xuống. Ở Tiên, lá rơi vô kể.

Lá đào rứt mình ra khỏi cành tươi bay, lao đao một phút rồi nằm xuống rắc kín đường Thiên Thai làm bối cảnh cho biệt ly Lưu – Nguyễn với hai người tình tiên. Những con chim oanh nhìn xác lá để buông lời ngậm ngùi đưa hai người đáp xuống trần thế. Tiên cô sướt mướt thở dài. Lá rụng không đành ôi trời ơi! Chị Đức… tình yêu tưởng nhẹ mà bây giờ là vậy. Chị Đức còn lại như vậy đó. Một tặng phẩm cho gia đình.

Hằng thở như nấc khi Hằng đứng ngay ngắn nhớ lại cuộc gặp gỡ hồi chiều. Mắt Hằng mờ đi như nhìn qua một màn kính nhòa nước. Trí nhớ Hằng kéo về…

- Thưa cô, trò Hằng ăn bắp.

- Thưa cô, trò Hằng cứ đụng tay em hoài.

- Thưa cô, trò Hằng chửi tên ba em.

Cô Luyến suỵt suỵt. Hằng im đi. Hằng láu táu, lí lắc lắm nghe. Ngồi yên vòng tay lại. Còn nhúc nhích ngo ngoe nữa thì đuổi xuống bàn dưới với học trò con trai. Hằng muốn quỳ không? Hằng muốn ăn thước kẽ không?

Khi một đứa học trò con trai nói chuyện nhiều, cô Luyến phạt lên ngồi bàn trên với tụi con gái. Khi một đứa học trò con gái nói chuyện nhiều, cô Luyến phạt xuống dưới với học trò con trai. Trong lớp ba của Hằng có hai đứa bịnh: con Nhớ ghẻ hờm và thằng Bá thúi tai.

Sau giờ tập đọc, con Quyến đem tấm hình bà đầm đẹp ra cho mấy đứa coi. Hằng đưa tay chộp một cái mạnh làm rớt bình mực của con Quyến xuống đất, mực tím chảy qua cuốn sách chưa gấp lại.

Con Quyến níu Hằng:

- Bắt đền, bắt đền quyển sách.

Hằng vênh mặt:

- Đền con cóc đen.

Lập tức con Quyến đứng rột dậy:

- Thưa cô trò Hằng làm đổ mực trên sách em, em bắt đền thì trò Hằng chửi em.

Cô Luyến đánh cái thước xuống bàn:

- Hằng hư nghe, từ sáng đến giờ bị thưa không biết bao nhiêu tội.

Quyến lại dong tay:

- Thưa cô trò Hằng nhiếc em cằm nhọn như cằm con kiến, trò Hằng lại còn hăm ra đường sẽ đánh em nữa.

Cô giáo nạt:

- Hằng, xuống ngồi bàn con trai. Hằng đứng thẳng lên vòng hai tay lại, xuống bàn con trai ngồi.

Cô Luyến chỉ vào chỗ thằng Bá thúi tai. Thằng Bá vội ngồi xích vô vòng tay khổ sở. Hằng ôm cây xăm đi xuống ngồi vào bàn sau lưng thằng Bá chỗ Điệu Tân ngồi sát vào Điệu Tân. Có vài tiếng i a chí chóe. Điệu Tân vội xích vô lấn vào Điệu Lý.

Cô Luyến bảo:

- Thôi, ngồi đó cũng được. Trò Lang lên ngồi bàn trên đi.

Điệu Tân và Điệu Lý ngồi im như hai thằng ngồi gỗ. Hằng gãi cổ rồi qua nói chuyện:

- Điệu chấm mực xanh hay mực tím?

Chú tiểu tí hon đầu tròn trái dừa tóc trọc chỉ chừa hai cái bớt hai bên như chó và vội ngồi thu người như con cóc ngậm miệng cứng. Hằng thích cùi xích tới?

- Ê, Điệu Tân tui hỏi Điệu chấm mực xanh hay mực tím mà.

Chú tiểu Tân chao mắt nhìn cô giáo và ngồi vòng tay thật thẳng. Giờ chơi cô Luyến nhịp thước kẻ trên bàn ba lần học trò mới được ra. Điệu Tân nắm tay Điệu Lý đứng trên hai viên gạch, Hằng mon men chạy tới rủ:

- Điệu Tân, Điệu Lý, chút nữa về nhà thương điên coi bà Phi điên nói về nghe!

Hai chú tiểu lắc đầu nguầy nguậy:

- Không, không… tui không đi mô, ông tui khổ u trốt.

Hằng phụng phịu:

- Điệu Tân chi chi mô, khi hồi tui hỏi Điệu chấm mực xanh hay mực tím mà Điệu không trả lời.

Chú Tân nhìn xuống bàn chân mình:

- Tui chấm mực tím.

Hằng đứng xích lại một tí:

- Điệu Tân ơi, tui quên đem bình mực đi rồi, chút nữa Điệu cho tui chấm mực của Điệu với hỉ.

- Không, không… ông tui la, ông tui biểu một ve mực phải chấm một tuần lễ.

Hằng cầm dải áo nhảy lên một cái rồi nói:

- Điệu Tân ơi, Điệu xài ngòi bút lá tre hay lá vông?

Chú Tân nhổ nước bọt xuống đất:

- Tôi viết ngòi viết lá tre.

