Trên Sông Khói Sóng
Thưở nhỏ nghe Kiều, đọc Kiều, lòng vui buồn theo cuộc đời chìm nổi của Thuý Kiều. Ngày Kiều bán mình, trời đất rỏ lệ, mưa đòi đoạn sụt sùi. Ngày Kiều ở lầu Ngưng Bích mùa xuân ảm đạm như tang tế. Ngày Kiều đội đèn hầu nhà Hoạn, sao mà tàn liễu nát hoa. Rồi sảng khoái cười khanh khách cái ngày Kiều làm đệ nhất phu nhân "Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi" để ân đền oán trả những phường ưng khuyển. Nhưng đời Kiều chỉ hạnh phúc khi gặp sông Tiền Đường - con sông duy nhất trong truyện Kiều chảy bàng bạc như một lời định mệnh, hoá giải bao nhiêu trong đục của đời Kiều. Dường như là đã có một mối liên hệ bí ẩn giữa số phận Kiều và sông Tiền Đường, mà rộng ra là những liên hệ thầm kín giữa số phận con người và số phận những dòng sông. Sự so sánh giữa đời người bằng dòng sông gợi lên tất cả sự nếm trải, những niềm vui nỗi buồn, bi tráng và nhiều thương cảm.
Khởi đầu từ núi cao và kết thúc ở bể cả, những dòng sông đã hoài thai trong chính bản thân nó sự bất diệt của đời người. Và cũng giống như con người, mỗi dòng sông mang trong lòng nó một số phận với tư chất riêng. Chẳng hạn như xanh, trong và đầy đó là tư chất của sông Hương. Mãnh liệt, đục ngầu bụi đỏ là tư chất của sông Hồng. Mênh mông và duyên dáng những dề lục bình trôi, đó là tư chất của sông Hậu, sông Tiền. Trẻ trung, cuồng nhiệt và thơ dại đó là tư chất của sông Vệ, sông Hàn. Nhưng dù có khác biệt nào thì tất cả những dòng sông đều hàm dưỡng phù sa, và mang cho đất mẹ một niềm tin mới về sức mạnh thực sự của những hạt đất bền bỉ. Mà trên đó cha mẹ ta ngày ngày cày cấy, đổ mồ hôi mong đợi những mùa vàng. Nhưng cũng có một hiển nhiên là những dòng sông luôn gợi lên một cái gì đó là sự cách trở, không thể nào hàn gắn được. Có ngăn cách nào lớn hơn sự ngăn cách của những dòng sông, nơi ngày xửa ngày xưa, cái thưở binh đao, người lính Thú triều Nguyễn chống kiếm đại trượng phu "bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa". Hơn 200 năm Trịnh Nguyễn phân tranh, sông Gianh là nỗi đau của sự phân cách. Nhiều trăm năm sau đó, nỗi đau Hiền Lương lại một lần nữa gọi cả dân tộc làm một cuộc kháng chiến trường kỳ. Những lá thư vượt tuyến đã xoá đi cái ranh giới hữu hình chia cắt Bắc - Nam. Đêm thao thức nhìn lên sao Hôm, bao nhiêu đôi trai gái đã trở thành những Ngưu Lang - Chức Nữ, thắc thỏm đợi một nhịp cầu Ô Thước. Ngày ra đi đưa tay hẹn hai năm sẽ về, nhưng đó là một cuộc đi dài ngót hai mươi năm có lẻ.
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Chợt một ngày tôi đọc lại câu ca dao xưa, cái mô típ tưởng chừng đã cũ là THUYỀN và BẾN, bỗng hiện ra trong một màu nghĩa mới, đong đầy nước mắt chia ly. Nhưng người xưa thâm thuý, câu ca dao nào chỉ lạm bàn chuyện con gái con trai, mà theo tôi đó là bản chất triết học của đời sống, mối quan hệ vô cùng giữa cái bất dịch và cái biến dịch, được diễn nôm bằng hình ảnh gợi cảm phổ biến và dễ nhớ là thuyền và bến. Đi suốt một đời, thuyền đã qua bao bến sông, bao nhiêu nước dưới lòng thuyền đã chảy. Hờ hững và cuồng nộ, dữ dội và dịu dàng, những dòng sông đã phổ vào tâm hồn con người bản giao hưởng của ánh sáng, màu sắc và hương thơm. Phải chăng là chỉ cần một ánh đèn chài nhỏ trên sông, từ những thất vọng ê chề ta trở lại với bao hy vọng và một chút khói sóng lam mờ sẽ thuốc thang cho những vết đau tâm hồn.
Nửa đời đi, đã qua nhiều những con sông nước Việt, kể không hết những ngọn nguồn quên lãng, chợt một ngày dừng lại dưới chân cầu Tràng Tiền, ngắm sắc xanh kiêu hãnh của dòng Tiền Đường mải mê xuôi về bể cả, chợt thấy lòng ấm lại, ai như bóng Kiều thấp thoáng bên những ngò cải đơm hoa.