← Quay lại trang sách

Cây Phượng Bên Chân Cầu Trường Tiền

Mỗi năm một lần vào mùa hè, cây Phượng bên chân cầu Trường Tiền nở hoa rực rỡ. Sắc hoa đỏ pha hồng vào giác chiều tím bầm như xác pháo. Màu hoa như chạm nổi vào bầu trời bềnh bồng mây trắng đuôi chồn. Ấy là cái màu hoa đỏ khát khao, cuồng nhiệt của một thời áo trắng không thể nào quên. Con trai con gái Huế phải lòng nhau, hay tìm đến gốc cây Phượng này như một địa chỉ của Vườn Thuý. Vật để gieo cầu tin yêu là những cánh hoa Phượng đỏ. Hoa rút ra từ tơ lòng nên có mầu sắc riêng, phập phồng như nhịp đập của trái tim. Uống nước dòng Hương và được sưởi ấm bởi những bàn tay tình nhân, mỗi năm cây Phượng một rậm rạp ra. Gốc đã to hơn một vòng tay của đàn ông, xù xì những thớ gỗ bọc thành múi gân guốc. Thân cây đen mốc những rêu xanh nhung mịn. Ở sát với mặt đất lát đá hộc, một chiếc đinh to không hiểu ai đó đã đóng ngập vào thân cây. Nhưng Phượng vẫn lớn, vẫn xanh và đợi con ve sầu kêu là nở bùng hoa đỏ. Gieo từ trời cao xuống, những lúm hoa như những chiếc lúm đồng tiền mời gọi một nụ hôn nồng thắm. Nhưng đâu chỉ có con trai con gái lấy cây Phượng làm nơi hẹn hò. Thỉnh thoảng, cây Phượng lại mở rộng vòng tay đón một đôi chim Vành Khuyên lạc rừng về đây âu yếm.​

Nhiều năm sống, cây Phượng đã trở thành một phần không thể thiếu được của thành phố Huế. Để lịch sử thành phố tiếp tục với những giả định: nếu như không có sông Hương, nếu như không có cầu Trường Tiền, và nếu như không có cây Phượng đỏ bên chân cầu....thì thành phố Huế sẽ thế nào? Huế sẽ nghèo đi biết mấy. Mà đúng là như vậy. Với người yêu nghệ thuật nhiếp ảnh, chỉ có một góc ưu việt nhất để bắt cái thần của cầu Trường Tiền là đứng ở đường Nguyễn Đình Chiểu sau lưng Đài Phát thanh - Truyền hình Thừa Thiên Huế, lấy cây Phượng làm tiền cảnh và lia máy ôm gần trọn thân cầu.​

Gần một chục năm nay năm nào cũng vậy, cứ đến mùa hoa Phượng nở, tôi lại tha thẩn ra chân cầu Trường Tiền chong mắt đếm những cành Phượng đỏ. Vẫn là mười ba cành. Cũng gần mười năm rồi cây Phượng không ra thêm một cành nào. Chỉ có hoa là nhất thuỷ nhất chung, mỗi năm một lần đỏ trời đỏ đất đỏ vai con trai con gái mỗi dịp hè về. Không hiểu là có nên xếp cây Phượng này vào loại "di tích sống" hay không? Chứ mỗi năm Phượng cũng đã tiếp ngót nghét chục ngàn lượt khách trong và ngoài tỉnh. Có người đi qua lần đầu chỉ thấy cây Phượng hay hay. Đứng một mình mà làm cả mùa hè. Còn với cư dân Huế, cây Phượng là thước đo niềm vui, nỗi buồn, những kỷ niệm chưa bao giờ phai nhạt. Trên lớp vỏ dày xù xì thời gian vẫn còn đọng mãi những vết khắc vụng dại. Dấu khắc có khi là một cái tên người trọn vẹn. Có khi chỉ là hai chữ cái xoắn vào nhau trong một ô van trong ngần tuổi học trò. Vỗ nhẹ vào thân cây nghe như đâu đó dưới mặt sông có tiếng cười âm vang. Rồi một tà áo tím bạch như áo lụa Hà Đông của Nguyên Sa đi qua cội lòng như một giấc mơ đã nhoà hương sắc.​

Năm nay mùa hoa Phượng nở, tôi lại tha thẩn ra chân cầu Trường Tiền ngắm cây Phượng đỏ. Và đếm số cành trên cây: một, hai, ba, bốn, năm... vẫn là mười ba cành. Sao lại là mười ba? Tôi tự hỏi mà lòng mà lòng không thể trả lời được. Nhưng kìa, từ một nách cành phía lòng sông Hương, một chồi Phượng nhỏ như ngón tay út người lớn đang nhu nhú mọc. Giữa một bầy hoa đỏ, chiếc chồi xanh mạnh mẽ và lạc loài đâm vào kỷ niệm xưa.