Hằng hít mũi:

- Điệu Tân ơi, Điệu có hai ngòi viết cho tui mượn một ngòi.

- Không, không… ông tui quở, ông tui biểu đừng làm rè ngòi viết. Ông tui giao mỗi ngòi viết phải viết trong một tháng lựn mà!

- Điệu Tân ơi, buổi sáng Điệu dậy mấy giờ?

Chú tiểu nhỏ ngước lên:

- Ông tui dạy phải dậy sớm học bài khi bụng đang đói thì dạ mới sáng. Học bài dể như ăn ốc, học kinh Phật mới khó. Bài kinh mô cũng dài dòng dọc, cũng ê a trúc trắc. Ông tui nói kinh viết theo chữ Ấn Độ học khó lắm, rứa mà tui chỉ tụng có hai lần là thuộc.

Hằng hỏi:

- Điệu dậy khi mấy giờ?

- Bốn giờ sớm.

- Điệu dậy chi mà sớm rứa? Rứa đi ngủ khi mấy giờ?

- Tụi tui ngủ với thức đều theo lịnh ông.

Điệu Lý nảy giờ rúc mặt vào nách Điệu Tân, từ từ chúm miệng lại rồi nói:

- Ông biểu chi làm nấy không ông chửi.

Giọng nói Điệu Lý líu lo ngọng nghịu trong khi cái đầu ngúc nga ngúc ngắc như đầu gà cồ. Điệu nói bắn nước bọt vào má Hằng. Người tu hành như tụi tui phải thức nhiều ngủ ít, phải tỉnh nhiều mê ít.

Buổi sớm ông tui thức dậy trước, ông tui rung hồi chuông thứ nhất, ông tui rung hồi chuông thứ hai, tui mới ngồi lên mặt nhăn mắt nháy. Tui chạy ra vại nước lấy gáo múc rửa qua loa như mèo làm dáng rồi mặc áo vô là đứng tụng kinh sau lưng sư cụ. Điệu Tân cũng vậy, chân tay sạch sẽ, áo mặc chỉnh tề, cũng lên đứng trước bàn thờ đánh từng hồi chuông ba tiếng. Tụng xong khóa kinh sớm, tụi tui mới xuống bếp nấu nước pha trà, lo nồi cơm. Ông tui. Ông tui uống trà ít thiệt ít, uống như nếm từng ngụm trà chát.

Tụi tui bày cơm ra trên tấm phản gỗ bời lời, Điệu Tân xách chén muỗng chạy ra sân múc tương. Rồi ông bắt hai đứa tui ngồi khoanh chân đâu mặt ăn lót lòng cơm gạo hẽo rằn rắc muối mè, rưới nước tương.

Hằng xuýt xoa:

- Ăn cơm với muối mè, với nước tương… cực quá hí? Ăn rứa nuốt răng vô?

Điệu Tân nhếch mép:

- Ăn quen mạng đi rồi.

Hằng nói:

- Tui ăn cơm với thịt gà.

Hai chú tiểu cùng rụt đầu:

- Ấy, ấy, không đi tu… mới ăn thịt gà.

Vô học, Hằng đem bài tập làm văn được sáu điểm ra khoe. Từ khi bị đổi xuống bàn con trai, Hằng bị bọn con gái tẩy chay khỏi những trận ù mọi, những vòng năm tiền, những cuộc thả dĩ ba đa, Hằng mon men chơi sát hai chú tiểu tí hon tẳn mẳn hỏi han cha chú chết chưa, mẹ chú còn hay không, chú ăn cơm một bữa mấy chén. Chú Tân kể rằng cha chú chết trước, mẹ chú chết sau, chú phải vào chùa ở tu năm lên bốn. Sư cụ chụp ngay cho chú một đầu tóc chó vá.

Chú cầm đũa chưa rựa, phải bốc cơm mà ăn trong chén sắt, cả ngày lũn đũn chạy vô chạy ra như con cún. Vào chùa ăn mãi cơm chay cho đến chết, buổi sáng cơm hẩm rưới tương, rắc muối mè, buổi chiều thêm ngọn rau lá cải. Ngày hai bữa cơm chắc bụng, rằm mồng một mới được ăn chao với đậu rán om cà chua. Sư cụ chùa Từ Linh triệt để bắt hai chú tiểu phải theo luật Phật, ăn ít, ngủ ít, làm nhiều.

Tuy nhiên, vì hai chú tiểu đều dưới mười tuổi nên mỗi tháng hai lần, các chú được quyền ăn cá ăn thịt chút ít. Các chú bị cấm không được bước chân vào chợ, sư cụ còn bắt các chú đến trường không nên đi con đường dẫn ngang qua chợ.

Mỗi lần các chú đi học, sư cụ đều dặn:

- Không được ngửa tay xin ai cái chi. Ai cho chi cũng đừng ngửa tay lấy. Tay chân phải sạch sẽ, miệng mồm đừng có ăn bậy ăn bạ, đừng có thóc mách bép xép.

Sau bữa cơm, chú Lý quét nhà lau nhà, chú Tân cầm chỗi xúc cươi. Chú Lý cuối cong người cầm cây chổi tàu cau moi móc sạch trơn những ngọn rác ở trong kẹt trong góc tường xó xỉnh rồi ra giếng múc một xô nước bắt đầu giặt khăn lau nhà, chú bò quanh nhà mà lau, đi bằng đầu gối mà lau sao cho sạch nền gạch bóng láng như bát ăn cơm. Sáng ra ông của chú sẽ khom người, dòm ngó mọi chỗ, ngồi bệ xuống đưa tay xoa xoa dưới nền nhà rồi đưa tay lên soi ngắm thử có nhám có hằn. Chỉ một câu la mắng, sư cụ có thể rền rĩ từ ngọ tới khuya tỉ mỉ như rau răm rau búng, kỹ càng như tụng kinh đọc kệ.

- Cái thằng Lý sáng ni vừa đọc tiểu thuyết vừa lau nhà hay răng mà dưới cái giường của tao cả cát và cát, tao sờ vào hắn nhám là nhám, tao mài tay cơ hồ chảy máu tay, thủng thủng cả tay.

Sư cụ ngồi nhâm nhi tách trà, nhón cục đường phèn cho vào miệng mút, mắt khép hờ nửa ngủ nửa thức, chợt chú Lý ôm cuốn tập đi qua, sư cụ choàng mở mắt càu nhàu:

- Cái thằng Lý sáng nay vừa đọc tiểu thuyết vừa lau nhà.

Sau giấc ngủ trưa, sư cụ nhấm trà xong, lên nhà lớn đọc kinh rồi lại xuống nhà đọc sách, nhác thấy chú Lý chạy lạng quạng ngoài sân, sư cụ vội ngầy:

- Cái thằng Lý sáng nay vừa đọc tiểu thuyết vừa lau nhà.

Chú Lý vội tụt xuống bếp, chú Tân hỏi:

- Ông quở chi chú rứa?

Điệu Lý cười nhe hàm răng mất cái giữa:

- Ông ca.

- Ca chi?

- Ông ca tui lau nhà không sạch.

- Điệu lau nhà ẩu phải không?

- Mô có!

Sư cụ vội chống gậy đi xuống:

- Hai cái thằng lép bép lắp bắp chi đó? Trong nhà chuột đã rúc, tụi bây còn rúc to hơn nữa, gà đã bươi, tụi bây còn bươi hơn nữa, chó đã sủa, tụi bây còn sủa to hơn nữa.

Sư Cụ lại lên ngồi đọc sách, hai chú tiểu lục lạo cái rương đựng quần áo, đụng vào cái chõ hong xôi rớt xuống đất kêu một tiếng lớn.

Sư cụ chạy vào hét:

- Hai cái thằng giỡn mỡ, giỡn mê, tụi bây uống đậu phụng cho no mập múp míp ra rồi tụi bay xô xáng đồ đoàng cho bể hết phải không? Tụi bay có muốn đi tu không? Nếu không thì tao kêu người làng người nước đến nhận tụi bay về.

Nhác thấy chú Tân cầm kéo, sư cụ lại hát:

- Mi định cầm kéo cúp tóc ca rê phải không? Đi tu mà còn đòi để tóc. Tụi bay muốn đi bán thuốc cao phải không? Tụi bây muốn đi làm kép hát phải không?

*

Mô#t buổi sáng lạnh tê, trên trời còn vài vì sao tròn thon kháu khỉnh, sư cụ đánh đến hồi chuông thứ ba, chú tiểu Tân vẫn còn nằm cuộn tròn như con sâu chiếu trên chiếc chõng tre xập xệ. Điệu Tân rên siết cần cổ chú cứng ngắc không cử động được. Khó Lễ sáng chỉ có Điệu Lý đứng hầu ông Từ Linh. Sư cụ niệm hương liền đi xuống chiếc buồng xếp ngồi vào đầu giường tre, đưa tay dỡ mền sờ lên trán chú Tân.

Sư cụ hỏi:

- Con đau chi rứa con?

Điệu Tân vội chụp tay cụ:

- Ông ơi, con lạnh run dữ quá, run đến muốn sập giường.

Sư cụ giữ hai đầu gối chú tiểu nhỏ:

- Con có nóng không?

- Hết lạnh rồi đến nóng, con nóng như ai đem con mà bỏ lò hấp.

Sư cụ khò khè hỏi:

- Con có nhức đầu không?

- Ông ơi,con nhức đầu như bị ai giã gạo trên đầu con rứa tê.

Sư cụ vỗ vai chú tiểu:

- Thôi được, nằm đi, đừng có rên không tốt.

- Ông ơi, hai hàm răng con cắn nhau kêu cạch cạch.

Sư cụ lập cập đi lên nhà trên lấy cái nang mực phơi khô mài ra với tí nước, sai chú Lý đỡ chú Tân ngồi dậy uống. Buổi sáng hôm đó, chú Tân không ăn được cháo, buổi trưa cũng nhịn đói và buổi tối, chú vừa mới xúc hai thìa cháo cho vào miệng đã mửa vọt ra ngoài. Sư cụ sai Điệu Lý đi rang nắm gạo lấy nước và biểu chú rót ra ly múc đút cho người bịnh. Qua ngày hôm sau, Điệu Tân càng nóng dữ dội, những mụt trắng nổi chung quanh miệng, chú kêu đau lá mía đau gan rồi chú chỉ tay ra ngoài vườn biểu hái cam cho chú ăn. Chú ăn được hai múi cam rồi nằm ngủ. Sư cụ sai chú Lý đi mua một lon sữa bò khui chế cho chu sung nhưng sữa nước uống vô mười lăm phút sau lại mửa ra sửa cục lợn cợn. Sư cụ lo ngại biểu chú Lý ra tiệm thuốc tây mua một viên thuốc.