* Bánh Canh Nam Phổ

Có gì lạ đâu, chỉ là bột gạo viên lại rồi cắt thành lát dài, nấu với tôm và thịt heo nạc, ấy thế mà bánh canh Nam Phổ nổi tiếng khắp cả nước

Từ hàng trăm năm nay, nấu bánh canh bán dạo đã trở thành nghề gia truyền của người làng Nam Phổ. Một gánh bánh canh là đủ chạy gạo cho cả gia đình. Có năm thịnh, cả làng Nam Phổ nấu bánh canh bán dạo khắp vùng Huế. Dù đơn giản, nhưng để nấu được một nồi bánh canh Nam Phổ cũng khá công phu. Từ buổi sáng các mẹ, các chị đã dậy sớm để đi chợ, lựa mua cho được những mớ tôm tốt nhất. Tôm nấu bánh canh phải là tôm đầm, thịt đậm đà, đặc biệt là không tanh. Thịt heo cũng phải là thịt ba chỉ vừa nạc, nhưng mỡ phải dày. Tôm và thịt heo mua về được trộn đều giã nhỏ, lớp gia vị vừa phải và viên tròn thành chả. Trong quá trình giã có trộn lẫn một ít hạt điều để tạo màu.

Thường đúng trưa các mẹ mới nhen lửa nấu bánh canh. Đợi nước sôi vùng mới bắt đầu cho bột vào và hạ dần lửa. Khi bột vừa chín, bỏ tôm và thịt đã viên tròn vào nồi. Do hạt điều trong chả viên, từ màu trắng nồi bánh canh chuyển sang màu đỏ sậm. Ngay cả phần thịt heo nạc giã nhỏ trông cũng có màu đỏ như tôm. Dùng vá khoáng chậm và đều cho đến khi đáy nồi sênh sếch, là vùi lửa giữ nóng. Về cơ bản đến đây bánh canh đã chín. Có thể múc ra cái bát trẹt, sức chứa bằng một chén lớn, vừa thổi vừa ăn. Nhưng muốn ngon phải cầm lòng một tí để các mẹ làm cho chén nước mắm ớt. Đây mới thực là một tuyệt chiêu bởi nước mắm ăn kèm với bánh canh Nam Phổ là thứ nước mắm cốt làm từ con huyết Cửa Thuận, có màu vàng sậm như rượu vang, bỏ hạt cơm vào cơm vẫn nổi lên. Giữa trời đông, Huế lạnh như cắt, cứ một bát bánh canh Nam Phổ đỏ sậm, chơi lên vài thìa nước mắm ớt, vừa ăn vừa xuýt xoa, mới hay cái ngon ở đời nào chỉ là nem công, chả phụng.

Không chỉ ngon và rẻ, đi với gánh bánh canh Nam Phổ còn có một nét văn hoá phổ quát rất Huế, đó là chiếc áo dài. Vận chiếc áo dài nái thâm nối vai kín đáo, các mệ các chị lúp xúp quảy đòn gánh đi khắp nơi. Chiếc áo đã thêm vào ẩm thực Huế một nét văn hoá độc đáo. Và các mệ, các chị không còn là người bán thức ăn dạo bình thường mà là sứ giả của cái đẹp, mang lại cho phố phường một sự lãng mạn hiếm thấy. Gần đây, người bán bánh canh Nam Phổ không còn mặc áo dài nữa, đó là một nỗi mất mát lớn của Huế.

Trong xu hướng đô thị hoá, ẩm thực Huế cũng có nhiều thay đổi. Các quán phở, quán bún mọc lên nhan nhản. Người mê bánh canh Nam Phổ cũng không còn mấy. Có còn chăng chỉ là những người lao động nghèo, mà bát bánh canh hợp với túi tiền. Riêng với người sành ăn, gánh bánh canh của mệ Dự, mệ Bê là ngon nhất. Mới đây, mệ Dự sau gần sáu mươi năm trong nghề, tuổi cao sức yếu mệ đã giải nghệ. Gánh bánh canh bây giờ mệ chuyền tay cho con gái. Còn mệ Bê, do bán ở Huế ế ẩm, mệ chuyển sang bán ở phố cổ Bao Vinh. Cứ vào giác đầu giờ chiều, nhiều người thấy mệ đi đò ngang, khuôn mặt đăm chiêu buồn, gánh bánh canh đặt trên sạp ghe, thoang thoảng mùi tôm đầm Chuồn và vị nước mắm Cửa Thuận.