Chú Lý cầm tờ bạc vê hình điếu thuốc lá và hỏi:

- Nói răng mà mua, ông?

Mi cứ ra biểu họ bán cho một viên thuốc chữa bệnh nóng lạnh. Mi đi mau mà về, không được chơi giữa đường như con nít can nó cù bơ cù bất lang thang vỉa hè nghe không con.

Chú Lý dạ một tiếng, cầm đồng tiền ù té chạy. Trời mưa mãi hoài như đùa dai. Chú chạy vô bếp lấy chiếc tới cá mang vào người mở cửa ra đi. Chú lận đồng bạc trong lưng quần và xắn ống quần lên tới háng. Chú đi những bước chân chim chuyền cánh cành tìm những vũng nước động mà lội bì bõm. Chú xoay chiếc tơi cá quanh người, mưa phía nào che phía đó. Chú đứng lại ngó người ta rớ cá, coi người ta câu ếch. Đi ngang chợ, chú nhảy lên từng cấp bước vô. Trong đình chợ la liệt những thức ăn màu sắc gợi thèm. Những trái thị, trái bứa vàng hoe, to bằng chén đơm cơm, bún bò cháo vịt bốc khói phì phào, bánh canh cua gạch đỏ ối, từng dĩa bánh bèo đánh hành mỡ rắc tôm cháy đều như nhuộm phẫm. Chú Lý rệu nước miếng, đưa tay sờ sờ đồng bạc giấy lận trong lưng quần. Chú cầm đồng bạc trong tay dùng dằng nửa muốn ngồi xuống trước cái trẹt đựng về chả tôm dày tới năm phân thoa lòng đỏ trứng vịt lên trên. Chú Lý uống tí nước bọng đang nhễu ra trong miệng và đưa tay mút, chú Lý trù trừ hoài, những lời căn dặn chát như hồng chưa ngâm của ông chùi vào đầy cả hai lỗ tai nhỏ xíu:

- Tụi bay đừng có ăn hàng chợ dọc đường. Tụi bay đừng có đi ngang chợ, đừng có khi mô đục mặt vô chợ hết. Một tháng ba mươi ngày, tụi bay có hai ngày ăn mặn rồi, đừng có thèm lạt chi nữa vô lối.

Chú Lý lao mình khỏi chợ cúi đầu chạy tới tiệm thuốc. Chú đi mất hai giờ đồng hồ mới đem về hộp thuốc nhỏ.

- Ông ơi ông, họ không bán một viên lẻ, họ bắt mua cả hộp.

Sư cụ lóng cóng cầm hộp thuốc mở ra lắc lắc rồi đổ mấy viên lên lòng bàn tay:

Chú Lý vội kêu:

- Ông ơi, để con đọc cho ông nghe ni.

Sư cụ chớp chớp mắt hỏi:

- Đọc cái chi răng mi?

Chú Lý hô lên:

- Chuyên trị các chứng đau ruột, các chứng đau bộ sinh dục, các chứng tiểu tiện đau của nữ giới nam giới (bọng đái viêm, thận viêm, chứng viêm khuẩn có ti), hợp chứng ruột thận, các chứng bịnh của bộ hô hấp (như các biến chứng của bịnh cúm), các bịnh mũi và họng. Các bịnh nhiễm độc thông thường, đau cuống họng trắng, thịt dư làm độc, nóng lạnh làm kinh.

Sư cụ nạt nhỏ:

- Đồ cái thằng con nhà cu li, tao biểu mi mua thuốc nóng lạnh cho hắn uống, răng mi lại mua thuốc ni.

Chú Tiểu Lý cãi:

- Thì con nói với họ bán cho tui thuốc nóng lạnh thì họ đưa thuốc ni mà.

Ông cằn nhằn:

- Cái thằng… cái thằng xài tiền như Mỹ xài. Người ta biểu chỉ mua thuốc nóng lạnh mà thôi, mà hắn đi na về cái thứ thuốc chữa nhiều bệnh cho mất tiền. Đau một bịnh thì mua thuốc chữa một bịnh, ai lại đi mua thuốc chữ bá bịnh cho mất tiền.

- Ông không biết chi cả, thuốc tây người ta chữa năm bảy bịnh một lúc, chữa hết mặt ni rồi qua mặt tê, chữa bịnh ni rồi bịnh khác. Không có thuốc tây mô chữa một bịnh cả, viên thuốc tây mô cũng chữa một lúc bảy tám bịnh.

Sư cụ ngơ ngác:

- Ai nói với mi viên thuốc tây mô cũng chữa một lúc bảy tám bịnh? Rứa thì đau bịnh chi uống bớt cả à? Đau chi uống nấy chứ bộ. Con người ta đau có một bịnh mà đi mua thuốc chữa bao nhiêu bịnh tốn tiền tốn của.

- Người ta không bán thuốc chữa một bịnh mà ông.

Điệu Lý buồn ngủ bắt rệu hai con mắt. Chú ngáp một cái ướt nhoẹt lệ sống. Sư cụ biểu:

- Thôi mi rót hớp nước cho hắn uống đi.

Viên thuốc với ngụm nước nuốt vào chưa ngậm miệng lại đã phọt ra ngay với chất cam trộn sửa vừa mới uống, chú Tân còn nôn khan nghe như những tiếng nấc. Sư cụ giương đôi mắt hườm hườm những đường chỉ đỏ nhìn chú Lý rồi cúi xuống ngó đất. Sau một lát sư cụ sai chú Lý vắt cam cho bịnh nhân uống với viên thuốc khác.

Chú Lý nói:

- Bịnh nặng tới óc rồi ông ơi. Ăn cam là bổ đại hạng mà còn mửa ra thì thôi. Người ta nói bữa mơi mà ăn cam là bổ như ăn gan trời, canh trưa mà ăn cam là bổ như ăn tim bụt, canh tối mà ăn cam thì tốt như phổi Bồ tát.

Ông quở:

- Cái thằng đừng ăn nói ba trồng ba trợn nữa đi… Lẹ lên cho hắn uống cho rồi mi.

Dạ, dạ, dạ, chú Lý dạ ba bốn tiếng rồi đi lấy dao, đứng khuỳnh chân vòng kiềng sắt hết hai trái cam mới được tí nước, chú la:

- Hai trái cam to đại đột mà được có chút xí nước ông ơi.

- Mi bỏ viên thuốc vô hòa cho hắn uống đi.

Chú Lý bỏ viên thuốc vào ly cam tươi, đưa ngón tay út, khuấy tròn, bưng lại. Chú tiểu Tân há họng uống xong lại ói mửa nữa, chú nằm vắt lưng qua chiếc gối nâu, ưỡn chiếc bụng căng cứng. Sư cụ đưa tay nắn, sờ sờ quanh rốn và bật kêu:

- Trời ơi, thằng ni hắn nổi cái hột chà là nơi bụng.

- Mô ông, mô ông, chú tiểu Lý lật đật hỏi và xoắn xít đặt tay lên bụng bạn rồi chú lật đật rút tay về. Trời ơi, bụng nóng như nướng thế ni trời. Sư cụ bảo thôi mi lên Phường Đúc mời thầy y tá lai cho tao. Chú Lý chạy ù một mạch chân không bén đất.

Thầy y tá cho chú Lý một nạm mít mật sấy, bảo chú vén áo lên ngồi sau bọt ba ga xe đạp rồi chở về chùa. Thầy y tá chích cho Tân hai ông thuốc, chú Tân ngủ một giấc dài đến chiếu mới dậy đòi uống nước. Mặt chú vàng ủng, cặp mắt lờ đờ, leo lét, cơ thể mềm nhũn tay chân cử động yếu ớt. Thầy ra về để lại hai viên thuốc dặn chú Lý cách bốn giờ cho bạn uống một lần.

Sáng hôm sau, thầy y tá trở lại nghe mạch chú Tân xong, cởi trần chú ra, ấp bàn tay bằng trên da ấn từ từ cả bề dài mấy ngón tay xuống bụng một lượt rồi dùng đầu ngón tay chỉ sâu vào bụng.

Thầy y tá hỏi:

- Thưa ông, mấy ngày nay Điệu ni có ăn chi không?

Sư cụ chớp chớp đôi mắt leo lét:

- Ăn chi vô, mửa ra nấy, ăn cam mửa ra cam, ăn sữa mửa ra sửa, uống thuốc mửa ra thuốc.

Thầy y tá cầm hộp thuốc chú Lý mua đưa cho sư cụ:

- Thứ thuốc ni, đừng xài đến nữa, ông cất kín đi ông. Chú ni uống thuốc tiêm thuốc của con trong hai ngày là hết bịnh. Chú ni bị cái bịnh thiếu chất bổ, trong người chú ni không có đồ ăn thịt cá trong bao tử, chú ni phải cho uống thuốc bổ máu, cho ăn thịt bò vô mới mạnh được, không thì cứ nằm hoài.

Ông lắc đầu:

- Thằng ni mà ăn thịt bò?

- Dạ, chú ni cần phải ăn thịt bò. Thịt bò là bổ nhất trong mọi món ăn.

Sư cụ đưa mắt nhìn ra cây đề xum xuê những chiếc lá lớn màu xanh bóng bên cạnh cây vú sữa treo những trái tròn mũm mĩm trên mái đình cong cong lợp ngói âm dương mà trụ gỗ trên nóc uốn khúc cặp long hổ chầu nguyệt. Bên bờ giếng sâu thăm thẳm xây bằng đá ong, hai người đàn bà đang kéo gàu giữa hai đôi nước trong ngọn gió đông tê tê da thịt.

Thầy y tá lại nói:

- Ông phải cho chú nhỏ ăn thịt ăn cá.

Sư cụ nhìn ra khu vườn nhỏ. Những cành chanh đã bắt đầu điểm và bong búp trắng bên dưới bẹ cau tươi mướt. Năm ngoái bão lụt làm gãy cây cau đang trổ hoa ở góc vườn, sư cụ sai chú tiểu Lý sang nhà bà Lân mời cô Mậu qua cắt bắp cau non làm gỏi. Cô Mậu xắt bắp cau non ra từng lát mỏng xát muối rồi trộn với dầu mè. Đĩa nõn cau trắng béo ngậy, ba ông con ăn một bụng ngon ngất tới cổ. Trời lạnh, hoa chanh, hoa bưởi đưa hương thật gần như sát vào mũi.

Thầy y tá nhắc lại:

- Ông phải cho chú nhỏ ăn thịt cá mới được.

Sư cụ móm mém trả lời:

- Hắn là người tu hành ăn đồ tanh răng được.

Chú Lý bưng ra mời khác nải chuối mốc mốc chín bầm đen, tách nước nóng bỏng với mấy cái bánh chưng cưng như oản.

Thầy y tá lại kêu:

- Ông ơi, ông không cho chú ăn thịt ăn cá sợ chú bại chân đó. Ông nghĩ kỹ đi ông.

Sư cụ nhắm đôi mắt leo lét lại. Năm ngoái bà Thượng góa trong làng mời ông với hai học trò lại nhà tụng kinh cúng chồng. Canh trưa, gia chủ dọn cơm cháy lớn lòe loẹt sắc màu.

Với những bát tiết canh, bát nham bò, bát giả cày, nem chua, nem bì, đĩa cá hấp, bí nhồi tàu, nộm sữa, chả giò tôm phích, chim om chua. Những bát đồ chay gợi thèm không thua gì các thức ăn thịt cá. Sư cụ phàn nàn rằng con tôm thật giống con tôm, con cua y hệt con cua, miếng mỡ ra miếng mỡ, miếng nạc đúng là miếng nạc, cục chả không khác gì cục chả, đầu cá hấp không thua gì đầu cá hấp, chén nước mắm giả cũng hấp dẫn như chén nước mắm thật. Mắt trông thấy mà thèm. Tất cả đều có cái hình cái sắc, cái vóc cái vẻ, cái dáng của những miếng ngon tục lụy. Nhưng đã đi tu là không lý đến chuyện đó, là rời xa, là cố tránh, là không tơ tưởng tới.

Ấy vậy mà còn diễn ra, còn bày ra để làm gì. Ấy vậy là chọc mắt, châm chích vào mắt. Hôm khác ba ông con lại được mời tụng kinh và ăn cơm tại nhà gia chủ. Mâm cơm đồ sộ dọn chung cho cả nhà cùng ăn với ba người khách. Ai nấy đều ăn đồ ăn lợi, duy có cụ chánh ông là nhậu tôm thịt. Cụ chánh ông lại sai bưng mâm cơm riêng của mình lại góc bàn me mé để vừa ăn vừa hỏi sư phụ vài câu về cái triết lý Mạnh Tử. Sư cụ khen bà nội trợ nấu đồ ăn chay ngon bổ tinh tấn.

Đang giữa bữa thì cậu Ba về. Cậu ngồi xề xuống ăn luôn. Cậu ăn mặn nhưng thỉnh thoảng cứ chòi chòi gắp miếng nộm chay. Đũa mặn của cậu ta dây vào tô canh sư cụ đang chan. Sư cụ ngửi ngay một mùi tanh, vội bỏ đũa ngồi nhìn xuống.

Cả nhà trưng mắt lặng lẽ ngó cậu Ba.

Sư cụ mở hai mắt leo lét ra, từ tốn nói:

- Hắn đi tu rồi, bắt hắn ăn mặn tội chết. Thầy y tá cứ để mặc hắn lại sức lần lần.

Thầy y tá cười:

- Ong ơi, sư bà Điệu Mẫn con của Vua Thành Thái ngày xưa lúc sắp chết còn uống một muỗng nước mắm nữa là… Ông ơi, câu chấp làm chi.

Sư cụ làm thinh, thầy y tá lại nói:

- Ông cho chú ăn cho rồi đi ông!

Sư cụ ngó ra đụn rơm vàng hình cây nấm lớn. Dưới đất, mấy mẹ con gà mái dầu lích thích kiếm mồi và chị lợn sề gếch mõm nằm dài tha hò cho đàn con ủn ỉn. Có tiếng cu gáy từ một vườn mít xa vọng tới. Ngoài vườn mấy con mít già năm nay nhiều trái cám quá.

Thầy y tá cất ống chích vào hộp:

- Mấy chú đây còn ăn mặn một tháng hai lần mà… Ông cho chú ni ăn mặn mười lăm lần một tháng lấy sức cũng chẳng sao mà.

Sư cụ nhìn xuống hai bàn tay mình:

- Rằm tháng hai vừa rồi chúng nó đã hết cái kỳ ăn mặn rồi. Từ đây sắp tới chúng nó ăn chay như người chín chắn tu hành rồi đó.

Thầy y tá cười:

- Trường hợp đau yếu phải khác chứ… Ông nới tay cho chú ấy nhờ mà.

Thầy y tá đăm đăm nhìn đường chân mày dài của sư cụ:

- Ông cho chú ăn trứng gà đi ông. Mơi con đem cho chú một chục trứng gà so. Ăn trứng nhiều chất vôi, trứng gà bổ lắm vì tự đó chui ra một con gà con.

Sư cụ nhẹ nhàng khoát tay:

- Bởi đó mà ăn răng được, ăn răng đành.

- Thôi thì ông cho chú ăn trứng gà không trống vậy. Ăn trứng không có khác chi ăn chay.

- Chay răng được mà chay. Ăn như rứa không được mô. Hắn đã qua cái cử ăn mặn rồi bắt hắn ăn trứng ăn cá lúc này là phải tội chết.

Thầy y tá cười:

- Trong cái lúc như lúc này, chú bắt buộc phải ăn chút chất bổ vô người cho có sức. Ăn thịt ăn cá lúc này cũng tỉ như uống thuốc bổ vậy mà ông.

Sư cụ lắc đầu:

- Một giọt mỡ cũng không cho lọt vô bao tử. Muốn lấy sứ, tui cho hắn cả vườn cam của chùa đó.

Thầy y tá đạp xe về rồi. Sư cụ lững thững chống gậy đi vu vơ quanh chùa. Cây dừa cao lêu nghêu xòe lá xanh bóng như giơ tay vẫy gọi những lọn mây trắng từ chân trời kéo lên lớp. Xa xa núi lạnh như trôi lững lờ, vì mây vắt ngang đỉnh. Sư cụ đưa mắt nhìn con thuyền đơn côi nao nao như trong khung cảnh một buổi tiễn đưa nhau trong sương mờ buổi sớm. Con thuyền vắng hơi người chèo chống, hình vóc tàn tạ, nước lưng lưng khoang, rêu lá phủ đầy làm buồn thêm vẻ ủ rũ một mùa sen sấp mất ở Khiêm Lăng. Sư cụ thở dài bước thẩn thờ như đi trong giấc mộng.

Trên con đường nhỏ rẽ vào chùa, một người đàn bà xăm xăm tiến bước thật nhanh.

Người đàn bà chào nhà sư bằng một cái lạy:

- Thưa ông… ông đi dạo?

Sư cụ nhướng cặp mắt leo lét:

- À, bà Sứ…

Người đàn bà mang áo gấm, đi guốc kinh, đeo vòng đeo xuyến. Sư cụ đưa tay sửa chiếc mũ lên đội đầu:

- Nghe nói bà Sứ sắp đi ngoại quốc phải không?

Bà Sứ xuýt xoa:

- Trời lạnh thế này mà ông đi dạo chi cho cảm ông?

Gió thổi hất tung tấm phu la dày, sư cụ cột thêm một vòng vô cổ nữa rồi đứng lùi lại ho khọt khẹt:

- Đi xây quanh một thể cho hắn khoẻ.

- Thôi ông, vô nhà đi không giá… Chiều ni gió nặng.

Bà Sứ lễ mễ xách một giỏ đầy đồ cúng có hai bó nhang dài thò ra. Hai người đi vô ngồi ở bộ ghế mây nhà ngang. Bà Sứ xuýt xoa dạ dạ mấy tiếng xin mượn cái khay bày bánh trái hương hoa ra. Hai bó nhang với hai hộp trà để lên bàn.

Sư cụ phàn nàn:

- Bà biếu xén cho chát chi nhiều quá.

- Có chút cúng Phật mà ông.

Sư cụ kêu Điệu Lý bưng nước. Bà Sứ xin lên lạy rồi xuống thưa chuyện. Bà Sứ trở xuống xoa đầu Điệu Lý:

- Cách mấy tháng bại chân đi chùa không được, bữa ni ngó lại Điệu Lý lớn mau quá!

Sư cụ nhăn nhó:

- Có làm việc chi cực khổ mô mà vẽ không mau lớn. Ăn rồi chơi giỡn thôi, không mau lớn sao được… Ăn rồi phá như giặc vậy.

Bà Sứ nhìn quanh:

- Còn Điệu tê mô rồi?

Sư cụ nhăn nhó:

- Hắn đau.

Bà Sứ mở to mắt:

- Điệu… Điệu Tân đau chi rứa?

Sư cụ chùi mặt:

- Đau chi không biết. Mấy ngày ni cơm lẫn nước không ăn không uống chi hết.

- Ông có cho uống thuốc chi không?

- Thầy Lương chữa cho hắn, thầy cho hắn uống nhiều thứ thuốc lắm.

- Thầy y tá không nói mặc bịnh chi răng ông?

- Thầy chẳng nói bịnh chi cả. Thầy nói nhiều cái rườm rà lắm… bắt cái ni dõi cái tê. Mỗi ngày thầy đều có lại đây coi mạch… Cái thằng không chịu ăn uống chi hết.

Bà Sứ uống một hớp nước rồi tiếp:

- Ông để con xuống thăm Điệu tí đi ông.

Bà Sứ không đi theo sư cụ xuống thăm chú tiểu. Bà bước ra ché sau mở nắp mấy ghè tương cầm chiếc đũa cả khuấy lên một vòng. Hai cái Điệu nhỏ ni làm biếng quá trời, dặn mỗi lần múc tương là phải khoắng đều, múc lên cả nước lẫn cái, rứa mà không nghe, cứ xớt xớt múc hết cả nước ở trên. Cái ghè tương giờ chỉ còn xác phàm. Để biểu thằng Bứa xe lên chùa một lu tương. Bà Sứ đi lần ra sau bếp lần tới sạp gạo dở lên, gạo còn ăn được mười bữa nữa. Ui… để biểu thằng Bứa chở lên cho ông một tạ. Nhà chùa lúc này bết quá. Gạo hết, tương chao cũng hết.

Bà Sứ nhả miếng bã trầu, bước vô buồng xép nói một mình:

- Cau nhà chùa năm ni được mùa ghê, ông ơi, ông đã cho người bửa chưa ông?

Sư cụ và chú Tân cùng giựt mình nhìn ra. Bà Sứ tới ngòi bên người bịnh cầm tay hỏi:

- Điệu có mệt lắm không Điệu?

- Mệt lắm!

- Điệu có đắng miệng không Điệu?

- Đắng.

Bà Sứ cuối xuống:

- Điệu thèm ăn chi Điệu cứ nói ông sẽ cho Điệu ăn.

Chú Tân nhìn sư cụ lắc đầu. Ngay lúc ấy, Điệu Lý bưng cái chén sành chưng bảy lá chanh, bảy củ gừng, bảy quả trần bì, bảy lá kim châm, bảy trái táo tàu, bảy cục đường phèn nóng hổi hương bay.

Bà Sứ đỡ cái chén nói:

- Ăn đi chú! Ăn cho nóng cho ra mồ hôi.

Chú Tân húp được hai muỗng rồi nói vội vã lắc đầu. Bà Sứ ép chú húp thêm, Điệu Lý bưng ly nước cam lại. Bà Sứ nói:

- Thôi ông, ông đi ra ngoài cho con thưa câu chuyện.

Bà Sứ kéo chiếc ghế đẩu ngồi xích vào sư cụ:

- Không biết thầy y tá chửa cách răng đây mà con người ta chẳng ăn chẳng uống chi cả.

Sư cụ hạ kính tuổi xuống:

- Thầy y tá biểu cho thằng Tân ăn mặn đó.

Bà Sứ trợn mắt:

- Hiện ngụy… nói nghe hiện ngụy.

Sư cụ lắc đầu:

- Thầy đòi cho thằng Tân ăn trứng gà đó.

- Trời ơi! Không được rồi đa. Ai lại làm rứa, người ta là người tu hành mà.

Sư cụ gật đầu:

- Thầy còn nói tới chuyện uống nước mắm nữa.

- Bậy, bậy hết sức.

- Thầy nói nước mắm ăn vô một muỗng bổ như uống một thang thuốc. Thầy nói con nít Tây mỗi tuần đều phải uống nửa chén nước mắm.

Bà Sứ trợn mắt:

- Khát nước cho mà chết cha chết bà.

Sư cụ ngồi gục đầu im lìm. Ngày sư cụ chưa vào chùa và còn đi học chữ nho ở ngoài đời, sư cụ là một thiếu niên mạnh giỏi, lanh lẹ, ăn nhiều, sư cụ luôn luôn có tiền trong túi, một hôm phải đi bộ một đoạn đường dài, sư cụ vừa đói bụng vừa khát nước vô cùng vô kể, ngài chỉ mong gặp một quán ăn, ngài hình dung bao màu sắc, bao mùi vị gợi cảm của những thức ăn ngon bổ sẽ đưa từ miệng vào bụng.

Ngồi quán, ngài sẽ ăn ào ào nhưng cuối cùng ngài đã không vào quán, ngài ghé một tiệm chạp phô bên đường mua một cục đường đen nhai từ từ. Lúc đó ngài cảm thấy cục đường đen ngon quá chừng, quá sức, ăn vào đến đâu khoẻ đến đó. Sức lực ngài tăng gấp bội, ngài hào hứng yêu đời.

Phải, một cục đường đen ngon ngọt ngào, ngon hơn bất cứ những thức gì ngon nhất. Chàng thanh niên ăn hết viên đường đen, lấy lại sức khoẻ tiếp tục lên đường. Chàng thấy rằng chàng có ý chí, có quả cảm, có nghị lực và không có những đòi hỏi, cám dỗ. Người ta phải đòi đủ tất cả cho căn phần người ta. Chàng, chàng chỉ một cục đường đen cũng đủ.

Bà Sứ, vứt cái bã trầu khỏi miệng:

- Chữa bịnh phải từ từ chứ cấp cấp làm sao được.

Sư cụ lắc đầu:

- Thầy y tá làm như chữa lửa.

Bà Sứ cho miếng trầu mới vào miệng:

- Thầy theo cách Tây.

- Đã đi tu thì phải tu cho đến cùng. Tui nhất định không cho thằng nhỏ phạm giới.

Ông dạy quá phải đi ông. Nói như thầy y tá thì lúc nào các sư sãi bịnh là các ngài phạm giới cả hay sao?

- Uống sữa cũng bổ lắm rồi. Phải luyện cho thằng nhỏ có ý chí ngay lúc này.

- Dạ, phải tụng kinh, phải cầu nguyện nhiều cho chú.

Bà Sứ đi vào buồng xép cầm tay chú tiểu nhỏ. Điệu ơi, Điệu cố mau lành bịnh nghe Điệu, Điệu chấp tay tụng kinh, Điệu cầu nguyện đi. Lúc nào ngủ thì thôi còn hễ thức thì Điệu cầu nguyện đi nhá. Đau ốm bịnh tật hoạn nạn mà cầu nguyện Trời Phật là không còn gì hơn.

Mình là con Phật, mình đau tức Phật ra tay cứu. Bà Sứ ra ngoài ngồi trước mặt sư cụ. Được, ông à, bắt chú cầu nguyện riết vào, không cho chú ăn mặn, tuyệt đối không cho một cái tròng đỏ trứng gà, một giọt mỡ, một muỗng nước mắm cũng không cho. Phải bắt chú lập công quả ngay từ bây giờ. Thầy y tá lại thì ông canh chừng thầy chỉ việc chích thuốc cho chú ấy thôi, ông phải ngó chăm chăm thầy, đừng cho thầy nhét trứng gà vào miệng chú. Thôi, thưa ông con về, để mơi mốt con lại đến thăm chùa và kỉnh ông một lu tương hột với tạ gạo. Chùa lúc này tương chao gạo củi gì cũng sắp cạn rồi.